Bài văn Cảm nhận về quê hương và người dân tại quê cha đất tổ trong tác phẩm Cố hương hay nhất, ngắn gọn, bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tuyển chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9. Hi vọng rằng với cảm nhận về quê hương và người dân trong Cố hương này, các bạn sẽ thích và viết văn tốt hơn.
Top 40 Cảm nhận về quê hương và người dân tại quê cha đất tổ trong tác phẩm Cố hương
Cảm nhận về quê hương và người dân tại quê cha đất tổ trong Cố hương – mẫu 1
Lỗ Tấn (1881 – 1936) là một nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Trong truyện ngắn “Cố hương,” ông miêu tả một cách sống động và cảm động về tình cảm quê hương, ghi lại kí ức tuổi thơ và phản ánh số phận của những người dân trên đất tổ. Những nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, và chị Hai Dương – họ là biểu tượng của quê hương, với những niềm vui và nỗi buồn, với tình thân thiết và nghĩa tình sâu nặng.
Sau hơn 20 năm xa cách, khi tôi trở về thăm quê, trái tim tôi rạo rực không ngớt. Mặc dù phải vượt qua hàng ngàn dặm trong một mùa đông lạnh giá, lòng tôi vẫn đầy xúc động. Khi gần đến làng, trời lại trở nên u ám, xóm thôn xa dần, những hình ảnh quen thuộc dần phai nhạt, và lòng buồn tràn ngập tôi. Việc trở về quê hương không phải lúc nào cũng mang lại niềm vui, đặc biệt khi tôi phải chia tay ngôi nhà cũ để sang nơi mới. Quê hương không chỉ là nơi gắn bó với ký ức tuổi thơ, mà còn là nơi ghi dấu của tổ tiên. Trong truyện “Cố hương,” tác giả đã diễn tả một cách chân thực và xúc động về quê hương và tuổi thơ, một tình yêu bền vững và sâu đậm. Mẹ tôi, dù đã già, vẫn giữ vững nét hiền hậu và ân cần như ngày nào, luôn lo lắng cho tôi và các con cháu. Việc gặp lại mẹ sau một thời gian dài xa cách là một niềm vui lớn đối với tôi, nhưng trong ánh mắt của mẹ vẫn ẩn chứa nỗi buồn sâu thẳm. Mẹ đã phải chịu nhiều gian khổ và tiếc nuối, từ việc bán nhà đến việc rời xa quê hương để theo con trai. Tình thương mẹ dành cho con cháu và tình người của mẹ đã được tác giả thể hiện rõ trong “Cố hương.”
1. Khai mạc
- Giới thiệu tác giả Lỗ Tấn: Một nhà văn tài năng với ước muốn sử dụng văn chương như một vũ khí tinh thần chống lại sự ngu muội và lạc hậu.
- Tổng quan về tác phẩm Cố hương: Một tác phẩm phản ánh những lo âu của tác giả thông qua cuộc hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”.
2. Nội dung chính
- Trên đường trở về quê hương
- Tình hình: Trời lạnh buốt, mùa đông, sau hơn 20 năm rời xa, nhân vật “tôi” quay trở lại quê nhà.
b. Những ngày ở quê
- Nhân vật “tôi” trải qua những ngày ở quê hương:
+ Chị Hai Dương: 20 năm trước, là một phụ nữ quyến rũ, được mọi người yêu mến. Sau 20 năm, trở thành một người phụ nữ không chỉ xấu bề ngoài mà còn tính cách.
+ Nhuận Thổ: Trong tuổi thơ, là một cậu bé nông dân khoẻ mạnh, thông minh và hiểu biết. Hiện tại, trở thành một người nông dân già nua, đầy khổ cực và mỏi mệt, chấp nhận số phận.
⇒ Nguyên nhân: Sự biến đổi này là kết quả của lối sống lạc hậu của người nông dân, từ sự thực tối tăm của hiện thực đến sự suy tàn của xã hội phong kiến.
+ Nhân vật Thủy Sinh: Giống hệt bố về tính cách nhút nhát, chỉ dám ẩn náu sau lưng bố. So với Nhuận Thổ 20 năm trước, “gầy gò, với bộ cơ bắp không đeo vòng bạc”
c. Trên đường rời xa quê hương
- Tình cảnh: Buổi chiều dần buông tà dần ⇒ sắp xếp khéo léo bố cục đầu cuối phù hợp, đồng thời khoảnh khắc hoàng hôn cũng khơi lên nỗi buồn, suy tư
d. Hình tượng con đường
- Con đường ven sông, dòng thủy (nghĩa đen): Đi mãi cũng trở thành con đường. Đó chính là con đường mà tôi và gia đình đang đi.
- Con đường góp phần xây dựng, đổi mới cho dân tộc Trung Hoa, đó là niềm hi vọng của các nhà văn cho một tương lai sáng sủa cho toàn dân tộc (nghĩa bóng).
3. Kết thúc
- Tóm tắt lại những giá trị nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên thành công của tác phẩm
- Kết nối với con đường của quốc gia, con đường của bản thân
Khi nghe người mẹ nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức trong lòng tôi như 'đuốc sáng lên trong khoảnh khắc'. Chỉ cần nhớ về Nhuận Thổ, tôi đã cảm nhận được 'quê hương tôi đẹp tới mức nào'. Nhuận Thổ là biểu tượng của tuổi thơ đẹp và của vẻ đẹp của quê hương đối với tôi, như một 'vành trăng non trên bầu trời xanh của thời niên thiếu'. Những kỷ niệm về Nhuận Thổ trong quá khứ càng tươi đẹp bấy nhiêu, càng làm cho cuộc gặp gỡ này trở nên xa lạ và đau đớn bấy nhiêu.
Cuối cùng của câu chuyện ngắn, tác giả đề cập đến việc đi trên con đường: 'Giống như những con đường trên mặt đất; thực ra, trên mặt đất không có con đường nào. Mọi thứ trở thành đường khi người ta đi.'. Con đường ở đây có thể là con đường thoát nghèo, con đường tìm kiếm hạnh phúc, hoặc có thể là con đường tương lai. Tác giả đã liên kết giữa hy vọng và con đường. Có lẽ tác giả đang hy vọng, tin rằng sẽ có một con đường nào đó dẫn tới hạnh phúc cho những người dân nghèo, một con đường cách mạng đến tương lai? Câu cuối cùng này làm cho câu chuyện trở nên sâu sắc hơn và thể hiện tầm nhìn, nỗi đau đi tìm hạnh phúc cho dân tộc.
Cảm xúc về hình bóng quê nhà và con người ở quê cha đất tổ trong Cố hương – mẫu 3
Trong quá trình phát triển văn học Trung Quốc, không thể không nhắc đến một nhà văn đặc biệt với quan điểm 'Văn chương là liều thuốc điều trị tinh thần cho quốc dân' - Lỗ Tấn. Ông đã để lại cho thế giới biết bao công trình nghiên cứu cũng như các tác phẩm văn học có giá trị, trong đó có hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét và Bàng hoàng. Trong tập Gào thét, tác phẩm nổi bật nhất là Cố hương, nơi hiện ra hình ảnh một quê hương qua nhiều năm xa cách và những con người ở đó chứa đựng bao nỗi buồn, hy vọng.
Trong lời mở đầu của tác phẩm, Lỗ Tấn tái hiện lại hình ảnh quê nhà sau 20 năm xa cách. Thường thì khi trở về sau một thời gian dài rời xa quê hương, người ta sẽ cảm thấy hồi hộp, vui mừng và mong ngóng. Nhưng tâm trạng của tác giả lúc này có vẻ khác biệt. Nhìn ra từ trên thuyền, thôn xóm hiu quạnh, nằm im dưới bầu trời vàng úa khiến 'lòng tôi se lại'. Đúng vậy! Không thể không buồn, không đau lòng khi quê hương không còn như xưa. Và tác giả nghĩ 'Dù chưa tiến bộ hơn nhưng vẫn quá tiêu điều'. Lần này về quê không phải để thăm nhà mà là để 'tạm biệt ngôi nhà thân yêu và rời xa làng cũ để đến một nơi xa lạ để kiếm sống'. Buồn bã và tiêu điều của quê hương khiến lòng tôi càng nặng thêm và thốt lên 'làng cũ của tôi đẹp hơn kia'. Quê hương trong quá khứ của tác giả là những ký ức tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp. Đó là những ngày 'thầy tôi còn', nhà sung túc. Năm đó, gia đình tôi tổ chức giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông. Cố hương còn là nơi có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ và những kỷ niệm kỳ lạ của một cậu bé từ vùng biển. Nhắc đến Nhuận Thổ, tôi lại nhớ đến một miền quê thanh bình tuyệt đẹp: 'Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên bầu trời xanh, dưới là một bãi cát ven biển, trồng đầy dưa hấu, màu xanh rờn bát ngát'. Những ký ức đó mãi còn trong tâm trí tôi, tạo ra một hình ảnh quê nhà thật đẹp, thật hạnh phúc. Như vậy, tác giả đã gợi lên hình ảnh của quê nhà ở hai thời điểm khác nhau: quá khứ và hiện tại. Quê hương trong ký ức là những điều tươi đẹp, còn trong hiện tại là sự tiêu điều, thê lương đầy xót xa.
Quê hương đã đổi thay, đâu còn như trước. Vậy người dân quê thì sao? Họ như thế nào, có thay đổi không? Người đầu tiên đón "tôi" đó là mẹ "Mẹ tôi mừng rỡ nhưng ẩn một nỗi buồn thầm kín". Niềm vui của mẹ không trọn. Vui vì con đã về nhưng buồn vì cảnh nhà sắp phải dời đi, lìa xa quê nhà, ròi bỏ quê cha đất tổ. Việc li hương mẹ đã biết và đã chuẩn bị sắp đặt mọi thứ nhưng phải xa nơi chôn nhau cắt rốn không buồn sao được. Mặc dù vậy mẹ vẫn chu đáo, ân cần, hiền từ " mẹ bảo tôi ngồi xuống, nghỉ ngơi, đi thăm các nhà bà con". Mẹ còn nói đến chuyện Nhuận Thổ và động lòng. Mẹ vẫn vậy, vẫn thương con và thương người. Nếu có khác thì là bây giờ trong lòng mẹ đang chất chữa nỗi buồn xa quê.Con người nơi cố hương trong hồi ức của "tôi" hằn sâu hơn cả ấy là Nhuân Thổ. Chẳng thế mà khi nghe mẹ nhắc đến Nhuân Thổ lập tức kí ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. "Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi". Trong tâm trí "tôi" là hình ảnh cậu bé trạc mười một, mười hai tuổi, khuôn mặt bầu tròn trĩnh, nước da bánh mật, đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòn bạc sáng loáng". Cậu bé ấy mang đến bao câu chuyện kì thú mà tôi chưa bao giờ được nghe. Nào là chuyện bắt Tra vào ban đêm để trông ruộng dưa đến kì thu hoạch, nào là sự kì thú của việc bẫy chim trên tuyết, rồi đến cả việc đi nhặt vỏ sò trên biển với đủ loại kì lạ. Những câu chuyện trẻ thơ ấy khiến cho tôi và Nhuận Thổ "thân nhau lắm", gọi nhau là anh em. Chẳng thế mà khi hết vụ, Nhuận Thổ phải theo cha về mà chúng tôi đã khóc, buồn lắm, chỉ mong đến vụ sau để được gặp nhau. Trong kí ức thơ bé của tôi, Nhuận Thổ là một phần tươi đẹp của cố hương. Đó là Nhuận Thổ trong quá khứ. Còn Nhuận Thỏ trong hiện tại thì sao. Biết tin gia đình "tôi" chuyển nhà, Nhuận Thổ đến chơi. Sau bao nhiêu năm xa cách nay gặp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da bánh mật mạnh khỏe trước kia nay đã "vàng xạm" đi và điểm thêm trên đó là những nếp nhăn trên mặt "sâu hóm''. Cặp mắt, mí mắt "viền húp đỏ mọng lên". Vì yêu quý mà cha Nhuận Thổ đội cho cậu chiếc mũ long chiên tươm tất, đeo vòng bạc nhưng nay là chiếc mũ lông chiên "rách tươm". Trên người anh chỉ mặc một cái áo bông "mỏng dính" giữa lúc trời rét dữ. Cái vẻ nhanh nhẹn đâu còn thay vào đó là dáng người "co ro cúm rúm". Vì vất vả nên đôi bàn tay giờ đây "vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông". Ngoại hình, dáng vẻ của Nhuận Thổ khác xưa quá! Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ lẽ ra phải vui mừng khôn xiết thế nhưng đan xen vào đó có cả sự "thê lương". Anh mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới "cung kính" nói được hai tiếng: "Bẩm ông!". Hai tiếng "Bẩm ông" nghe sao nhói lòng, xa cách quá đỗi làm ''tôi như bị điếng người". Trong tư tưởng của Nhuận Thổ, "tôi" không còn là người bạn thuở niên thiếu nữa, không phải là anh em nữa mà là bề trên, người trên, hạng trên. Cách xưng hô ấy mới đúng tôn ti trật tự xã hội phong kiến. Nhân vật tôi nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói cảm thấy nặng trĩu, chua xót trong lòng. Không chỉ vậy, có thể vì đói nghèo mà Nhuận Thổ còn giấu bát đĩa vào đống tro để ít nữa mang về như lời thím Hai Dương nói. Nhuận Thổ của trước kia đâu còn nữa, thay vào đó là một Nhuận Thổ khốn khổ, đói nghèo, bé nhỏ. Đẩy Nhuận Thổ vào tình cảnh như thế, đó là "mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào...chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả". Như vậy, Nhuận Thổ là nạn nhân đau khổ của xã hội phong kiến đầy bất công, bóc lột người nông dân đến tận xương tủy.Nhân vật thứ hai do hoàn cảnh mà thay đổi tâm tính, đó là Thím Hai Dương - nàng Tây Thi đậu phụ với dáng người compa trông đến lạ. Trước kia thím "hay bế tôi". Nay gặp lại thím tôi thấy lạ bởi cái giọng "the thé, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, chân đứng chạng ra giống hệt cái compa, hai chân bé tí". Tôi càng lạ và buồn hơn khi thím xin các đồ gỗ không được thì lẩm bẩm và khi ra về "tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần". Có lần thím tự ý lấy cái" cẩu khí sát rồi chạy biến". Người phụ nữ này cũng đã đổi khác có lẽ do họ nghèo quá, bần cùng quá mà sinh ra những "tàn nhẫn". Thím hai Dương cũng là một nạn nhân nữa của xã hội phong kiến.
Sự thay đổi của quê hương và của những người dân ở đây - Nhuận Thổ và thím Hai Dương đã khiến tôi cảm thấy đau lòng, xót xa. Từ đó, tôi nuôi hi vọng vào một xã hội tốt đẹp hơn, một cuộc sống dễ dàng hơn cho người nông dân. Hi vọng ấy được đặt vào Bé Hoàng và Thủy Sinh. Tôi mong họ không phải gánh chịu khổ đau... họ cần một cuộc sống mới, một cuộc sống mà họ chưa từng trải qua. Niềm tin ấy, tôi nâng lên như một đường đi trên mặt đất, bởi thực tế là, khi ta đi mãi, thì mọi thứ sẽ trở thành con đường.