Bài văn Cảm xúc đầy nghẹn ngào của nhà thơ khi thăm Lăng Bác hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9. Hy vọng với cảm xúc đầy nghẹn ngào này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.
Top 40 Cảm xúc đầy nghẹn ngào của nhà thơ khi thăm Lăng Bác
Cảm xúc đầy nghẹn ngào của nhà thơ khi thăm Lăng Bác - mẫu 1
Nỗi mong chờ và ao ước của dân tộc được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi để lại niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân miền Nam, Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viền Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm. Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Trong sương, hàng tre mơ màng
Ó, hàng tre xanh mát Việt Nam
Tình cảm của nhà thơ chân thành và gần gũi. Đối với chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là niềm vinh dự. Nhưng tình yêu thương của tác giả dành cho Bác không hề giảm. Câu thơ ấm áp thể hiện tình người, gọi Bác là “con”. Vì mọi người đều là con trung hiếu của Bác, xem Bác như ‘cha, bác, anh”. Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc sâu sắc. Đoạn thơ tạo không khí ấm áp, gần gũi. Tác giả chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của dân tộc để mở rộng bài thơ, xa xôi nhưng cũng gần gũi hơn. Nhắc đến cây tre, ta nghĩ tới dân tộc Việt Nam với đức tính cao quý. Tre gan dạ trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
'Nòi tre không chịu gượng cong
Chưa lên đã sắc nhọn chưa từng thấy'
Tre đã trải qua nhiều gian khổ, nhưng vẫn kiên cường đứng vững giữa bầu trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục bọn giặc cướp nước “Dù bão táp mưa sa cũng vẫn thẳng thắn đứng'.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhìn thấy:
'Mỗi ngày, mặt trời lặn dần trên lăng
Thấy mặt trời bên trong lăng rực đỏ.'
'Ngày hôm qua, người dòng trải lòng nhớ
Kết thành hàng hoa, đẹp bảy mươi chín mùa xuân.'
Hình ảnh dòng người đi trong nỗi nhớ nhung biến thành những tràng hoa không chỉ là sự so sánh về thực tế mà còn là biểu tượng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi đẹp đó đang dâng lên Người những điều tốt đẹp nhất. “Dâng bẩy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh ám chỉ ý nghĩa sâu xa. Con người đó đã trải qua một cuộc sống như mùa xuân và đã tạo ra những mùa xuân cho đất nước và con người. Nhà thơ, khi vào lăng, nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ yên bình giữa dòng sáng nhẹ nhàng. Ánh sáng đó được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền hòa:
'Bác nằm trong giấc ngủ êm đềm
Giữa ánh trăng dịu dàng hiền lành
Bấy lâu nay, trời xanh vẫn mãi bất biến
Nhưng lòng ta vẫn rạo rực và nhói đau!'
Ánh sáng mờ ảo của những đèn trong lăng khiến nhà thơ liên tưởng đến “ánh trăng”. Tác giả hiểu biết sâu sắc về Bác qua liên tưởng kỳ lạ này. Vì trăng với Bác là một cặp đôi tri âm tri kỷ. Ánh trăng mềm mại từng chiếu sáng cho Bác trong nhà lao, trên chiến trường, và bây giờ, trăng lại đến để ru giấc ngủ cho Người. Bằng hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”, nhà thơ muốn tạo ra một hình ảnh vũ trụ để so sánh với Bác. Bác có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu dàng như ánh trăng. Bác của chúng ta là như vậy. “Mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh” đều là biểu tượng của sự vĩ đại, rực rỡ và cao siêu của con người và sự cống hiến của Bác. Biết rằng Bác sẽ mãi sống trong tâm trí của nhân dân và sự nghiệp cách mạng như trời xanh vô hạn trên cao. Tuy vậy, nhà thơ vẫn cảm thấy đau đớn trong lòng khi đối diện với thi thể của Người: “Nhưng lòng ta vẫn rát nhói!”. Đó là nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là biểu hiện chân thành của cảm xúc.
Trong lòng lăng Bác, khi nghĩ đến việc phải rời xa Bác, Viễn Phương cảm thấy rất buồn. Tình cảm của nhà thơ trong thời gian đó luôn sâu lắng, đau đớn nhưng đến lúc này, Viễn Phương không thể nào kìm nén được nữa. Dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao nhất và mơ hồ nhất “về miền Nam, đầy nước mắt”. Chỉ cần nghĩ đến việc trở về miền Nam, tác giả đã không kìm nén được nước mắt, tiếc nuối khi phải chia tay, không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Trong câu thơ này, tác giả không sử dụng nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình yêu thương sâu lắng từ tấm lòng nhưng lại làm cho người đọc xúc động. Một cách nói không hoa mỹ, chân thành như người dân Nam bộ, nhưng lại chứa đựng nỗi thương yêu đau đớn không thể diễn tả. Tác giả thể hiện lòng trung thành và tình cảm vô hạn với cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm cho người đọc cảm thấy đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi đó là lời nói chân thành xuất phát từ tấm lòng.
'Ước gì trở thành chim hót quanh lăng Bác
Ước gì trở thành đóa hoa thơm nở ở đây
Ước gì trở thành cây tre trung hiếu ở nơi này.'
Từ ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre khéo léo khép lại bài thơ. Mong ước chân thành của nhà thơ là được gần Bác, đó cũng là ước nguyện của tất cả chúng ta:
'Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên người một chút.'
Bác của chúng ta giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và cuộc đời Người vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Dàn ý Cảm xúc bồi hồi xao xuyến của nhà thơ khi đến thăm Lăng Bác
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận, trích dẫn nhận định từ đề bài.
II. Thân bài
- Cảm hứng chủ đạo bao trùm toàn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn và nỗi xót xa khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác.
- Cảm hứng ấy thấm nhuần giọng điệu bài thơ: giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau xen lẫn niềm tự hào.
1. Khổ thơ đầu: cảm xúc của người con miền Nam lần đầu ra viếng lăng Bác
- Chỉ trong một thông báo ngắn ngủi nhưng xúc động đã diễn tả được tâm trạng của người con từ chiến trường miền Nam đến thăm lăng Bác
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
- Hình ảnh hàng tre, gắn liền với làng quê Việt Nam, khiến tác giả bừng bừng ấn tượng: nó thân thương, gần gũi như dòng máu dân tộc.
+ Cây tre trở thành biểu tượng của sức mạnh bền bỉ, kiên cường và thẳng thắn của người Việt Nam.
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
+ Cây tre là bằng chứng sống động về phẩm chất của con người Việt Nam.
2. Hai khổ thơ tiếp theo: Tình cảm của tác giả khi hòa mình vào dòng người viếng lăng
- Sự kết hợp giữa hình ảnh ẩn dụ và hình ảnh thực tạo nên cặp đôi sóng đôi đầy ý nghĩa.
Mỗi ngày mặt trời lặng lẽ qua trên lăng
Thấy một mặt trời ửng hồng trong lăng
- Hình ảnh thực tại của mặt trời vẫn rực rỡ, điều thường ngày luôn diễn ra trên lăng.
+ Mặt trời được ẩn dụ là Bác, nguồn sáng vĩnh cửu soi đường cho dân tộc.
+ Sắc đỏ tươi tắn trong câu thơ tạo nên hình ảnh đẹp, ấn tượng, thể hiện tư tưởng cách mạng và tình yêu nước sâu sắc của Bác.
- Hình ảnh 'dòng người đi trong thương nhớ' gợi lên lòng xúc động, tiếc nuối sâu sắc, trong lòng nặng trĩu nhớ mong.
+ Bảy mươi chín mùa xuân biểu hiện sự hy sinh của Bác cho sự nghiệp cách mạng, tạo nên mùa xuân tự do, độc lập cho đất nước và nhân dân.
- Tình cảm biết ơn trở thành lời thổn thức, xúc động khi tác giả nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên.
Bác nằm dưới ánh trăng dịu dàng
Giữa bầu trời trăng sáng hiền hòa
+ Ánh sáng nhẹ nhàng trong lăng gợi lên sự kích thích tưởng tượng: ánh trăng (hình ảnh ẩn dụ)
- Bài thơ của Bác tràn ngập ánh trăng, từng được viết trong nhà lao, trên chiến trường, và giờ đây, ánh trăng lại xuất hiện, soi sáng giấc ngủ của Người
+ Hình ảnh vầng trăng 'dịu dàng' gợi lên tâm hồn cao thượng, nhân cách tốt đẹp của Bác
- Tâm trạng xúc động của tác giả được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ sâu xa 'Vẫn biết trời xanh mãi mãi'
+ Dù Bác đã ra đi, nhưng Người vẫn sống mãi trong thiên nhiên của đất nước, tiếp tục hòa mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc
+ Nỗi đau khắc sâu trong tâm hồn được biểu hiện rõ ràng: 'Mà sao lòng nghe nhói đau!'
3. Khúc cuối: Lòng xúc động, quyến luyến khi rời lăng Bác
- Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ, muốn ở lại bên lăng Bác mãi mãi
+ Khi buộc phải rời khỏi, tâm trạng dâng trào, nghẹn ngào
+ Nhà thơ mong muốn hòa mình vào cảnh vật xung quanh lăng Bác: muốn trở thành con chim, cây tre, hoa
+ Từ 'muốn làm' diễn đạt một cách trực tiếp và gián tiếp tâm trạng và sự tự nguyện của tác giả
+ Hình ảnh của cây tre đồng nghĩa với sự khẳng định về tính cách kiên định, vững vàng của người Việt Nam
III. Kết thúc
- Bài thơ thể hiện sự xúc động, lòng biết ơn và tôn kính sâu sắc của nhà thơ khi viếng thăm Lăng Bác.
- Nội dung và nhịp điệu của bài thơ phản ánh chân thực tâm trạng, từ sâu thẳm và sâu sắc, thể hiện một cách rõ ràng cảm xúc khi đến viếng lăng Bác.
Cảm xúc rối bời của nhà thơ khi viếng Lăng Bác
Cảm xúc hoang mang của nhà thơ khi viếng Lăng Bác - mẫu 2
Trước sự ra đi của Bác, Tố Hữu đã nói lên nỗi đau đớn vô cùng:
Bác đã ra đi, hỡi Bác ơi
Mùa thu nắng, trời xanh thơm mát
Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Câu thơ là một thông điệp ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc của tác giả. Từ miền Nam của đất nước, Viễn Phương đến Hà Nội không chỉ để ngắm nhìn lăng mộ nơi Bác yên nghỉ mà còn để trở về với người cha, trở về với bản ngã. Tiếng con nghe thật thiêng liêng và ấm áp, thể hiện mối quan hệ gần gũi, kính trọng. Qua đó, tác giả cũng diễn đạt sự xúc động sâu sắc khi được trở về thăm Bác sau bao năm xa cách. Hàng tre xanh là biểu tượng của làng quê, của người dân Việt Nam, biểu tượng cho sự kiên cường, kiên nhẫn. Cảm xúc trào dâng, khiến ông bật lên tiếng khen ngợi đầy tự hào. Dân tộc ta đã trải qua nhiều khó khăn nhưng vẫn kiên cường đứng vững, không bỏ cuộc. Đúng như lời Nguyễn Duy: 'Thân gầy guộc lá mong manh/ Mà sao lại thành tre kiên cường'. Hàng tre, như vòng tay của quê hương, là những đứa con gác giấc ngủ cho Bác. Trước lăng Bác, Viễn Phương càng cảm nhận được vĩ đại của Người.
Mỗi ngày, mặt trời lặn trên lăng
Nhìn thấy mặt trời đỏ rực trong lăng
Hình ảnh mặt trời trong câu thơ đầu tiên là mặt trời tự nhiên, nguồn gốc của sự sống. Trong khi đó, hình ảnh mặt trời thứ hai là ẩn dụ cho Bác, nguồn sáng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Bác, đất nước đã được giải phóng, dân tộc đã được tự do, hạnh phúc. Bác là mặt trời của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, mặt trời mang trong mình hơi ấm, giống như Bác mang trong lòng mình tình yêu thương bao la với dân tộc. Trước sự vĩ đại của Người, mỗi ngày những người con Việt Nam vẫn đến và dâng lên tình cảm, sự trân trọng, kính yêu. Dòng người trĩu nặng nhớ thương, từ khắp mọi miền đất nước vẫn đến thăm lăng Bác. Tác giả đã tạo ra hình ảnh ẩn dụ đặc sắc: tràng hoa. Tràng hoa từ mọi miền tổ quốc, kính dâng lên người với lòng biết ơn vô hạn. Hình ảnh thơ đã thể hiện tấm lòng kính trọng của nhân dân đối với Bác.
Bước vào lăng mộ, thời gian như ngừng trôi. Bác nằm trong giấc ngủ yên bình sau những năm tháng hoạt động cách mạng và bên cạnh Bác luôn có người bạn thân thiết kề bên – ánh trăng. Đồng thời, ánh trăng đó cũng tượng trưng cho lối sống thanh cao, đạo đức trong sạch của Bác suốt cuộc đời. Trước cảm xúc vô hạn, Viễn Phương thốt lên đầy đau đớn: “Biết trời xanh mãi mãi/ Nhưng lòng nhói trong tim”. Bác đã hòa nhập vào tự nhiên, đất nước, nhưng nỗi đau khi Bác ra đi vẫn làm nhà thơ đau lòng, đau đớn, là nỗi đau lớn không thể diễn tả bằng lời của triệu trái tim Việt Nam. Thời gian bên Bác thật ngắn ngủi, chẳng mấy chốc đã tới lúc chia xa. Nghĩ đến việc phải trở về miền Nam, phải xa lánh, nhà thơ không kìm nén được cảm xúc mà biểu lộ ra ngoài:
Mai về miền Nam, nước mắt rơi lưu luyến
Câu thơ như lời tạm biệt sâu sắc, bày tỏ tình cảm sâu xa. Những giọt nước mắt lưu luyến, không muốn rời xa nơi Bác nghỉ ngơi. Mặc dù lưu luyến, không muốn rời xa, nhưng ông hiểu rằng đã đến lúc phải trở về miền Nam. Và ở thời điểm này, ông thốt lên một ước nguyện chân thành tha thiết:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đó
Muốn làm cây tre vững chãi nơi này
Toàn bộ bài thơ là sự xót xa sâu sắc của Viễn Phương khi viếng thăm lăng Bác. Nhưng ngoài ra, ta cũng thấy tình lòng thành kính, tự hào trước công lao vĩ đại của Bác đối với dân tộc Việt Nam. Kết hợp với đó là việc linh hoạt sử dụng các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ,... giọng điệu đầy trữ tình đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm khảm của độc giả.
Tâm trạng xúc động của nhà thơ khi viếng thăm Lăng Bác - phiên bản 3
'Con từ miền Nam đến thăm lăng Bác.'
“Con từ miền Nam” chỉ đơn giản mấy từ nhưng ẩn chứa một nỗi đau và niềm tự hào sâu sắc. Con đến từ miền Nam, Bác ơi! Miền Nam gian khổ và anh hùng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam làm nên tinh thần đoàn kết của dân tộc, miền Nam đã chiến thắng kẻ thù hung ác để quay về trong vòng tay tổ quốc Việt Nam, Bác ơi! Con đến từ miền Nam, Bác ơi! Miền Nam cảm nhận nỗi đau mất Bác, nỗi đau không thể diễn tả từng bước chân Bác sau ngày chiến thắng, Bác ơi! Trong làn sương mờ của một ngày thu ở Hà Nội, đến gặp Bác, sao như trở về một làng quê yên bình nào đó:
'Trong sương mờ, hàng tre nổi bật
Ôi! Hàng tre xanh tươi Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng
Hàng tre nổi bật – hàng tre xanh tươi – hàng tre Việt Nam: hàng tre như một biểu tượng đặc trưng của Việt Nam, mang trong mình bao ký ức và phẩm chất của con người Việt Nam: sức mạnh, sự kiên cường, lòng dũng cảm. Dấu hiệu đầu tiên khi đến gần Bác là dấu hiệu của Việt Nam, bởi vì Bác chính là biểu tượng của Việt Nam, biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Trong Bác, có tất cả những gì mà dân tộc Việt Nam từng có, cũng như dấu hiệu xanh tươi của sự sống ấy, cũng như lòng kiên cường “đứng thẳng” trong “bão táp mưa sa” ấy.
Ôi! Đến bên Bác không phải là đi mà là trở về, trở về nguồn cội của chính mình, trở về với một ngày tháng thanh bình của dân tộc muôn đời. Trước lăng Bác không phải là điểm tham quan lộng lẫy, rực rỡ vàng son, rồng chầu phượng tráng lệ. Mà chỉ là những hàng tre, giản dị nhưng khiến người ta ngỡ ngàng, xúc động đến rơi nước mắt. Bây giờ là lúc chúng ta xếp hàng để bước vào cùng Bác. Dòng người đi chầm chậm. Bầu trời cao lồng lộng trên lăng. Mặt trời tỏa sáng trên lăng. Chân bước đi nhưng hồn vẫn suy tư. Nhìn trời cao và suy nghĩ về Bác. Bác là ai? Bác có ý nghĩa gì trên cõi đời này?
'Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.'
'Ngày ngày dòng người đi trong thương nhờ
Kết tràng hoa dâng bẩy mươi chín mùa xuân.'
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân người trong cuộc tưởng niệm nhưng sao câu thơ vẫn không buồn? Đúng vậy. Chúng ta không tưởng niệm Bác như người đã khuất mà là tôn vinh vĩnh quang của Bác. Dòng người đang đi đây là trong cuộc hành trình tôn vinh vinh quang của Bác. Và tràng hoa này không phải là tràng hoa bình thường, mà mỗi đóa hoa là con người thật sự, là con người mà Bác đã tạo ra trên đất nước này, trong cuộc sống của Bác. Khi đi chậm chậm vào trong lăng với Bác, ta nhận ra phút nghẹn ngào. Trước mắt chỉ còn mình Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng.
Nhà thơ nhận ra nỗi đau lớn: Bác đã ra đi. Nhưng Bác, con người vĩ đại, không nằm trong sự chết bình thường như ta vẫn nghĩ. Hình như Bác chỉ ngủ sau một chặng đời với bảy mươi chín mùa xuân chưa hề được nghỉ ngơi. Và cũng hình như không phải Bác ngủ, Bác chỉ đang “nằm trong giấc ngủ” ấy! Đó là giấc ngủ bình yên của sự bình yên trường cửu. Cùng giấc ngủ ấy là “một vầng mặt trời sáng dịu hiền”.
Khi nhắc đến trăng, lòng ta nhớ đến Bác yêu trăng biết bao! Trăng đã từng đến với Bác giữa chốn tù đày, giữa “cảnh khuya” của núi rừng Việt Bắc; trăng khi đi thuyền trên sông Đáy, khi “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trâng soi” … Nhưng có khi nào Bác được thảnh thơi đến cùng trăng chân thành. Bởi trong tù, không rượu cũng không hoa, quân đang bận, phải nhớ thương nhi đồng … Chỉ có lúc này, trong giấc ngủ bình yên này thôi, Bác mới thật sự cùng trăng. Bác nằm trong quan tài thủy tinh, điều đó là sự thật mà lòng ta không chấp nhận được. Ta an ủi bản thân bằng lẽ trường cửu trong cuộc sống nhưng lòng ta có những đau đớn riêng.
'Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.'
Từ “nhói” của nhà thơ nói lên nỗi đau, vượt lên mọi lý trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành tựu, mỗi phần tử tạo nên đất nước. Nhưng Bác đã ra đi, ta không còn Bác ở cuộc sống này. Vắng Bác, ta phải làm sao để bù đắp? Dù đau lòng đến mức nào, cuộc chia ly cũng phải xảy ra. Bác nằm trong giấc ngủ bình yên vĩnh viễn, với ánh trăng trường cửu trong lăng, mỗi người phải tiếp tục, với nỗi đau mất Bác:
'Mai về miền Nam, thương trào nước mắt. '
“Thương” của miền Nam là tình cảm trọn vẹn của người miền Nam dành cho Bác. “Thương”, đó là yêu thương, kính trọng cuộc đời cao thượng và vĩ đại của Bác dành cho nước, dành cho dân; đó là cảm động đến nghẹn ngào vì sự khiêm nhường, hi sinh của Bác; đó là xót xa vì nỗi đau mất Bác. Thương, thương đến trào nước mắt, đó chính là tình thương của nhân dân Việt Nam, nhân dân miền Nam dành cho Bác trong giây phút này, trước sự vĩ đại, sự cao thượng của Bác, lòng hi sinh không ngừng vẫn còn đọng lại trong lời tự nguyện:
'Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương đâu đó, muốn trở thành cây tre trung hiếu ở nơi này.
Chân bước đi nhưng lòng vẫn còn muốn quay lại, không muốn xa cách. Một sức mạnh vô hình nhưng mạnh mẽ kéo ta ở lại. Giá như có phép lạ để ta mãi không mất Bác. Ước mong ta có thể biến thành những vật thân yêu xung quanh Bác để mãi được ngắm nhìn Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để trao tâm sự của ta cho Bác. Một con chim bé nhỏ hót vang làm vui sáng sớm của Bác. Một đóa hoa tỏa hương làm thơm không gian quanh Bác. Một cây tre trong hàng tre xanh Việt Nam tạo bóng mát dịu dàng bên Bác. Nhưng nhà thơ không thể mong ước hơn được. Sự thật là cuộc chia ly phải xảy ra, đã xảy ra. Câu thơ kết thúc, lặng lẽ ngừng lại.
Bài thơ kết thúc nhưng tâm sự của nhà thơ vẫn tiếp tục. Nỗi tiếc nuối không nguôi nghỉ, những suy tư về cuộc đời để xứng đáng với vị lãnh tụ kiêm thầy, cha, bác đã sống cuộc đời vẻ vang của một con người khiêm nhường và vĩ đại, người đã dành trọn tâm huyết cho con người.