Bài văn Top 40 Cuộc chiến khốc liệt mà tôi đã trải qua được biên soạn từ những dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9. Hy vọng rằng với Cuộc chiến khốc liệt mà tôi đã trải qua này, các bạn sẽ có thêm động lực để viết văn tốt hơn.
Top 40 Cuộc chiến khốc liệt mà tôi đã trải qua
Chiến thắng của Nguyễn Huệ trước quân Thanh xâm lược
Thành công của Nguyễn Huệ trong việc đánh bại quân Thanh xâm lược là một phần quan trọng trong lịch sử Việt Nam, mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Vào mùa xuân năm Kỷ Dậu, năm 1789 sau Công Nguyên, khi quân Thanh xâm lược đến Việt Nam, Nguyễn Huệ đã lên tiếng chống lại họ. Vào ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ đã dẫn binh đi chiến đấu với quân xâm lược. Ông dẫn đầu đội quân với một trăm con voi mạnh mẽ. Khi đoàn quân của Nguyễn Huệ tiếp cận quân thù, chúng sợ hãi và rút lui. Tuy nhiên, quân Thanh vẫn cố gắng xây dựng trại và lũy.
Vào giờ Ngọ cùng ngày, quân Nguyễn Huệ đã tiến hành tấn công với đạn và rạ bó. Tinh thần quân ta cao hơn, tất cả đều quyết tâm giết quân thù. Với tinh thần ấy, quân Nguyễn Huệ đã giành chiến thắng trước quân Thanh, gây nhiều tử thương cho đối phương và làm tan vỡ hầu hết trại của họ.
Lúc đó, chỉ huy của quân Thanh, Hứa Thế Thanh, đã ra lệnh cho lính mang triệu ấn. Sau đó, Hứa Thế Thanh quyết đấu và hy sinh. Với việc mất chỉ huy, quân Thanh ngày càng thua thiệt. Quân ta bao vây giặc từng nhóm để đánh. Sau khi mất liên lạc với chỉ huy, thống soái quân Thanh, Tôn Sĩ Nghị, ra lệnh cho Phó tướng Khánh Thành và Đức Khắc Tinh dẫn ba trăm quân phản vây tháo chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, quân ta đã đánh họ. Đây là quân tiếp ứng được tổng binh Thượng Duy Thanh đem theo khi nhận triệu ấn từ Hứa Thế Thanh trước khi qua đời.
Tổng binh Lý Hoá Long được giao nhiệm vụ dẫn quân tiếp đón tàn quân qua sông. Tuy nhiên, giữa chừng cầu, ngựa của Lý Hoá Long trượt chân rơi xuống sông và chết. Với việc mất chỉ huy, quân Thanh trở nên sợ hãi. Thống soái Tôn Sĩ Nghị lập tức ra lệnh bắn súng vào quân truy kích của Nguyễn Huệ để giúp đỡ. Riêng Tôn Sĩ Nghị, hắn rút quân về phía bắc và phá hủy cầu. Toàn bộ quân giặc rút về sông Thị Cầu.
Quân Thanh ở phía nam nhận ra rằng họ không thể rút lui khi thấy cầu bị phá hủy. Tàn quân tiến công vào thành Lê. Tất cả các tướng lĩnh quan trọng đều tử vong tại đây. Các tướng quân như Tri Châu, Điền Châu, Sầm Nghi, và Đống cùng quân lính đều tự vẫn trong thành vì không có hy vọng cứu chữa. Vua An Nam lúc đó là Lê Duy Kỳ cũng bỏ chạy, từ đó, triều đại nhà Lê cũng tiêu biến.
Nguyễn Huệ và quân đội tiến vào thành. Chỉ huy quân Thanh, Ô Đại kinh, lệnh xuất phát từ ngày 20/11/1788, đến ngày 21/12/1788, khi đến Tuyên Quang. Nhưng khi họ thấy cầu ở sông Phú Lương bị phá hủy và thấy quân địch chiến đấu ác liệt, họ rút quân về nước. Quân Thanh không còn hy vọng nào khác. Cuộc chiến tiếp tục và chiến thắng thuộc về Nguyễn Huệ. Sau này, Nguyễn Huệ trở thành hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung, là vị vua thứ hai của triều Tây Sơn.
Cuộc chiến này để lại ấn tượng sâu sắc với tôi. Nguyễn Huệ chống lại quân Thanh đã truyền lại cho tôi một bài học lịch sử sâu sắc. Từ cuộc chiến này, tôi thấy rằng chiến thắng sẽ thuộc về chính nghĩa và dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Tinh thần đoàn kết và can đảm của dân tộc Việt Nam đã tạo ra nhiều chiến công vĩ đại trong lịch sử thế giới.
Dàn ý Cuộc chiến đấu gay cấn tôi đã trải qua
a. Mở đầu: Trong lịch sử, có nhiều trận chiến ác liệt và gan dạ để bảo vệ tự do, độc lập và đất nước. Trong số đó, có một trận chiến ấn tượng nhất mà tôi từng trải qua.
b. Nội dung chính
– Tình huống tiếp xúc với câu chuyện.
– Tổng quan về trận chiến ác liệt.
– Các giai đoạn quan trọng của cuộc chiến (phòng thủ – cầm cự - tấn công – chiến thắng).
+ Mô tả chi tiết từng giai đoạn của cuộc chiến (phòng thủ – cầm cự - tấn công – chiến thắng).
+ Cần thể hiện sự khốc liệt, đầy cam go của cuộc chiến.
+ Những nhân vật quan trọng trong câu chuyện với vai trò quyết định (người chỉ huy thông minh hoặc lính dũng cảm, anh hùng, v.v.).
+ Sử dụng mô tả và biểu cảm khi kể (miêu tả nét mặt, cử chỉ, tâm trạng của nhân vật; thể hiện cảm xúc trực tiếp hoặc gián tiếp).
+ Chọn lựa miêu tả cảnh thiên nhiên phù hợp với câu chuyện.
+ Hiểu suy nghĩ của người kể chuyện (tôn trọng, ngưỡng mộ thành tựu; học tập để tiếp nối công cuộc xây dựng đất nước của tổ tiên).
c. Kết luận: Tự hào về lịch sử hào hùng.
Kể lại trận chiến tại cầu Hoàng Mai - Nghệ An năm 1966
Trên trang sử quân sự, trận đánh tại cầu Hoàng Mai - Nghệ An trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ được ghi chép rõ ràng. Trong những dòng lịch sử đó, tên của Đỗ Lương Bằng được ghi nhận, cùng với hình ảnh chiến sĩ dũng cảm.
Trung tá Trần Quốc Mỹ chia sẻ về một trong những trận đánh trên cầu pháo trong quá khứ. Giọng điệu của ông chậm rãi, ánh mắt rực rỡ khi nhớ lại những chiến công của ngày xưa.
Vào lúc 13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một đội máy bay trinh sát A3J và F4H từ phía biển đã bay vào khu vực Khe nước Lạnh để tiến hành trinh sát khu vực Hoàng Mai. Hai chiếc pháo C214, D14, F34 cùng với các lực lượng chiến đấu đã nổ súng trúng một chiếc máy bay A3J. Trong khi bị trúng đạn, chiếc máy bay đã cố gắng hướng về phía Đông Nam để rời khỏi khu vực. Tuy nhiên, khi đến xã Quỳnh Liên, máy bay đã bốc cháy và rơi thành 3 mảnh.
Hai phi công đã nhảy dù và hạ cánh khoảng 2.000m ra khỏi bờ biển. Đài quan sát tại Hòn Ói ngay lập tức thông báo: máy bay rơi ở tọa độ 200 07’, hai phi công rơi ở tọa độ 210 77’ 2'. Tại khu vực bãi Ngang, mọi người đều kêu lên: “Máy bay địch bị cháy, bắt sống phi công nào cả nhà ơi”.
Các xã Quỳnh Liên, Quỳnh Bảng, Quỳnh Lương… đã phối hợp với lực lượng chính trị, huy động mọi phương tiện vũ khí để ra khơi bắt giữ phi công Mỹ.
Các chiến sĩ đã sẵn sàng hy sinh trước khi ra đi, họ đã gửi lại một gói quần áo cho gia đình và trao đổi nhanh chóng: “Nếu tôi phải hy sinh, hãy trả lại cho bố mẹ tôi và nói rằng tôi đã hy sinh vì đã hoàn thành nhiệm vụ…”. Đội hình chiến đấu đã được triển khai theo hình chữ V, mỗi thuyền cách nhau 100m để tiến tới mục tiêu. Trên bờ, các lực lượng đã sẵn sàng để phối hợp chiến đấu. Các thuyền, máng của các xã xung quanh đã được ra khơi.
Trong quá trình tiếp cận mục tiêu để bắt giữ hai phi công Mỹ, kẻ địch đã tổ chức đội hình ứng cứu và huy động đủ các máy bay chiến đấu: 2 máy bay A6A, 4 máy bay C123, 1 trực thăng và 5 tàu chiến đã được triển khai sẵn sàng để ứng cứu và giải thoát cho phi công Mỹ.
Trong quá trình thuyền tiếp cận mục tiêu, chúng tôi đã bị bao vây bởi bọn AD6. Nhưng các chiến sĩ vẫn không hề sợ hãi, họ vẫn bám sát mục tiêu và tiếp tục bao vây, bắt giữ phi công Mỹ. Hai thuyền chủ lực đã vượt lên phía trước, quay trở lại để tạo thành thế gọng kìm, và thuyền thứ 3 lao tới áp đảo bằng súng. Vào lúc 17 giờ 17 phút, ngày 3/2/1966, hai phi công Mỹ: Hen Béc Rô Mác Rôn, đại úy và Rôbét Hanson, trung úy đã bị bắt.
Ghi lại chiến công của những người lính cao xạ và toàn bộ quân dân đóng quân trên địa bàn Quỳnh Lưu vào ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng đã viết trong nhật kí của mình: “Trong ngày kỷ niệm thành lập Đảng, khi Đảng đã tròn 36 tuổi, đơn vị của chúng tôi đã tổ chức thi đua để ghi nhận những thành tích trong cuộc chiến, đặc biệt là trong cuộc chiến này. Không khí thi đua trong đơn vị rất sôi nổi và hào hứng. Sau khi nghỉ trưa, khi tiếng động cơ xuất hiện hướng 14, chúng tôi đã tiến hành bắn vào mục tiêu ở khoảng cách 5000m và 4000m, và đơn vị đã nổ súng. Chiếc máy bay Mỹ đã bị cháy và vỡ thành 3 mảnh, góc trời đã đỏ lửa, và rơi xuống đất giữa tiếng reo hò ầm ĩ của nhân dân địa phương… chúng tôi rất phấn khởi. Tiếng reo hò đã vang lên khắp nơi trên chiến trường. Vì sau hơn 2 tháng, chúng tôi đã có cơ hội bắn và bắt được mục tiêu ngay từ điểm xạ đầu”.
Âm vang rợp cả bầu trời, như thể có hàng chục ngàn người. Trong đồn, mọi người bắt đầu hiểu, và ai cũng rùng mình, sợ hãi, nhanh chóng xin ra hàng. Lương thực và vật dụng quân sự đều bị chúng ta thu giữ. Vua cũng ra lệnh làm 20 bức tường gỗ, mỗi bức được ghép từ 3 tấm ván, ngoài trái phủ đầy rơm ướt, cùng với 60 người lính dùng dao ngắn theo sau, thành một hàng ngang để bảo vệ. Vào sáng mùng 5, chúng ta tiến gần đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn súng và phun lửa, tạo ra một màn khói mịt mù. Nhưng không ngờ gió đột ngột thổi từ phía Nam làm cho khói bay ngược lại, khiến cho quân Thanh tự gây hại cho mình. Chúng ta sử dụng cách này để tiến lên và tấn công. Khi binh sỹ đối đầu, chúng ta đặt các tấm ván xuống đất và chiến đấu mạnh mẽ. Quân Thanh không thể chống lại, họ phải bỏ chạy và bị tiêu diệt.
Trước đó, vua Quang Trung đã chỉ đạo một đội quân đi theo bờ đê yên tĩnh, mở cờ và trống để làm nhiễu loạn ở phía Đông. Khi đó, quân Thanh hoàn toàn bất ngờ và họ bắt đầu chạy về đầm Mực, làng Quỳnh Đô. Chúng ta sử dụng voi để tiêu diệt hàng vạn quân Thanh. Trong buổi trưa đó, vua Quang Trung đã tiến binh đến Thăng Long và bắt đầu cuộc tiến công. Tin tức về việc quân Thanh chạy trốn đã khiến cho mọi người ở Thăng Long không thể tiếp tục lễ hội. Ngày mồng 4, tin tức về việc quân đồn Ngọc Hồi chạy trốn đã đến, Tôn Sĩ Nghị lo sợ mất tin mật, nên cùng với binh lính, chúng ta đều chạy về phía Bắc. Trong hỗn loạn đó, nhiều binh lính Thanh đã bị chết. Sau đó, cầu bắc cũng bị phá hủy, khiến cho nước ở sông Nhị Hà bị nghẽn lại. Chiến thắng của chúng ta thật sự là một niềm vui lớn.
Chiến công lớn lao của chúng ta đã chứng minh sức mạnh và sự độc lập của đất nước. Mỗi năm, dân ta tổ chức lễ hội Đống Đa để tưởng nhớ công lao của tổ tiên và nhớ lại chiến thắng lịch sử của dân tộc chúng ta trước quân Thanh.
Tường thuật về trận đánh của quân Tây Sơn
Là một lính trong quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung, tôi rất tự hào khi tham gia vào trận đánh lịch sử đó. Đất nước nhỏ bé của chúng ta đã chiến thắng quân địch mạnh mẽ. Đặc biệt, trận đánh đại phá quân Thanh tại Ngọc Hồi - Hà Hồi. Dưới đây là câu chuyện của tôi về trận đánh kỳ diệu đó trong mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789.
Như các bạn đã biết, khi vua Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đã kéo quân Thanh xâm lược Thăng Long mà không gặp phải sự chống cự nào. Sau khi nghe tin đó, Bắc Bình Vương - Nguyễn Huệ đã lên ngôi hoàng đế với tước hiệu là Quang Trung vào ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Ngay sau đó, vua đã chỉ đạo mở đội quân và chúng tôi là một phần của đội đó. Đó thực sự là một cuộc lùi binh đột ngột. Chúng tôi đi suốt ngày đêm không ngừng nghỉ.
Vào đêm 29 Tết, chúng tôi đánh đồn sông Gián Khẩu và vào nửa đêm ngày 30 Tết, chúng tôi tiến công đồn Hà Hồi. Vua Quang Trung đã sử dụng mưu kế để chiến thắng nhanh chóng, và quân Thanh đã phải đầu hàng. Vua Quang Trung thật sự là một tài năng.
Khi tấn công Đồn Ngọc Hồi, chúng ta đối mặt với nhiều khó khăn vì địa thế của nó rất thuận lợi cho bảo vệ và có đội quân tinh nhuệ. Do đó, chúng ta đã phải sáng tạo trong chiến thuật và sử dụng một bức tấm ghép rơm để che chắn và tiến công.
Trận đánh diễn ra vào sáng mùng 5 Tết trong điều kiện sương mù và mưa phùn. Quân Tây Sơn đã vây đồn Ngọc Hồi một cách lặng lẽ. Mặc dù quân Thanh đã cố gắng phòng thủ nhưng không thành công. Khi gió Bắc thổi, chúng ta đã sử dụng khói lửa để làm quân địch hoảng sợ. Khi gió đổi hướng, quân Thanh tự gây ra sự rối loạn và chúng ta đã tận dụng thời cơ để chiếm lấy đồn.
Chỉ trong một khoảnh khắc, chúng ta đã chiếm được đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống đã tự sát và quân địch bỏ chạy. Vua Quang Trung cùng quân đội đã tiến thẳng vào Thăng Long trong sự cổ vũ của nhân dân và không khí tết. Tôi tự hào vì đã góp phần vào chiến thắng này.
Dù đã qua mấy chục năm, tôi vẫn không quên được trận đánh ấy. Tuy buồn vì mất mát nhưng cũng tự hào về chiến công của mình. Tôi mong rằng đất nước sẽ mãi mãi không phải gánh chịu chiến tranh nữa.
Đã từng có một Trận Điện Biên Phủ mãnh liệt
Dù sinh ra sau thời kỳ chiến tranh, nhưng khi nghe các cựu chiến binh kể lại những kỷ niệm về Trận Điện Biên Phủ, tôi đã cảm nhận được phần nào nỗi đau và hy sinh của dân tộc.
Trận đánh này đánh dấu sự xuất hiện của pháo binh trong quân đội, tăng thêm niềm tin và hi vọng cho nhân dân. Mặc dù đối thủ là quân Pháp, một trong những cường quốc của thế kỷ XX, nhưng chúng ta vẫn đã chiến thắng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có một quyết định đổi hướng chiến lược quan trọng để đạt được chiến thắng.
Chúng ta đã chọn chiến lược 'đánh chắc thắng chắc', dành thời gian chuẩn bị và di chuyển pháo binh lên trận. Mỗi khẩu pháo nặng hơn hai tấn, phải tháo rời và vận chuyển qua sông Hồng, vượt qua đèo cao và suối sâu. Sự đồng lòng và nỗ lực phi thường của các chiến sĩ đã giúp chúng ta đặt pháo ở những vị trí chiến lược và tạo ra sự bất ngờ cho địch.
Quân Pháp đã bị lừa khi chúng ta tạo ra sự đánh lừa và chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ. Sau khi hoàn thành việc vận chuyển pháo binh, quân ta đã quay lại và tiến công vào Điện Biên Phủ. Sự bất ngờ đã giúp chúng ta tiêu diệt cứ điểm Him Lam và tiến công thành công đến đồi Độc Lập.
Trận đánh quyết liệt tại Độc Lập đã đem lại nhiều mất mát, nhưng cũng thể hiện lòng kiên cường và hy sinh của các chiến sĩ. Mỗi trận đấu đều là sự hi sinh để tăng sức mạnh cho đồng đội.
Với chỉ hai mươi tư khẩu pháo, chúng ta đã phải áp dụng chiến lược khôn ngoan để chiến đấu. Nhờ đó, chúng ta đã góp phần lớn vào chiến thắng tại Điện Biên Phủ.
Nghe các người lính kể lại những kỷ niệm từ trận Điện Biên Phủ, tôi cảm nhận được sự đau đớn và tự hào của dân tộc. Hình ảnh các người lính với bàn tay đồi mồi, xếp hàng dâng hương lên Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ mãi trong lòng tôi.
Kể lại sự kiện Tết Mậu Thân 1968
'Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai'
Những câu thơ toát lên tinh thần quyết chiến của những người trẻ trong cuộc chiến chống Mĩ. Họ sẵn lòng hy sinh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau hai mùa khô, quân và dân ta chuẩn bị cho cuộc tiến công vào miền Nam. Cuộc tổng công kích trong dịp Tết Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn tình hình chiến trường.
Trận tiến công vào các đô thị trong đêm Tết Mậu Thân đã tạo ra sự bất ngờ và tiêu diệt một phần lớn lực lượng địch.
Trong mưa bom đạn, các chiến sĩ vẫn kiên quyết tiến lên mặt trận, sẵn lòng hy sinh cho tổ quốc.
Cuộc tổng tiến công vào Tết Mậu Thân 1968 đã làm cho quân Mĩ phải đối mặt với thất bại và ngồi vào bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh.
Những anh hùng đã hy sinh tất cả để bảo vệ đất nước. Cuộc chiến vào Tết Mậu Thân 1968 là minh chứng cho sự kiên cường của dân tộc Việt Nam.
'Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư'
Kể về trận chiến ác liệt thành công mùa xuân Kỷ Dậu 1789
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân An Nam dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ vượt sông Gián Thủy đánh bại quân của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), tiêu diệt toàn bộ quân lính Thanh.
Trong những ngày đầu của tháng 2, Nguyễn Huệ dẫn quân tấn công, dùng voi làm tiên phong. Quân Thanh phản kích nhưng bị đánh tan và phải rút lui vào trại.
Ðề đốc Hứa Thế Hanh bị tiêu diệt, làm cho lực lượng quân Thanh bị chia cắt và bị vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với các tướng lĩnh, buộc phải rút lui.
Quân Thanh bị đánh lui về thành nhà Lê. Nhiều tướng lĩnh Thanh đã tử vong trong trận chiến.
Nguyễn Huệ dẫn quân tiến vào thành, chiến bào nhuốm đen bởi thuốc súng. Quân Thanh từ Vân Nam cũng phải rút lui khi gặp phải sự trở ngại của quân ta.
Cuộc chiến vẫn tiếp tục, và dân tộc ta đã một lần nữa chứng tỏ tinh thần hy sinh và tài năng của mình trong trận đấu vì chính nghĩa.
Kể về trận đánh tại Ngã ba Đồng Lộc vào năm 1968
Năm nay, trong chuyến du lịch gia đình, tôi có dịp tham dự lễ kỷ niệm 40 năm trận đánh tại Ngã ba Đồng Lộc, một sự kiện được tổ chức từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 7 năm 2008 với một chương trình long trọng và tôn nghiêm. Việc tham dự lễ kỷ niệm này đã khiến tôi nhớ lại trận chiến khốc liệt mà những người thanh niên tại đó đã ghi dấu lịch sử.
Các nhân chứng sống của trận đánh đã bắt đầu kể lại những kỷ niệm về trận chiến đó. Vào mùa thu năm 1968, từ Thạch Hà đến Hồng Lĩnh, máy bay Mỹ đã tấn công dữ dội hàng đêm. Quốc lộ 1A bị chặn, các cầu cống bị phá hủy. Đoàn xe chở xăng dầu vào miền Nam bị kẹt lại ở huyện Can Lộc do cầu Dà bị phá hủy. Đoàn xe phải đi qua làng Hạ Lôi, xã Tiến Lộc. Đối với tình hình đó, Bộ Chính trị, Bộ Giao thông Vận tải cùng với Ban đường bộ giao thông của tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định chia làng Hạ Lôi thành hai phần.
Sáng ngày 13/8/1968, sau khi tiếp nhận mệnh lệnh từ cấp trên, lãnh đạo xã đã tổ chức họp dân với khẩu hiệu: 'xe qua thì nhà không tiếc'. Sau đó, mọi người đã hợp sức để phá dỡ nhà cửa, mở đường cho xe cộ qua lại. Cả làng đã hưởng ứng nhiệt tình, mọi người đều góp phần. Chỉ trong vài giờ, 130 ngôi nhà đã được tháo dỡ, đường đi đã mở ra. Vào lúc 3 giờ sáng, con đường đã được mở xong. Chiếc xe đầu tiên đã vượt qua sông an toàn. Để tránh sự chú ý của địch, dân quân và dân làng đã che giấu đường đi bằng cách lấp kín những vật liệu.
Trong một đêm, dân làng đã di dời 130 căn nhà để mở đường cho 130 xe chở hàng ra phía trước. Vì vậy, Ban đảm bảo giao thông tỉnh đã quyết định đặt tên làng Hạ Lôi là làng K130. Dù tên làng vẫn còn nhưng con đường chiến tranh đã không còn tồn tại. Khi kể lại trận đánh, những người kể chuyện đi theo những dấu vết còn lại. Mỗi dấu vết mang lại một cảm xúc buồn thương, xúc động vì họ đã sống sót và nhớ lại những người bạn đã hy sinh để họ có thể sống và trải nghiệm cuộc sống ngày hôm nay.
Thời gian đã làm mờ đi những dấu vết của chiến tranh, nhưng chúng vẫn sống mãi trong tâm trí của những người chứng kiến, và những người đó đã kể lại cho tôi, cho thế hệ trẻ nghe và cảm nhận được sự ác liệt của chiến tranh, sự hy sinh mất mát mà cha ông họ đã trải qua để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay. Nghe và hành động, chúng ta hãy cùng xây dựng và bảo vệ đất nước, để nó trở nên giàu đẹp hơn, xứng đáng với những gì tổ tiên đã dành cho chúng ta.
Kể về chiến thắng Bạch Đằng
Trận đánh năm 1288 trên sông Bạch Đằng là một cuộc chiến đầy ác liệt, mở ra một trang mới trong lịch sử kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông. Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã dẫn dắt quân dân Đại Việt chiến thắng quân xâm lược dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi.
Sau thất bại tại Trúc Động, vào ngày 8 tháng 3 (9 tháng 4 năm 1288), Ô Mã Nhi đã không rút quân trở về bằng đường biển mà chọn con đường trên sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo đã quyết định tiến hành một trận đánh quy mô lớn để đối phó với quân Mông Cổ xâm nhập Đại Việt. Sau một đêm suy nghĩ, ông đã đưa ra kế hoạch sử dụng chiến thuật của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938.
Trần Hưng Đạo đã chỉ huy quân dân Đại Việt chuẩn bị một chiến thuật phòng thủ mạnh mẽ trên sông Bạch Đằng, nơi mà quân Nguyên Mông phải đi qua khi rút lui. Ông đã ra lệnh cho người dân đốn hạ các cây gỗ như gỗ lim, gỗ táu từ rừng và đặt chúng xuống sông tạo thành những cọc chông ngầm lớn dưới lòng nước. Ông cũng đã triển khai mạnh mẽ các chiến thuật mai phục tại Ghềnh Cốc, Ðồng Cốc, Phong Cốc, sông Khoai, sông Thái, sông Gia Ðước, Ðiền Công và đặt binh lính ở Quảng Yên dọc theo bờ sông Bạch Ðằng. Sự kết hợp giữa cọc chông và chiến thuật mai phục đã ngăn chặn quân địch khi thủy triều rút.
Khi Ô Mã Nhi cùng đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng trong lúc nước lớn, quân Đại Việt đã nhanh chóng ra chiến đấu và sau đó giả mạo sự thua cuộc để đánh lùi địch vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi bị tiến hành kế hoạch của Nguyễn Khoái dẫn đội quân vào vùng cọc chông. Quân Trần đã chờ đợi ở bờ để tấn công khi thủy triều rút và tiến vào chiến đấu trực tiếp với quân địch.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông - Vân Trà đã nhanh chóng tiến vào sông Bạch Đằng với hàng trăm chiến thuyền và quân lính, tạo ra một hàng chặn đầy mạnh mẽ trên sông và dựa vào Ghềnh Cốc để chặn đầu đoàn thuyền của địch. Cùng lúc đó, đoàn thuyền do hai vua Trần chỉ huy cũng tấn công từ phía sau, gây ra nhiều thiệt hại cho quân Nguyên. Nhiều thuyền của địch đã bị phá hủy và nhiều quân lính Nguyên đã bỏ thuyền và chạy lên bờ nhưng rơi vào bẫy phục kích của quân ta. Dù Ô Mã Nhi đã cố gắng chống lại, nhưng không thành công và dẫn đến việc toàn bộ quân đội bị tiêu diệt.
Trận đánh Bạch Đằng năm 1288 đã kết thúc với chiến thắng vẻ vang, bắt được hơn 400 chiếc thuyền và bắt sống các tướng quân của địch như Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi, loại bỏ hơn 4 vạn tướng sĩ của quân Nguyên khỏi trận chiến. Tướng Nguyên Phan Tiếp đã bị bắt và sau đó chết vì bệnh, trong khi tướng Phạm Nhân đã bị trảm quyết. Thủy quân của quân Nguyên đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288 được xem là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam, và là biểu tượng cho sức mạnh của quân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống lại quân xâm lược Nguyên Mông. Chiến thắng này đã chấm dứt sự thống trị của quân Nguyên Mông tại Đại Việt.
Chiến thắng đã mang lại vinh quang và là dấu mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tài nghệ chiến lược của các tướng lĩnh cùng tinh thần chiến đấu kiên cường của nhân dân đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người.
Kể lại cuộc chiến lịch sử giữa Ngọc Hồi và Hà Hồi năm 1789
Trong thời kỳ phong kiến của nước ta, cuộc chiến quan trọng giữa Ngọc Hồi và Hà Hồi đã diễn ra vào năm 1789, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược của quân Thanh.
Cuối thế kỷ 18, nước Đại Việt phải đối mặt với nhiều thế lực đe dọa. Sau khi Lê Chiêu Thống ở phía Bắc thất bại, quân Thanh xâm nhập nước ta. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với tên là Quang Trung và quyết định tiến quân ra phía Bắc trong cuộc hành quân kỳ lạ nhất trong lịch sử.
Trước trận chiến, vua Quang Trung đã tuyên dương tinh thần của binh lính. Đêm 29 Tết tấn công đồn Gián Khẩu và đêm 30 Tết tấn công Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn giữ vững. Quân ta đã sử dụng chiến thuật tinh vi để chiến thắng quân địch.
Trận đánh đồn Ngọc Hồi diễn ra sáng sớm, quân Tây Sơn bao vây đồn mà quân Thanh không hay biết. Thời tiết bất lợi khiến quân địch hoảng loạn. Với lợi thế này, quân Tây Sơn đã dễ dàng tiêu diệt địch.
Bị bao vây, đồn Ngọc Hồi đầu hàng, quân Thanh thua trận. Sầm Nghi Đống tự sát và quân địch bị bắt làm tù binh.
Sáng ngày mùng 5, quân Tây Sơn tiến công và trưa cùng ngày đã chiếm được đồn Ngọc Hồi. Vua cùng quân đội bước vào thành phố trong sự hoan hỉ của nhân dân. Nhờ hành quân nhanh nhẹn và sự lãnh đạo thông minh của vua, quân Tây Sơn đã đánh bại kẻ địch một cách dễ dàng.
Mỗi trận chơi chơi xổ sốu cần có sự lãnh đạo thông minh, chiến lược tài giỏi và tinh thần quân đội. Những yếu tố này đã giúp vua Quang Trung dẫn dắt quân đội đến những chiến thắng lịch sử.