Bài văn Đánh giá nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân xuất sắc nhất, tóm tắt rõ ràng, điều này bao gồm cả dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tuyển chọn và lựa chọn từ những bài văn hay nhất của học sinh lớp 9. Hi vọng rằng với bài viết này về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân sẽ giúp các bạn yêu thích và viết văn tốt hơn.
Top 40 Đánh giá nghệ thuật về việc miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
Đánh giá nghệ thuật về việc miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân – mẫu 1
Đoạn trích từ 'Cảnh ngày xuân' là một tác phẩm xuất sắc, độc đáo, đại diện rất tốt cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp tự nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích này tiếp nối sau phần miêu tả về tài sắc của chị em Thúy Kiều. Qua những dòng thơ này, Nguyễn Du đã tạo ra bức tranh về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh Minh vô cùng sống động và rực rỡ. Nhà thơ đã sử dụng một cách tài tình để kết hợp giữa việc miêu tả và gợi cảm, với những chi tiết mang tính biểu cảm cao mà vẫn giữ được tính chân thực, giàu cảm xúc, ngôn ngữ trong sáng và tinh tế để diễn đạt vẻ đẹp của cảnh xuân.
“Ngày xuân con én vẫy cánh
Thiều quang đã bắt đầu xuất hiện
Cỏ non xanh mướt đến chân trời
Cành lê trắng nhấp nhô vài đóa hoa.”
Hai câu thơ đầu không chỉ gợi lên sự trôi qua của thời gian mà còn tạo ra không khí của không gian. Ngày xuân trôi qua nhanh như chớp mắt. Mùa xuân kéo dài trong chín mươi ngày, đã qua tháng giêng và tháng hai, bước sang tháng ba. Ánh sáng của mùa xuân nhẹ nhàng, trong lành, lan tỏa khắp nơi. Trên bầu trời cao, đàn én mùa xuân đang bay lượn. Dưới mặt đất, bao bọc bởi thảm cỏ non xanh mướt vô tận. Từ động từ “mướt” làm cho không gian mùa xuân trở nên rộng lớn hơn, mở ra và phủ sóng cả không gian xuân với màu xanh của cỏ non. Trên nền cỏ xanh tươi đó, những bông hoa lê trắng nhấp nhô, tạo nên vẻ tinh khôi, tươi mới. Sự đảo ngữ trong câu giúp làm nổi bật sắc trắng của hoa lê trên nền cỏ xanh mùa xuân. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn nhưng với cách miêu tả tinh tế, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh xuân tươi mới, trong lành, thanh khiết và đầy sức sống, đậm chất hơi thở của mùa xuân Việt.
Đến sáu câu thơ cuối, thông qua việc miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân, Nguyễn Du đã gợi lên một chút buồn bã trong tâm hồn của người đọc. Đây không chỉ là một tả thực mà còn là cách tạo nên tâm trạng cho nhân vật trữ tình trong thơ.
“Bóng chiều dài vẻ mềm mại
Thơ thẩn, chân bước về quê hương
Dần dần dọc theo dòng sông nhỏ
Phong cảnh thanh bình như trước
Dòng nước uốn quanh mềm mại
Cầu nhỏ nằm ẩn cuối dòng
Cảnh vẫn giữ được sự dịu dàng, bình yên của ngày xuân nhưng ánh dương đã 'tàn tạc nghiêng về phía tây'. Cảnh vật dường như trở nên mờ nhạt, mọi thứ từng chút một đều trở nên yên bình, lặng lẽ, trong khi cảnh rừng, sông nước đang rơi vào cảnh yên bình, êm đềm của hoàng hôn. Không gian xuân co lại dưới ánh sáng vàng của bầu trời hoàng hôn, không còn mở ra rộng lớn như ở những câu thơ đầu tiên. Tất cả đều thu nhỏ lại dưới bước chân ra về. Phong cảnh vẫn giữ được vẻ nhẹ nhàng, dòng nước nhỏ uốn quanh mềm mại, và chiếc cầu nhỏ nằm ẩn cuối con suối. Cảnh thực đẹp, giàu chất thơ, phảng phất nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn của lòng người. Tác giả gieo vào lòng đọc giả những cảm xúc về một sự kiện sắp diễn ra, như là dự báo cho cuộc gặp gỡ của Thúy Kiều và Kim Trọng. Tóm lại, với cách miêu tả cảnh ngụ tình kết hợp với việc sử dụng từ ngữ sắc nét, hình ảnh tạo hình và biểu cảm, tác giả đã tạo ra một bức tranh của chiều tà trong ngày hội xuân, với tâm trạng của con người. Qua đó, tác giả thể hiện được tài năng nghệ thuật trong việc miêu tả thiên nhiên và tâm trạng của con người.
Tóm lại, qua việc phân tích trên, chúng ta nhận thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi cảm của nhà thơ. Đây là một bức tranh mùa xuân đầy chất thơ, chất họa, rất sống động và nhịp nhàng.
Dàn ý Phê bình nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
1. Mở đầu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều, cùng một đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân thể hiện tình cảm đẹp cao của tác giả đối với thiên nhiên và con người.
2. Nội dung chính
- Nghệ thuật sử dụng hình ảnh ước lệ cổ điển trong thơ cổ, sáng tạo trong việc mượn thơ cổ, kết hợp với bút pháp chấm phá, điểm xuyết.
a. Bốn câu đầu: Miêu tả cảnh ngày xuân
- Miêu tả tổng quát vẻ đẹp rực rỡ của mùa xuân với hình ảnh đàn én tung bay trên bầu trời trong xanh, đầy ánh sáng mặt trời ban mai rạng rỡ (hai câu đầu)
- Tác giả thể hiện sự tiếc nuối khi thời gian trôi đi vội vã
- Hai câu thơ đẹp lung linh hiện lên:
Cỏ non mướt đậm dưới chân trời xanh
Cành hoa lê nở rộ trắng tinh khôi
+ Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng mang lại không gian rộng lớn, tươi mới
+ So với hai câu thơ cổ “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa” của Trung Quốc, nơi hình ảnh cỏ thơm, Nguyễn Du lại chọn cỏ xanh để thể hiện vẻ đẹp sôi động của mùa xuân
+ Hình ảnh hoa lê đậm sắc trắng thể hiện sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết của tự nhiên được nhấn mạnh trong không gian
- Hai câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của Nguyễn Du đầy sức sáng tạo, ngôn ngữ giàu biểu cảm. Từ đó, chúng ta cảm nhận được sự tươi mới, phấn chấn của tâm hồn con người khi ngắm nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi vui.
b. Sáu câu thơ cuối: Bức tranh thiên nhiên kết nối với tâm hồn con người
- Cảnh vật mang đậm nét thanh nhẹ, dịu dàng của mùa xuân: ánh nắng chiều tà, dòng suối nhỏ, chiếc cầu bắc ngang dường như lấp đầy tâm trạng của con người
+ Khung cảnh buổi chiều tà quen thuộc trong văn học khiến người ta ngập tràn trong cảm xúc không thể diễn tả.
+ Cảnh vật như chậm rãi, yên bình, mọi sự di chuyển đều trở nên êm đềm
+ Không gian dần thu hẹp, tỏa ra vẻ nhỏ bé, phản ánh nỗi buồn của con người
- Các từ như thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ mô tả sắc thái của cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng của con người
+ Từ 'nao nao' gợi lên nét buồn bã khó diễn tả. Hai từ 'thơ thẩn' chứa đựng nỗi tiếc nuối, sầu muộn, lòng buồn khi rời xa
- Bút kỹ thuật mô tả cảnh ngụ tình liên kết giữa cảnh vật và tình cảm, tạo nên sự hài hòa.
3. Kết luận
- Với bút pháp xuất sắc, đoạn trích vẽ nên bức tranh tươi đẹp của thiên nhiên và lễ hội xuân trong trẻo, trong sáng.
- Bức tranh làm nổi bật tình cảm nhân văn cao đẹp của nhà thơ tài ba Nguyễn Du đối với cảnh vật và con người.
- Đoạn trích khẳng định tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như sự xuất sắc của tác phẩm Truyện Kiều.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
Cảm nhận nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân – mẫu 2
Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là một tác phẩm xuất sắc, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn thơ này được viết sau đoạn tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Trong đó, Nguyễn Du đã mô tả một bức tranh về thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh rất sống động, tươi sáng. Ông đã kết hợp bút pháp tả cảnh và gợi lên những chi tiết ấn tượng, giàu cảm xúc, với ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để mô tả khung cảnh ngày xuân. Đầu tiên là bốn câu thơ đầu, với việc sử dụng nghệ thuật chấm phá độc đáo, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh về mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Hai câu thơ đầu này không chỉ gợi lên thời gian mà còn về không gian. Ngày xuân trôi qua nhanh chóng như thoi đưa. Cả mùa xuân kéo dài chín mươi ngày, từ tháng giêng, tháng hai cho đến tháng ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa khắp nơi. Trên bầu trời cao là đàn chim én mùa xuân đang bay lượn. Dưới mặt đất là những thảm cỏ xanh non vô tận, chạy xa tít tắp. Động từ “tận” khiến không gian mùa xuân như mở rộng ra vô tận, bao phủ bởi màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy, những bông hoa lê trắng tinh khôi được điểm xuyết. Sử dụng biện pháp đảo ngữ tô thêm sắc trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn Du, đã tạo ra một bức tranh xuân tươi mới, trong trẻo và giàu sức sống. Đến sáu câu thơ cuối, qua nghệ thuật 'tả cảnh ngụ tình', Nguyễn Du đã mô tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân, đầy nỗi buồn của con người.
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn vòng tay về
Bước dần theo dòng suối nhỏ
Lần xem phong cảnh có vẻ êm đềm
Nao nao dòng nước vắt quanh
Dịp cầu nho nhỏ bên mé bờ
Cảnh vẫn giữ được sự dịu dàng, nhẹ nhàng của ngày xuân nhưng ánh dương đã 'tà tà' lảng về phía tây. Cảnh vật dần trở nên nhạt nhòa, cái khung cảnh ồn ào, sôi động ban đầu của sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự yên bình, tĩnh lặng. Không gian xuân thu hẹp lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn, không còn mở ra rộng lớn, bao la như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của những người ra về. Phong cảnh vẫn 'thanh thanh' nhưng nhẹ nhàng hơn, dòng nước suối thì uốn quanh 'nao nao', và chiếc cầu 'nho nhỏ' thì 'bắc ngang' cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, mang theo một nỗi buồn lưu luyến, bí ẩn, và bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều gì đó sắp xảy ra, như là dự báo cho cuộc gặp gỡ của nấm mồ Đạm Tiên và hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với cách diễn đạt cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã tạo ra bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân rất sâu sắc, đầy cảm xúc của con người nhân vật. Điều này là minh chứng cho tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện ra rực rỡ, đầy sức sống, mênh mông, vô tận trong màu xanh non, biếc rờn của cây cỏ thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại dưới ánh nắng chiều yếu ớt nhòa, dịu dàng lảng về phía tây, thu hẹp lại thành một không gian nhỏ bé và nhuốm màu tâm trạng của con người. Cảnh chuyển đổi rất tự nhiên và hợp lý.
Cảm xúc về nghệ thuật diễn tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân – mẫu 3
Truyện Kiều của nhà văn lớn Nguyễn Du được xem là một kiệt tác của văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ thu hút sự quan tâm của độc giả trong nước mà còn thu hút sự chú ý và lòng yêu mến của nhiều độc giả quốc tế. Sự thành công của nó không chỉ nằm ở việc phản ánh chân thực hiện thực xã hội của thời đại mà còn ở bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Một trong những điển hình của nghệ thuật miêu tả trong Truyện Kiều đó chính là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Ở đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về nghệ thuật này trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” để hiểu rõ hơn về tài năng của Nguyễn Du.
Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đầy sức sống được nhà thơ Nguyễn Du vẽ ra rất sinh động, tươi mới, và tràn ngập sắc xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh chim én để miêu tả khung cảnh mùa xuân. Loài chim này thường gợi lên ý niệm về mùa xuân với tính cách sinh học đặc trưng của nó. Khi những đàn én bay lượn trên bầu trời, đó là dấu hiệu cho thấy mùa xuân đã đến. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp với cỏ non mướt màu xanh lan tỏa đến chân trời. Sự kết hợp giữa màu xanh của cỏ và màu trắng của hoa lê tạo nên vẻ đẹp sống động của mùa xuân.
Không chỉ không khí của ngày xuân được Nguyễn Du tái hiện một cách sinh động, chân thực mà ngay cả khi bầu trời ngả bóng chiều tà, khi không khí ngày xuân dần dần lặng xuống, nhường chỗ cho bóng tối thì Nguyễn Du vẫn dùng sự tài hoa, tinh tế của mình mang đến cho người đọc một bức tranh chiều tà thật đẹp:
Bước dần theo dòng suối nhỏ, ngắm nhìn phong cảnh thanh thanh. Dòng nước uốn quanh dịp cầu nhỏ cuối ghềnh bắc qua. Mùa xuân không chỉ sôi động mà còn trầm lắng, đẹp đẽ trong bức tranh chiều tà của Nguyễn Du.
Phong cảnh mùa xuân hiện ra với sắc màu tươi tắn, mới lạ. Cỏ non xanh mơn mởn trải dài ra bát ngát, mênh mông, dường như không có điểm dừng. Hình ảnh những đám cỏ này trải dài đến tận đường “chân trời” trong không khí sôi động của mùa xuân.
Bầu trời như cao hơn, rực rỡ hơn với ánh nắng xuân nhẹ nhàng mà đầy tinh khiết. Sự xuất hiện của sắc trắng hoa lê đã làm cho bức tranh ngày xuân thêm hoàn mĩ, bộc lộ được trọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân.
Mùa xuân nhộn nhịp bởi cánh én chao lượn và sự tấp nập của con người. Dù khi chiều tà buông xuống, không khí trở nên trầm lắng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn không mất đi. Khung cảnh buổi chiều tràn đầy cảm xúc buồn trong sự thanh thản.
Khung cảnh mùa xuân được tái hiện với sự sinh động và chân thực, từ những đám cỏ non mướt đến ánh sáng rực rỡ của thiều quang. Dù là cảnh sôi động của ban ngày hay vẻ đẹp trầm lắng của chiều tà, mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho con người.
Nhờ vào trực giác nhạy bén của thi sĩ, nghệ thuật mô tả cảnh vật của Nguyễn Du được tái hiện một cách chân thực và tự nhiên nhất, từ sự nhộn nhịp đến sự nhẹ nhàng của cảnh vật, từ sự sôi động đến sự thanh tĩnh của tâm hồn con người. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” thực sự là một bức tranh sống động, đẹp nhất, thể hiện được tài năng vĩ đại trong việc mô tả cảnh vật cũng như tinh thần tinh tế của Nguyễn Du.
Nhận thức về nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong “Cảnh ngày xuân – mẫu 4” được Nguyễn Du thể hiện một cách xuất sắc nhất. Thông qua đoạn trích này, ông đã tái hiện một cách tài tình nhất khung cảnh mùa xuân với tất cả sắc thái của nó: sự sống động, sự rạng ngời và sự thơ mộng.
Nguyễn Du, một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam, đã tạo ra một tác phẩm vĩ đại với Truyện Kiều. Văn chương của ông không chỉ là một tác phẩm văn học nổi tiếng, mà còn là một tuyên ngôn về nhân đạo và một ví dụ xuất sắc về nghệ thuật văn chương. Bằng cách mô tả cảnh vật trong “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã cho thấy khả năng tài tình của mình.
'Con én đưa thoi vào ngày xuân, Thiều quang đã chín chục ngày qua sáu mươi'. Bằng cách mô tả tinh tế, Nguyễn Du đã làm nổi bật không gian và thời gian trong hai câu thơ đầu. Hình ảnh con én đưa thoi là biểu tượng cho sự trôi chảy của thời gian và mùa xuân. Thiều quang gợi lên hình ảnh của một mùa xuân ấm áp và rực rỡ.
Cảnh thiên nhiên với cỏ non xanh mướt lan tỏa đến chân trời, tạo nên vẻ đẹp bất tận của mùa xuân.
Nhờ vào bút pháp tinh tế kết hợp với sự mô tả, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh mùa xuân sống động. Bức tranh đó không chỉ là một hình ảnh thực tế về mùa xuân mà còn là một biểu tượng cho sự chuyển động của thời gian và mùa xuân.
Cảnh thiên nhiên với cỏ non xanh mướt mở ra trước mắt như một bức tranh sống động, tươi mới của mùa xuân.
Một vài bông hoa trắng trên cành lê'
Trong bài thơ này, Nguyễn Du đã sáng tạo bằng cách áp dụng một câu thơ cổ từ Trung Quốc và thay thế 'cỏ thơm' bằng 'cỏ non', tạo ra một bức tranh màu xanh của cảnh xuân trải rộng đến chân trời. Màu xanh là nền của bức tranh xuân, với một vài bông hoa lê trắng được tô điểm. Từ 'trắng' được đặt lên đầu để làm nổi bật các chấm trắng nhỏ, tạo điểm nhấn sáng trong toàn bộ bức tranh. Sự hài hòa của màu sắc làm cho bức tranh trở nên hoàn hảo. Chữ 'điểm' tạo ra sự sống động cho bức tranh, mang lại sự sống cho nó.
“Trong tiết thanh minh tháng ba,
Lễ là viếng mộ, hội là đi trẩy hội”
Cảnh trẩy hội mùa xuân diễn ra một cách náo nhiệt và sôi động. Trên khắp mọi nẻo đường, mọi người đều hân hoan tham gia vào lễ hội. Có rất nhiều người tham gia, từ các gia đình đến các cặp đôi, tất cả đều hòa mình vào không khí vui tươi của mùa xuân.
“Khắp nơi đều ngập tràn yến anh,
Chị em sắm sửa sẵn bộ đồ để đi vui chơi mùa xuân.
Tài tử và giai nhân dập dìu,
Ngựa xe chảy như nước, áo quần bay như nêm”
Nguyễn Du đã tài tình mô tả bức tranh vui tươi của lễ hội mùa xuân thông qua việc sử dụng các từ ngữ phong phú và đa dạng. Các từ láy, từ ghép, và danh từ như 'chị em, yến anh, tài tử, giai nhân' thể hiện sự đông đúc của đám đông tham gia lễ hội. Các động từ như 'sắm sửa, dập dìu' mô tả sự náo nhiệt và rộn ràng của ngày hội. Các tính từ 'gần, xa, nô nức' nhấn mạnh tâm trạng và không khí của người tham gia. Bằng cách sử dụng các từ ngữ ẩn dụ như 'yến anh', hoán dụ như 'ngựa xe, áo quần', Nguyễn Du đã làm cho bức tranh lễ hội mùa xuân trở nên sống động và sinh động, phản ánh sự trẻ trung và vui vẻ của ngày hội.
“Gò đống đan ngang kéo lên,
Thoi vàng vó rơi như mưa tiền giấy”
Cuộc vui luôn có hồi kết, và sáu câu thơ cuối của bài thơ mô tả hình ảnh chị em Thúy Kiều trở về sau cuộc du xuân. Mặc dù cảnh vật đẹp, nhưng tâm trạng của họ vẫn mang một chút buồn vui khi cuộc vui kết thúc.
“Bóng tà về phía tây nghiêng ngả,”
Chị em thơ thẩn bước ra về,
Bước dần theo dòng suối nhỏ,
Lần xem phong cảnh dịu dàng mềm mại.
Nhẹ nhàng dòng nước uốn quanh,
Dọc theo bờ ghềnh bắc, dòng suối uốn khúc,”
Cảnh vẫn mang vẻ dịu dàng của mùa xuân. Ánh nắng nhạt nhẹ, dòng nước nhỏ uốn quanh một dòng suối nhỏ bắc ngang, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ ngả bóng về phía Tây, bước chân của người thơ thẩn. Mặc dù không khí náo nhiệt của lễ hội đã dần nhạt phai, nhưng cảnh vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên và thanh bình. Cảnh mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu cho thấy sự thay đổi của không gian và thời gian, nhưng điều quan trọng nhất là cảnh được nhìn nhận thông qua tâm trạng của con người. Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh thiên nhiên sống động, kết hợp với tâm trạng của con người.
Có thể nói sáu câu thơ cuối bài thơ là bức tranh chiều xuân đẹp nhất được nhìn nhận qua tâm trạng của con người. Nguyễn Du đã viết: “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Tóm lại, thông qua từ ngữ và bút pháp miêu tả phong phú trong đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', Nguyễn Du đã khơi gợi tưởng tượng của độc giả về một bức tranh thiên nhiên và lễ hội xuân đẹp và tràn đầy sức sống, đồng thời tạo ra một đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thành công nhất của ông. Ông không chỉ là một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là một họa sĩ của ngôn từ tài ba. Qua đó, chúng ta hãy hiểu cách yêu quý thiên nhiên và giữ gìn những nét đẹp truyền thống của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”