Bài văn Đánh giá về bài thơ Viếng Lăng Bác hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và lựa chọn từ những bài văn xuất sắc đạt điểm cao của học sinh lớp 9. Hy vọng rằng với cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác này, các bạn sẽ phấn khích và có khả năng viết văn tốt hơn.
Top 40 Đánh giá về bài thơ Viếng Lăng Bác
Đánh giá về bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 1
“Con từ miền Nam về thăm lăng Bác
Trong sương mờ bao phủ hàng tre xanh
Ôi! Hàng tre xanh của Việt Nam
“Giông bão mưa rào đổ liền hàng”
“Bác thương miền Nam tình thương như cha
Miền Nam mong Bác khao khát như cha”
(Tố Hữu)
Nghệ thuật giảm nhẹ và tránh né đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau vô cùng đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu cảm xúc đau lòng trào ra như một cơn sóng mạnh mẽ, nhưng ấn tượng đầu tiên để lại trong tâm trí của tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm rạng rỡ bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh. Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc ta, của tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, cho đến những cây chông, cây gai vót nhọn làm ngăn cản bước quân thù. Cây tre đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.
Không phải từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc cảm giác sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chuyển thành một lời cảm thán.
“Ôi! Hàng tre xanh non Việt Nam
Bão táp mưa giông ập đến thẳng hàng”
Nhìn những hàng tre xung quanh lăng Bác, nhà thơ bỗng cảm thấy rằng những cây tre ấy như biểu tượng cho ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Dù phải đối mặt với những cơn bão táp mưa giông, họ vẫn đứng vững, đoàn kết, không khuất phục. Từ cụm từ “xanh xanh” ở đây được sử dụng để diễn đạt ý rằng dân tộc Việt Nam luôn giữ vững sức mạnh, bền bỉ như màu xanh của cây tre bất diệt. Màu xanh này không bao giờ phai nhạt, luôn hiện diện qua thời gian. Thế hệ sau luôn tiếp nối và bảo vệ di sản văn hóa, tinh thần của cha ông. Khổ thơ đầu tiên toả ra sự đau buồn vì mất đi Bác, nhưng cũng chứa đựng niềm tự hào về dân tộc.
“Con người tỏa sáng như mặt trời cách mạng
Trong khi giặc ngoại xâm như loài dơi hoảng loạn”
(Sáng tháng năm)
“Hằng ngày mặt trời trôi qua trên lăng
Thấy một bóng mặt trời trong lăng rực đỏ”
Mỗi ngày, hàng dòng người vẫn đi trong niềm nhớ mong
Hoa kết thành một dải dẫn mười lăm mùa xuân”
Có lẽ đây là khổ thơ quý giá nhất trong bài thơ. Toàn bộ khổ thơ là sự tôn vinh công ơn của Bác, là biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc không thể diễn tả của toàn dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp tục hành trình, nhà thơ đến thăm lăng Bác. Và nay, ông gặp được Người cha già mà ông luôn trọng kính, yêu mến:
“Bác nằm yên trong giấc ngủ bình yên
Dưới ánh trăng sáng dịu dàng
Vẫn biết rằng bầu trời xanh là vĩnh cửu
Nhưng lòng lại cảm thấy nhói đau”
Bác nằm yên đó, nhẹ nhàng và thanh thản như đang chìm vào một giấc ngủ ngon lành. Cuộc đời của Người chỉ có một ước mong, đó là đất nước được hòa bình. Vì vậy, khi đất nước đã đạt được hòa bình và độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình. Toàn bộ cuộc đời của Người đã dành trọn vẹn sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, và giờ đây, Người đang 'nằm trong giấc ngủ yên bình'. Đối với nhà thơ hoặc bất kỳ ai khác, Bác dường như vừa mới xuống làm cho mình một giấc ngủ sau bao ngày lao động vất vả, đêm ngày lo lắng cho cuộc chiến của dân tộc:
“Khung cảnh đêm như bức tranh vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo âu cho nước nhà”
“Tiếng suối chảy êm như làn nhạc xa
Trăng chiếu sáng bóng dáng của những cây lồng hoa”
Hoặc:
“Giữa dòng cuộc trò chuyện về công việc của quân đội
Buổi tối về, trăng rọi sáng cả cảnh trời, những chiếc thuyền ngự trên dòng nước
“Vẫn hiểu rằng bầu trời xanh sẽ còn mãi mãi
Nhưng lòng cảm thấy nhói như bị đâm sâu vào tim”
Mỗi lời trách cứ mới chỉ làm đau lòng thêm! Lời trách cứ ấy dành cho bầu trời xanh kia. Bầu trời vẫn như thế, bao năm qua vẫn xanh mãi không phai, vậy mà Người Cha già của dân tộc đã phải rời bỏ chúng ta? Mặc dù chúng ta hiểu rõ quy luật tự nhiên của sự sống và cái chết, nhưng nỗi đau đớn vẫn cứ đeo bám, càng thêm đau đớn. Mặc cho lý trí biết rằng quy luật của thiên nhiên không thay đổi, nhưng tâm hồn vẫn “cảm thấy nhói” sâu trong tim. Nỗi đau đó đã trở thành lời trách cứ dành cho bầu trời xanh. Và cảm giác “nhói như bị đâm” khiến người đọc cảm nhận được phần nào nỗi đau, sự coi ngóng mà tác giả muốn diễn đạt. Thứ cảm xúc đó đè nén lên mọi giác quan của con người.
Mọi cuộc gặp gỡ cuối cùng đều phải chia tay và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã rơi vào trạng thái cảm động vô cùng. Sự xúc động đó cùng với nỗi đau từ trước đã ẩn dụ thành tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
“Ngày mai quay về miền Nam, nước mắt lưng chừng không ngừng chảy
Muốn trở thành một chú chim hót vang quanh lăng Bác
Muốn trở thành một bông hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn trở thành một cây tre trung hiếu ở đây
Cùng với việc sử dụng các biện pháp tu từ, đặc biệt là sự nói giảm nói tránh, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương đã làm cho tình cảm kính trọng đối với Bác sống lại trong lòng người đọc, đồng thời hòa mình vào nỗi đau và ước muốn mà tác giả muốn truyền đạt.
Phân tích nội dung
1. KHỞI ĐẦU
- Giới thiệu về tác giả: Viễn Phương là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam, nổi tiếng với việc tôn vinh vẻ đẹp của nhân dân và đất nước trong cuộc chiến chống xâm lược ngoại quốc. Phong cách viết của ông nhẹ nhàng, trong sáng, phong phú về cảm xúc và tình cảm.
- Giới thiệu về tác phẩm:
+ Bài thơ 'Viếng lăng Bác'(trong tập 'Như mây mùa xuân'-1978) là sự tỏ lòng thành kính, biết ơn và tự hào của một người con từ miền Nam ra viếng Bác lần đầu.
2. NỘI DUNG CHÍNH
a) Cảm xúc mạnh mẽ khi đến thăm lăng Bác (khổ 1)
- Ngay khi đến gần lăng, nhà thơ đã tràn đầy xúc động: 'Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác'.
+ Việc sử dụng cặp đại từ 'con - Bác' thể hiện sự gần gũi, thân thiết của người miền Nam, vừa tôn kính vừa thể hiện tình cảm yêu thương dành cho người thân trong gia đình. Đọc câu thơ, dường như Viễn Phương là một người con xa xứ mới trở về bên người cha của mình.
+ Sự sử dụng từ 'thăm' làm giảm đi nỗi đau thương, đồng thời khẳng định sự bất tử của Bác trong lòng người dân Việt Nam.
=> Một câu thơ giản dị nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc, sự bồi hồi và xúc động của nhà thơ, sau bao ngày chờ đợi, mong nhớ, mới được đến viếng lăng Bác.
- Nhà thơ đã ấn tượng với 'hàng tre' bên ngoài lăng Bác.
+ Hình ảnh này làm nên vẻ đẹp quen thuộc cho lăng Bác, mang lại cảm giác thân quen, gần gũi của quê hương, Việt Nam.
+ Hình ảnh này gợi lên nhiều ý nghĩa. 'Hàng tre bát ngát' và 'hàng tre xanh xanh' tái hiện vẻ đẹp tràn đầy sức sống của con người và đất nước ta. Vẻ đẹp mạnh mẽ, kiên cường, hiên ngang của nhân dân được thể hiện rõ qua câu thơ 'Bão táp mưa sa đứng thằng hàng'. Hàng tre bao quanh lăng còn tượng trưng cho cả dân tộc đang bao vây Bác.
=> Khổ 1 là cảm xúc sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
b) Nỗi tiếc thương và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ khi vào viếng Bác (khổ 2)
- Nhà thơ đã tạo ra hình ảnh 'mặt trời' thực (Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng) và 'mặt trời' ẩn dụ (Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ) để mô tả Bác Hồ, tôn vinh sự vĩ đại của Người và biểu hiện lòng biết ơn sâu sắc của dân tộc.
- Hình ảnh 'dòng người' với từ ngữ 'ngày ngày' gợi lên dòng thời gian vô tận, mô tả khung cảnh những người dân Việt lặng lẽ viếng Bác với nỗi nhớ tiếc.
- “Tràng hoa dâng 79 mùa xuân' (tương đương với 79 năm cuộc đời Bác đã dành hết cho sự nghiệp giải phóng đất nước) là biểu tượng của tình yêu, lòng biết ơn và tiếc thương từ hàng triệu trái tim người Việt và bạn bè quốc tế dành cho Cha già dân tộc. Đồng thời, đây cũng là cách để nhà thơ khẳng định rằng Bác sẽ sống mãi trong trái tim của nhân dân.
c) Niềm thương nhớ, nỗi xót xa của nhà thơ khi đứng trước di hài Người ....(khổ 3)
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền'
- Mặc dù sử dụng từ ngữ nhẹ nhàng 'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”, nhưng nhà thơ vẫn không thể tránh khỏi nỗi đau lòng: 'Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim'
+ Hình ảnh 'trời xanh' là biểu tượng cho sự bất tử của Bác trong lòng nhân dân.
+ “Nghe nhói': gợi lên cảm giác đau lòng bất ngờ, tê tái của một người con khi đứng trước di hài của Cha.
- Đoạn thơ đã lồng ghép những cảm xúc sâu thẳm của người Việt Nam đối với Bác: lòng biết ơn, tôn kính, nhớ nhung và xót xa...
d) Cảm xúc khi từ biệt của nhà thơ (khổ 4)
- Ước nguyện trở thành sự thật:
+ Sự mong muốn được thể hiện bằng từ ngữ “muốn làm”, thể hiện lòng khao khát sâu sắc, hăng hái của nhà thơ.
+ Liệt kê “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” là biểu hiện của khát vọng tạo dựng một bức tranh đẹp bên lăng Bác, tượng trưng cho những lý tưởng cao đẹp - muốn giữ cho Bác luôn trong giấc ngủ bình yên.
+ Thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với vị Cha già của dân tộc.
3. KẾT BÀI
- Bằng cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, thân thiện và giàu sức thú vị; giọng điệu chân thành, trang trọng, sâu lắng và nồng nàn, tình cảm yêu kính, tiếc thương vô hạn của toàn dân Việt Nam dành cho Bác đã được nhà thơ thể hiện qua các hình ảnh thơ phong phú, vừa diễn đạt sự thật vừa chứa đựng giá trị biểu tượng.
- Khẳng định và ca ngợi truyền thống lòng hiếu thảo, trung kiên của dân tộc Việt Nam
Sơ đồ Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 2
“Đã mấy hôm nay buồn tiễn đưa
Người lệ tuôn mưa trời cũng tuôn mưa
Chiều hôm nay con trở về viếng Bác
Ướt mát bóng cây, vườn cau thăm dừa...
(Bác ơi!, Tố Hữu)
Bắt đầu bài thơ là tâm trạng của Viễn Phương khi đứng bên ngoài lăng:
Con từ miền Nam đến thăm lăng Bác
Nhìn thấy trong sương hàng tre bao la
Ôi! Hàng tre xanh tươi Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng hàng thẳng.
“Bác nhớ miền Nam, nhớ nhà quê
Miền Nam mong Bác, mong cha yêu”
(Tố Hữu)
Với mối quan hệ thân thiết đó, Viễn Phương không ngần ngại từ miền Nam đến thăm Bác. Trong câu thơ đầu, ông sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh bằng từ 'thăm' thay vì 'viếng', nhấn mạnh việc ông coi việc đến Bắc như việc trở về nhà thăm cha, nhà, nơi nghỉ ngơi của Bác. Viễn Phương kín kẽ kìm nén nỗi đau trong lòng, không muốn biểu lộ ra bên ngoài. Khi đứng bên ngoài lăng, hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc với Viễn Phương là 'hàng tre'. Hình ảnh này đầy sức gợi: Cây tre gần gũi, thân thuộc với nông thôn Việt Nam, biểu tượng cho sức mạnh của dân tộc. Hàng tre xanh xanh, bát ngát tượng trưng cho dân tộc bảo vệ, canh giấc ngủ yên của Bác. Cảm thán 'Ôi' thể hiện sự ngạc nhiên của tác giả khi phát hiện ra điều đó: hàng tre - dân tộc - chiến sĩ luôn đồng lòng bên Bác. Như vậy, việc Viễn Phương thăm Bác như việc trở về nhà, thăm cha với nhiều cảm xúc.
“Người chiếu sáng như mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là bầy dơi hoảng loạn
Đêm tối, chúng bay lung lay dưới chân Người...'
Sau đó, nhà thơ mô tả cảnh dòng người đến lăng viếng Bác một cách lần lượt:
'Ngày ngày, dòng người đi trong nỗi nhớ thương
Kết hàng trăm hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...'
Chia sẻ trong không khí lúc dòng người vào lăng, khi đứng trước di hài Bác, cảm xúc nghẹn ngào của nhà thơ trỗi dậy:
'Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Dưới ánh trăng sáng dịu hiền'
Từ cảm xúc nghẹn ngào chuyển sang lòng xót xa, đau đớn, tiếc nuối:
'Biết rằng trời xanh vẫn mãi thế
Nhưng lòng cảm thấy đau nhói trong tim.'
Hình ảnh 'bầu trời xanh' là biểu tượng: khẳng định rằng Bác vẫn sống mãi trong trái tim của mỗi người Việt Nam, tư tưởng và công việc của Người sẽ tồn tại mãi mãi, như bầu trời xanh của vũ trụ, tự nhiên. Mặc dù nhận thức được điều đó, nhưng tình cảm xót thương không chấp nhận sự mất mát, ra đi vĩnh viễn của Người. Nỗi đau được nhà thơ diễn đạt một cách cụ thể, trực tiếp: 'Nhưng lòng cảm thấy đau nhói trong tim!'. Cấu trúc tương phản ' Biết ... nhưng' kết hợp với dấu chấm than ở cuối khổ thơ đã diễn tả tình cảm chân thành, xót xa, đau đớn vô tận trong tâm hồn của một đứa con xa nhà, nay trở về chịu tang cha, đứng trước di hài của cha mà nước mắt không ngừng rơi. Đây cũng là cảm xúc chung của biết bao nhiêu người khi Bác đã ra đi: 'Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa' (Tố Hữu - Bác ơi!).
Trong những khổ thơ trước đó, nhà thơ cố gắng kìm nén cảm xúc, không muốn khóc khi nhớ đến sự ra đi vĩnh viễn của Bác, nhưng đến khổ thơ cuối cùng, khi sắp phải chia tay, nhà thơ không còn đủ sức lực để kìm nén lòng mình nữa mà đã phải khóc nức nở. Nghĩ tới lúc phải tạm biệt Bác, Viễn Phương không thể kìm nén được lòng mình. Lời thơ rất giản dị, mộc mạc, chân thành, tha thiết thể hiện niềm luyến tiếc, không muốn chia xa. Từ nỗi xúc động nghẹn ngào đó, nhà thơ cũng bộc lộ ước nguyện sâu sắc của mình:
'Muốn là con chim hót về lăng Bác
Muốn trở thành bông hoa tỏa hương khắp nơi
Muốn là cây tre trung hiếu ở đây.'
Ba câu thơ với hình thức điệp từ 'muốn làm' (ba lần) tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, thể hiện niềm khát khao sâu sắc, chân thành của nhà thơ. Những ước nguyện được diễn đạt thông qua loạt hình ảnh tươi đẹp, rõ ràng: muốn trở thành con chim hót cao vút, muốn thành đóa hoa mang hương thơm đến nơi Bác nằm, và muốn dành hết tinh hoa của mình để Bác được yên bình, thanh thản trong giấc ngủ vĩnh hằng.
Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 3
Trong chương trình ngữ văn lớp 9, bài thơ “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương đã gây ấn tượng sâu sắc và làm trái tim của em xao động nhất.
“Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Trong sương mơ màng thấy hàng tre bao quanh
Ôi! Hàng tre xanh mướt Việt Nam
Bão táp mưa rơi sa hàng ngang”
Đây là những câu thơ đầu tiên của bài, thể hiện cảm xúc rõ rệt và đặc biệt của tác giả, nhưng cũng là cảm xúc sâu sắc của một người con xa quê trở về thăm lăng Bác, giống như niềm vui của con cháu khi thăm ngôi mộ của người thân. Từ xa, Viễn Phương đã nhìn thấy lăng Bác - nơi Bác nghỉ ngơi giữa làn sương mù, với hàng tre vững chãi tựa vào nhau. Hàng tre xanh như tâm hồn Việt Nam, thể hiện sức sống mạnh mẽ và sự kiên cường của người Việt trước mọi thách thức.
“Ngày ngày mặt trời chiếu sáng trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ
Hàng ngày dòng người vẫn đến với tâm thương nhớ
Tràng hoa dâng tặng bảy mươi chín mùa xuân”
Bác yên nghỉ trong lăng, nhưng vẫn dõi theo mọi bước đi của dân tộc. Hình ảnh của “Mặt trời” được sử dụng hai lần, tạo ra sự bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm cho đoạn thơ trở nên sâu sắc hơn. Mặt trời tỏa sáng hàng ngày, mang lại ánh sáng và ấm áp cho mọi người. Đặc biệt, khi đưa mặt trời vào lăng, nó vẫn tỏa sáng và ấm áp, sưởi ấm tâm hồn của người dân Việt Nam. Mặt trời này cũng tỏa sáng và tỏa nhiệt. Màu sắc “rực đỏ” làm cho câu thơ trở nên sâu sắc và ấn tượng hơn.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Dưới ánh trăng dịu dàng, sáng rọi
Vẫn nhận ra rằng trời xanh vẫn mãi mãi
Nhưng lòng vẫn đau nhói trong tim này”
Mai trở về miền Nam, lòng đau nhớ trào ra những giọt nước mắt
Ước mình là con chim hót vang quanh lăng Bác
Ước mình là đóa hoa tỏa hương khắp nơi này
Ước mình là cây tre trung hiếu ở đây
Câu thơ cuối thể hiện cảm xúc, nỗi niềm của tác giả trước sự hy sinh của Bác, nhà thơ thể hiện khao khát không chỉ của mình mà còn của dân tộc, mong muốn trở thành con chim hót vui bên lăng Bác hoặc đóa hoa tỏa hương cho cuộc sống, tỏa hương bên cạnh nơi Bác nghỉ ngơi. Khổ thơ đã thể hiện cảm xúc của tác giả trước lăng Bác, trước sự hy sinh của Bác. Sự hy sinh của Bác là một mất mát lớn của dân tộc, một phần không tránh khỏi của vòng quay của cuộc sống. Với từ ngữ đơn giản, đặc biệt là lòng yêu thương và tôn trọng trước vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. “Viếng lăng Bác” đã mang đến cho người đọc những cảm xúc đong đầy trước nơi nghỉ ngơi của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo tình cảm của hàng triệu người dân miền Nam đến viếng lăng Bác, đây như là một cuộc trở về của thi sĩ đến với gốc gác, quê hương của mình. Nhà thơ Viễn Phương thể hiện một tình cảm sâu sắc, một sự xúc động của người con trước nơi nghỉ ngơi của vị lãnh tụ dân tộc.
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 4
Khổ đầu của bài thơ đem lại cảm giác bỡ ngỡ, vừa mới lạ vừa quen thuộc:
'Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác'
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Một lời cảm thán mở đầu câu đã khơi mở ra nhiều cảm xúc khác nhau. Màu xanh của tre, của trúc không chỉ là điều thông thường, mà còn là biểu tượng của tâm hồn Việt Nam, của bản sắc dân tộc đã ghi dấu rõ nét. Đằng sau lớp sương mù mờ ảo, hiện lên một hình ảnh rõ ràng của dân tộc Việt Nam, một hình ảnh đã tồn tại hàng nghìn năm và kiến thiết nước non. Bền bỉ, linh hoạt và vĩnh cửu là những đặc điểm riêng chỉ có ở dân tộc này. Bầu không khí của bài thơ được tạo nên từ sự cảm động và nghẹn ngào, làm xao xuyến tận sâu trong lòng người đọc. Chỉ những con người kiên cường, quyết liệt trong cuộc sống và cái chết mới có thể cảm thấy xúc động trước hàng tre mà ít ai để ý đến.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.'
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Khổ cuối của bài thơ, với sự đối chiếu với khổ thơ đầu: hai địa danh (miền Nam) và hai hình ảnh (cây tre) được tái hiện nhằm hoàn thiện một cuộc hành trình, nhưng tinh thần đã thay đổi. Trở về nơi đã từng rời bỏ, từ nơi mới đến là đám nước mắt tràn ngập hàng mi (thương trào nước mắt) và hàng tre gặp gỡ đã trở thành một biểu tượng về phẩm chất, về nhân cách con người, trở thành “cây tre trung hiếu”. Ước mong của nhà thơ là được sống trong cảm xúc ấy:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây”
Cảm nhận bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 5
Xuyên suốt bài thơ là dòng cảm xúc dâng trào, xúc động, lòng không kìm nổi khi đứng trước một anh hùng dân tộc. Bài thơ bắt đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là biểu tượng gần gũi với đất nước Việt Nam, tượng trưng cho sự kiên cường, dẻo dai, tinh thần không khuất phục của dân tộc ta. Dù bão táp mưa sa, hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và không khuất phục như tinh thần quật cường của dân tộc.
Mỗi ngày mặt trời lặn qua lăng
Thấy một mặt trời trong đó rực rỡ đỏ
Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương cảm động nghẹn ngào:
Mỗi ngày dòng người đi trong niềm nhớ mong
Kết đoàn hoa dâng bày đầy bảy mươi chín mùa xuân
Bác nằm giữa lăng ngủ trong bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng hiền hòa
Vẫn hiểu trời xanh sẽ mãi mãi
Nhưng lòng ta vẫn đau nhói mãi
Bác vẫn nằm đó, giữa thủ đô rực rỡ nắng, giữa triệu trái tim dân tộc hướng về Người. Nụ cười “dịu hiền” trên khuôn mặt Người chính là biểu tượng của sự cao quý, trong sạch nhất của một cuộc đời. Mặc nỗi đau vẫn còn đó, sự mất mát vẫn còn đó, nhưng dân tộc luôn ghi nhớ Người.
Có lẽ khổ thơ cuối cùng người đọc sẽ cảm thấy khiêm tốn trước lời ước ao của Viễn Phương:
Mai trở về miền Nam, nước mắt thương trào
Muốn làm con chim hót vang quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương ở nơi này
Muốn làm cây tre trung hiếu ở đây
Cảm nhận về bài thơ Viếng Lăng Bác - mẫu 6
Bài thơ được sáng tác vào năm 1976, khi Viễn Phương đầu tiên đến thăm lăng Bác sau khi miền Nam được giải phóng. Mặc dù ngắn gọn, nhưng bài thơ lại chứa đựng sức lan tỏa cảm xúc mạnh mẽ đến người đọc. Ngôn ngữ phản ánh chân thành và sâu sắc của tác giả.
Bắt đầu bài thơ, Viễn Phương đã thể hiện sự kích động sâu sắc, tình cảm ruột thịt: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”.
Một câu thơ đơn giản nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc. Trong tâm trí của Bác, sự chia cắt giữa miền Nam và miền Bắc, nỗi nhớ mong là niềm tự hào về biểu tượng anh hùng bất khuất của quê hương, của tổ quốc... Bây giờ, nhà thơ mang theo niềm tự hào đó, cùng với những người miền Nam đến viếng thăm lăng Bác. Hình ảnh đầu tiên trong lăng Bác là hình ảnh của hàng tre.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Khi hòa mình vào dòng người thăm lăng Bác, nhà thơ tiếp tục suy tư. Những dòng thơ đầy cảm xúc tự hào và kính trọng bắt đầu tràn ngập trong tâm hồn của tác giả.
'Mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực rỡ đỏ
Mỗi ngày dòng người đi trong niềm nhớ mong
Kết đoàn hoa dâng bày đầy bảy mươi chín mùa xuân'
Cùng với hình ảnh mặt trời, mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ, nhịp thơ chầm chậm bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy nghĩ bao trùm một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính dâng tràng hoa bảy mươi chín mùa xuân.
Nhà thơ Viễn Phương rất tinh tế trong việc mô tả từng đoàn người cầm trên tay những bó hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác.
“Ngày ngày… ngày ngày…” - thời gian trôi không ngừng và trôi vào lòng người Việt Nam như một quy luật tất yếu không thể thiếu.
Khi bước vào trong lăng, Viễn Phương đã nghẹn ngào đau đớn khi nhìn thấy Bác nằm đó:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ êm đềm. Sự bình yên của Bác là sự bình yên của đất nước. Bác nằm trong đó như đang nằm trong bảy mươi chín mùa xuân không ngừng. Hình ảnh nhà thơ kết tưởng một cách sâu sắc: “giữa một vầng trăng sáng”. Hình ảnh đó làm cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, huyền ảo trong sáng thanh khiết càng gợi cho người ta đến tình yêu thiên nhiên, sự thư thái và thanh bình. “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi, mà sao nghe nhói ở trong tim”, mặc dù tác giả biết Bác đã ra đi bình yên, đã ngủ một giấc ngủ dài, nhưng Bác luôn sống mãi trong tim của mọi người dân Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng không thể phủ nhận sự thật rằng Bác đã ra đi mãi, nên từ sâu trong tim ông như có một thứ gì đó bóp nghẹt lại.
Cảm xúc quyến luyến của nhà thơ khi ngày mai phải rời xa Bác để quay về miền Nam.
Đánh Giá Bài Thơ Viếng Lăng Bác - Mẫu 7
Bài thơ “Viếng lăng Bác” có thể là tiếng lòng của nhân dân miền Nam đối với Bác mà nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện. Bài thơ là biểu hiện của lòng kính yêu sâu sắc của nhân dân miền Nam đối với Bác. Tình cảm đó được thể hiện qua những cảm xúc từ lúc ra vào lăng và khi rời đi. Tất cả được diễn đạt tự nhiên, chân thành bằng những từ ngữ giản dị nhưng đầy cảm xúc.
Tác giả thể hiện tình cảm qua mạch cảm xúc khi ra vào lăng. Lời đầu tiên tác giả nói với Bác như một lời kết bạn, gần gũi:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Với cách gọi thân mật này, chúng ta cảm nhận như một đứa con đến thăm cha, tác giả đã thể hiện vai trò của Bác trong trái tim nhân dân miền Nam. Bác như một người cha của mọi người, một người cha vĩ đại của cả dân tộc. Khi đến viếng lăng Bác, cảm nhận của tác giả là sự gần gũi, thân thiết với hình ảnh hàng tre. Hàng tre vừa kiên cường vừa bình dị, gần gũi, là hình ảnh đầu tiên tác giả gặp khi đến lăng Bác và cũng là hình ảnh đầu tiên gợi lên những cảm xúc sâu thẳm. Cảm xúc của tác giả khi ra vào lăng, khi thấy những người xếp hàng vào viếng Bác là lòng biết ơn, lòng thành kính biết ơn Bác. Khi ở trong lăng Bác, trong không gian yên bình, thời gian dường như ngưng lại, tác giả cảm thấy đau đớn, xót xa trước sự ra đi của Bác. Nỗi đau đó nhói lên trong tim, là nỗi đau, là sự mất mát của hàng triệu người dân Việt Nam và của toàn bộ nhân dân miền Nam. Khi rời khỏi, tác giả lưu luyến muốn được ở lại bên lăng Bác. Theo mạch cảm xúc ấy, tình cảm kính yêu tha thiết của tác giả được thể hiện chân thành, tự nhiên.
Qua những hình ảnh thơ rất hay, rất đặc sắc, tình cảm của những người dân miền Nam cũng được tác giả diễn đạt rất thành công:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Giữa ánh trăng dịu dàng sáng sủa”
Bác đã ra đi nhưng trong lòng mỗi người dân Việt Nam, Bác vẫn sống mãi, tình yêu thương Bác dành cho dân tộc vẫn luôn hiện hữu. Ánh trăng sáng ấy thật trong sáng, thật tinh khiết, gợi lên tâm hồn của Bác và những bài thơ ánh trăng đẹp đẽ của Người. Nỗi đau mất Bác trong lòng mỗi người dân Việt Nam được giảm nhẹ khi Bác yên nghỉ trong không gian yên bình.
Tình cảm của nhân dân miền Nam được thể hiện rõ nhất qua khổ thơ cuối, thể hiện ước muốn được gần Bác. Ước muốn ấy được diễn đạt rất giản dị qua hình ảnh bông hoa, con chim, hàng tre. Cảm xúc mãnh liệt của tác giả được dâng trào: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Ước muốn của tác giả được nhấn mạnh khi dùng điệp ngữ muốn làm mở đầu ba câu thơ kết thúc cuối bài. Hình ảnh hàng tre được nhắc lại ở cuối bài tạo kết cấu đầu cuối tương ứng làm hoàn thiện cảm xúc của bài thơ.
Dùng hình ảnh thơ đặc sắc, thể hiện tình cảm chân thành, nhà thơ Viễn Phương đã nói lên lòng biết ơn, tình cảm kính yêu tha thiết nhất dành cho Hồ Chủ tịch.
Đánh Giá Bài Thơ Viếng Lăng Bác - Mẫu 8
“Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của Viễn Phương. Bài thơ đã ghi lại những cảm xúc chân thành và lòng biết ơn của nhà thơ cũng như của nhân dân dành cho Bác.
Mở đầu bài thơ, ta cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau 7 năm từ ngày Người ra đi:
Con từ miền Nam về thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương sớm hàng tre rợp bóng
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa gió, đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên vang lên như một lời chào, lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những người con từ miền Nam ra thủ đô thăm Bác. Viễn Phương xưng hô “con - Bác” gợi cảm giác gần gũi thân thương, gợi mối quan hệ gắn bó như cha con ruột thịt. Nhà thơ trong đó giống như một người con xa nhà, lâu ngày mới có dịp trở về thăm hỏi người cha già kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được sử dụng như cách nói giảm nói tránh cho sự ra đi của Bác để nén lại bớt cảm xúc mất mát đau thương chưa thể nguôi ngoai của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre rợp bóng” ẩn hiện trong làn sương sớm mờ ảo trên đường đến thăm Bác chính là hình ảnh tả thực mang dáng hình quê hương đất nước thân yêu, bình dị. Nó cũng là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên cường bất khuất, vượt qua “bão táp mưa gió” để thống nhất đất nước theo di ngôn của Người, rồi trở về nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của Người. Những hình ảnh gợi tả gợi cảm kết hợp với nhau đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị. Lăng Bác hiện lên dưới ngòi bút nhà thơ như một làng quê yên bình.
Tác giả bước theo dòng người chầm chậm vào lăng, tâm hồn trào dâng niềm thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật thời gian bất biến của tự nhiên lẫn con người, diễn tả hiện thực dòng người nối dài vô tận, lặng lẽ trang nghiêm mỗi ngày tiến vào lăng Bác để bày tỏ tình cảm với người cha già muôn vàn kính yêu. Họ là đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam, từ 54 dân tộc anh em trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của đất nước và con người Việt Nam kính dâng lên Bác.
Ngoài ra, tác giả cũng sáng tạo hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” diễn tả bảy mươi chín năm tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để đem đến cho dân tộc ta một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh hằng.
Khi đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ đầy cảm xúc không thể kìm nén, lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương tiếp tục sử dụng phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên” như muốn giảm bớt sự thật đau đớn về sự ra đi của Bác. Nhà thơ tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh chân thực đầy xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt thân thương của Bác trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn hồng mờ ảo. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là biểu tượng cho tình cảm của nhân dân với Bác. Nó kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào trào dâng. Biết rằng Người sẽ luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật Bác đã ra đi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói ở trong tim.”
Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói” nhấn mạnh niềm đau xót tột cùng của nhà thơ trước thực tại Bác không còn nữa. Rồi nghĩ đến ngày mai phải trở về, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả cũng như những người con miền Nam bật lên thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương, nhung nhớ Bác đến giây phút này đã không thể kìm nén. Lời thơ vang lên đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác của ông được bộc lộ mãnh liệt bằng một loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để hiến dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây tre thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Đó đều là những hình ảnh ẩn dụ chỉ những gì tinh túy tốt đẹp của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện xúc động của nhà thơ và toàn thể dân tộc: Muốn ở bên, canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Người.
Với bài thơ “Viếng lăng Bác” Viễn Phương đã đóng góp không nhỏ cho thi ca đề tài về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi mãi là tác phẩm đầy xúc cảm gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu mà nhà thơ và toàn thể dân tộc dành cho Bác.