
Tổng hợp hơn 40 bài văn giá trị nghệ thuật và nội dung xuất sắc nhất của Truyện Kiều, cung cấp dàn ý chi tiết để học sinh có thêm tài liệu tham khảo viết văn
Top 40 giá trị nội dung và nghệ thuật xuất sắc của Truyện Kiều
Giá trị nghệ thuật và nội dung của Truyện Kiều - mẫu 1
Phạm Quỳnh đã từng khẳng định: 'Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn'. Từ trước đến nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là kiệt tác văn chương của dân tộc. Thật vậy, để tạo nên giá trị đó, Nguyễn Du đã đóng góp sáng tạo mới mẻ về nội dung và hình thức nghệ thuật.
Trước tiên, dù sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm tài nhân), Nguyễn Du đã sáng tạo ra một tác phẩm mới với sự đa dạng trong nội dung. Truyện Kiều phản ánh bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam bất công, tàn bạo và xã hội kim tiền chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ. Đây là lời tố cáo về các thế lực xấu xa như sai nha, quan xử kiện, ích kỉ, tham lam, coi rẻ sinh mạng, phẩm giá con người. Tác phẩm cũng thể hiện những ảnh hưởng tiêu cực của đồng tiền, như những lời ngon ngọt 'Có ba trăm lạng việc này mới xuôi', và những lần lừa gạt Thúy Kiều vào lầu xanh của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,...
Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực rộng lớn, tác phẩm còn chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... Tác phẩm cũng thể hiện sự thương cảm, xót xa của Nguyễn Du trước số phận bi kịch của con người: 'Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về', và sau này ông thốt lên: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'. Thúy Kiều là người con gái tài sắc nhưng số phận lại vô cùng éo le, lấy chữ hiếu làm đầu để rồi sau bao nhiêu trắc trở, nàng lại cô đơn vò võ một mình. Một điều càng làm ta đau lòng, nhà thơ lại càng khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, quyền tự do, công lý, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Mối tình của Kim Kiều vượt lên trên lễ giáo phong kiến cùng thái độ chủ động của người con gái khi yêu: 'xăm xăm băng lối vườn khuya một mình' thể hiện khát vọng tình yêu của con người cùng hình ảnh người anh hùng Từ Hải ẩn chứa ước mơ của tác giả về một xã hội công bằng,... Bởi những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả đó, Mộng Liên Đường chủ nhân đã từng ca ngợi Nguyễn Du là người 'có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời'.
Truyện Kiều không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn đem lại những đặc điểm nghệ thuật độc đáo. Tác phẩm là sự kết hợp của các thành tựu văn học dân tộc trong các lĩnh vực ngôn ngữ và thể loại văn học. Về thể loại, tác phẩm được viết dưới hình thức truyện thơ Nôm, sử dụng thể thơ lục bát truyền thống. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm kết hợp linh hoạt với các ca dao, thành ngữ quen thuộc. Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã phát triển mạnh mẽ: từ miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, đến tâm lý nhân vật. Trong việc xây dựng nhân vật, Nguyễn Du kết hợp ngôn ngữ độc thoại và đối thoại để thể hiện tâm trạng, tính cách của nhân vật. Với nhân vật chính, ông sử dụng ngôn từ ước lệ, tượng trưng như thơ trung đại; với nhân vật phản diện, ông thường sử dụng ngôn từ bình dân, thực tế. Ông cũng có những kỹ thuật đặc sắc khi tả cảnh với phong cách ngụy tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc một cách gián tiếp. Tất cả đã tạo ra một 'Truyện Kiều' với những đặc điểm nghệ thuật mới mẻ. Với những đóng góp to lớn về nội dung và nghệ thuật, Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian trôi qua nhưng những tác phẩm thơ văn, những kiệt tác vẫn còn tồn tại mãi. 'Truyện Kiều' cũng vậy.
Dàn ý về giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều
1.Mở bài
- Nguyễn Du là một trong những nhà thơ vĩ đại của dân tộc, một biểu tượng văn hóa được thế giới biết đến.
- Ông để lại một di sản văn học đồ sộ, trong đó Truyện Kiều là một tác phẩm nổi bật kèm theo nhiều loại thơ chữ nôm và chữ Hán.
2.Thân bài
* Giá trị nội dung:
- Giá trị hiện thực: Phản ánh cảnh xã hội phong kiến Việt Nam không công bằng, tàn bạo, nơi mà tiền bạc làm chủ và đàn áp quyền sống của con người, đặc biệt là phụ nữ.
- Giá trị nhân đạo:
+ Bày tỏ sự phê phán, tố cáo những thế lực xấu xa bóp nghẹt con người.
+ Thể hiện lòng thương cảm, xót xa trước số phận bi kịch của con người.
+ Đề cao nhân phẩm, tài năng và những khát vọng chân chính của con người: quyền sống, tự do, công bằng, tình yêu và hạnh phúc.
* Giá trị nghệ thuật: Tác phẩm là thành tựu tinh túy của văn học dân tộc với ngôn ngữ và thể loại văn học:
- Sử dụng ngôn ngữ và hình thức thơ lục bát một cách tài tình, đạt đến đỉnh cao sáng tạo.
- Với 'Truyện Kiều', nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển đáng kể: Sự dẫn dắt câu chuyện, miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, và tâm lý nhân vật đã được thể hiện một cách xuất sắc.
3. Kết bài
- Đóng góp lớn về cả nội dung và nghệ thuật:
- Truyện Kiều xứng đáng là một kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian trôi đi và những tác phẩm vĩ đại vẫn tồn tại mãi. 'Truyện Kiều' cũng không phải là ngoại lệ.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 2
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng và được coi là một trong những kiệt tác trong văn học Việt Nam. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, sử dụng thể thơ lục bát, với tổng cộng 3254 câu. Giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế và sâu sắc.
Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh chân thực về xã hội phong kiến, với những mặt tối của quyền lực thống trị. Sức mạnh của tiền bạc và số phận của những người bị bóp méo, là nạn nhân của vật chất, đặc biệt là phụ nữ. Truyện thể hiện rõ sự bất công của xã hội, khám phá nỗi đau và khổ đau của con người, đặc biệt là phụ nữ. Gia đình của Kiều đang sống yên bình, nhưng chỉ vì một sự vu oan của người bán tơ, cuộc sống yên bình của họ bị phá vỡ, và tai họa đến từ mọi phía. Từ đó, cuộc đời của Kiều bị lạc lối, và số phận của cô trở nên đau đớn, khó khăn và đáng thương.
Ngoài việc truyền đạt câu chuyện của Thuý Kiều, 'Truyện Kiều' cũng phê phán, chỉ trích những thế lực tàn bạo đã áp đặt lên quyền sống của con người, đồng thời ca ngợi giá trị của tự do và công lý.
Đồng tiền, khi rơi vào tay kẻ xấu, trở thành công cụ tạo ra tội ác đối với những người yếu đuối hơn. Và 'Truyện Kiều' là một câu chuyện tự sự đầy cảm xúc về cuộc đời của Thuý Kiều, người phụ nữ tài năng và sắc sảo, đang chịu đựng sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền.
Tuy nhiên, điều làm nên tinh thần của tác phẩm này chính là giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du truyền đạt. Thông qua nhân vật chính là Thuý Kiều, ông muốn thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của phụ nữ. Ông cũng thể hiện tình yêu và tôn trọng đối với những phẩm chất đẹp của con người, bất kể là bên ngoài hay bên trong.
'Truyện Kiều' là một tiếng nói cao lên về tình yêu tự do, khát vọng công bằng, và vẻ đẹp của con người. Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ của mình về một tình yêu trong sáng và trung thực trong một xã hội còn nhiều bất công. Câu chuyện về tình yêu giữa Kim Trọng và Thuý Kiều được xem là một trong những bài hát đẹp nhất về tình yêu trong văn học Việt Nam.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 3
Trong tác phẩm 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du đã phản ánh chân thực về xã hội phong kiến với sự tàn bạo của giai cấp thống trị. Đồng tiền và danh lợi biến những người phụ nữ bị bất hạnh thành món hàng trong xã hội.
Sức mạnh của đồng tiền, khi nằm trong tay kẻ tàn bạo, có thể làm mất đi đạo đức của con người. Những người mang trách nhiệm công lý thường biến tấu sự công bằng vì tiền bạc.
Cuộc sống của Thúy Kiều, từ sự bất hạnh đến cảnh tự vẫn, là một bản cáo trạng về sự bất nhân trong xã hội phong kiến. Tác phẩm lên án và tố cáo sự tàn bạo, đồng thời ca ngợi giá trị tự do và công lí.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác nghệ thuật và nhân đạo, phản ánh sự thối nát của xã hội phong kiến và tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của con người.
Nguyễn Du thể hiện lòng đồng cảm với số phận đau khổ của phụ nữ công dung, tài sắc vẹn toàn bị đẩy vào cảnh lưu vong, cơ cực.
Truyện Kiều - một kiệt tác văn học với giá trị nội dung và nghệ thuật vượt trội.
Tác phẩm phản ánh sự tàn bạo của giai cấp thống trị và đau thương của những người bị áp bức, đặc biệt là phụ nữ.
Cuộc sống yên bình của gia đình Vương bị phá vỡ bởi sức mạnh của đồng tiền và sự tàn bạo của quyền lực thống trị. Sự tàn ác của đồng tiền đã khiến cho nhiều người rơi vào cảnh đau khổ và bất hạnh.
Truyện Kiều thể hiện khát vọng tình yêu tự do và công lí trong xã hội bất công và đau khổ. Nhân vật Từ Hải là biểu tượng cho niềm tin vào công lí và tự do dân chủ.
Thuý Kiều, một người con gái tài năng và hiếu thảo, đã phải chịu nhiều bi kịch trong cuộc đời vì sự tàn bạo của xã hội phong kiến. Tác phẩm là một bản cáo trạng đau lòng về sự bất nhân trong xã hội.
Truyện Kiều thể hiện lòng khát vọng tình yêu tự do và công lí, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp phẩm chất của con người. Cuộc đời Thuý Kiều là biểu tượng cho sự bất công và đau khổ trong xã hội phong kiến.
Thúy Kiều đau lòng khi phải từ bỏ tình yêu với Kim Trọng để hi sinh cho gia đình, thể hiện phẩm chất cao đẹp của mình.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều được đánh giá cao trong văn học Việt Nam.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học, phản ánh cuộc sống đầy bi kịch của nhân vật chính.
Truyện Kiều kể về cuộc đời đầy gian nan của Thúy Kiều, từ tình yêu đẹp đẽ đến bất hạnh và hy sinh cho gia đình.
Tác phẩm khắc họa một xã hội bất công và tàn bạo, đồng thời tôn vinh phẩm chất con người và khát vọng công lí tự do.
Truyện Kiều thể hiện sự trân trọng con người và khao khát công lí tự do thông qua các nhân vật và diễn biến câu chuyện.
Ngôn ngữ trong Truyện Kiều được đánh giá cao về tính mỹ thuật và tinh tế trong miêu tả nhân vật và cảnh vật.
Nghệ thuật tạo hình nhân vật của Nguyễn Du để lại ấn tượng sâu sắc, với việc sử dụng hình ảnh ước lệ và tượng trưng, đặc biệt được thể hiện rõ trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
Nguyễn Du thành công khi thể hiện tâm trạng của nhân vật thông qua cách miêu tả cảnh ngụ tình, như trong đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Việc sử dụng thể bát đã mang lại thành công lớn cho việc chuyển tải nội dung của Truyện Kiều, với tính nhạc nhẹ và khả năng tạo hình chân dung nhân vật.
Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật, là di sản quý giá của văn học Việt Nam.
Bằng cách phân tích, ta có thể khẳng định giá trị về nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ chứa đựng giá trị về nghệ thuật mà còn là di sản quý giá của văn học Việt Nam.
Giá trị về nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều được thể hiện rõ trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Nguyễn Du là một vị thi sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng như là một biểu tượng văn hóa của thế giới. Truyện Kiều, tác phẩm lớn nhất của ông, ghi lại những giá trị về hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Những đoạn trích như “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều” cho thấy lòng thương xót của tác giả dành cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều cũng như lòng thương xót cho phụ nữ trong xã hội xưa.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua tấm lòng nhân từ của Nguyễn Du đối với Thúy Kiều. Thúy Kiều, một người con hiếu thảo, đã quyết định bán mình chuộc cha và em gái khi gia đình gặp khó khăn.
Bằng cách sử dụng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã làm nổi bật nỗi tủi hổ, nhục nhã của Thúy Kiều khi bị xem như một món hàng. Tác giả thể hiện sự cảm thông với nỗi đau của nàng khi bị coi là một vật thế và mua bán như một món đồ.
Đó là biểu hiện rõ ràng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm. Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích là một ví dụ điển hình cho việc miêu tả nội tâm nhân vật, là nơi bắt đầu cho cuộc hành trình đau khổ của nàng.
Thúy Kiều đã tìm đến cái chết nhưng lại được cứu sống. Tú Bà đã giả vờ dỗ nàng để không để nàng tử vong. Nhưng thực ra, lầu Ngưng Bích là nơi giam giữ Thúy Kiều, nơi khóa kín tuổi trẻ của nàng.
Nguyễn Du đã mô tả cảnh vật thông qua tâm trạng của Thúy Kiều một cách rất sâu sắc. Giữa môi trường vắng vẻ, nàng cảm thấy cô đơn và bẽ bàng.
Bẽ bàng như mây sớm đèn khuya.
Tình yêu và cảnh giới hòa quyện nhưng lòng vẫn còn mảnh vụn.
Liệu rằng đây cũng là nỗi đau mà tác giả dành cho những người phụ nữ tài năng nhưng lại chịu đựng số phận không may như Thúy Kiều? Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua việc tác giả khen ngợi vẻ đẹp bên ngoài cũng như tâm hồn của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Trong đoạn “Chị em Thúy Kiều”, tác giả đã tôn vinh vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những từ diễm lệ. Trong việc mô tả Thúy Vân, ngòi bút của Nguyễn Du đã thể hiện sự trọng trách: Vân toát lên vẻ trang trọng không giống ai.
Hai từ “trang trọng” tôn lên vẻ đẹp cao quý, lịch lãm của Thúy Vân. Vẻ đẹp thanh nhã, kiều diễm của cô gái được so sánh với những điều tuyệt vời nhất trên đời: ánh trăng, bông hoa, đám mây, tuyết trắng, viên ngọc. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh của tự nhiên đẹp đẽ, tinh khiết, sáng sủa để mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
Gương mặt của nàng tỏa sáng như ánh trăng tròn. Nụ cười của nàng tươi như bông hoa. Tiếng nói của nàng trong trẻo như tiếng chuông lên từ răng ngọc ngà. Mái tóc mềm mại, uốn éo đẹp hơn cả những đám mây trên trời. Màu trắng của tuyết cũng không thể so sánh được với làn da trắng muốt của Thúy Vân. Nguyễn Du đã thể hiện rõ ràng rằng thiên nhiên phải nhường bộc lộ vẻ đẹp của nàng.
Bằng cách so sánh và ẩn dụ nghệ thuật, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp chân thật, giàu có mà quý phái của cô gái. Bức chân dung của Thúy Vân là bức tranh về sự sống động, sự hoà quện với môi trường xung quanh. Điều này gợi lên niềm tin vào một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc cho nàng. Người có thể trân trọng vẻ đẹp, yêu quý nó, mới có thể diễn tả như vậy.
Khi ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ khen ngợi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khen ngợi vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ của nàng. Như lời ca ngợi Thúy Vân, câu thơ đầu tiên đã miêu tả những đặc điểm chung của nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả sử dụng những hình ảnh nghệ thuật ước lệ: “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu.
Nét vẽ của thi nhân mang lại ấn tượng chung về vẻ đẹp tuyệt vời của một giai nhân. Đáng lưu ý, khi miêu tả bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung vào việc miêu tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là bản sắc của tâm hồn và trí tuệ. Sự thông minh, sự sâu sắc của trí tuệ, cũng như sự mặn mà của tâm hồn, đều được thể hiện qua đôi mắt. Hình ảnh “làn thu thủy” - nước mùa thu nhấp nhô - đã thể hiện rõ vẻ đẹp sáng sủa, sảng khoái của đôi mắt.
Ảo ảnh núi xuân như gương mặt trẻ trung với đôi lông mày thanh tú. Trong khi miêu tả Thúy Vân, tác giả tập trung vào vẻ đẹp ngoại hình mà không nhấn mạnh đến tài năng hay tính cách của cô. Nhưng khi tả về Kiều, tác giả sử dụng nhiều câu để mô tả cả nhan sắc và tài năng của nàng.
Tài năng của Kiều được coi là lý tưởng, bởi theo quan niệm về thẩm mỹ trong triều đại phong kiến, nàng có đủ tài cầm, kì, thi và họa. Đặc biệt, tài nghệ thuật đánh đàn của nàng nổi bật và vượt trội hơn cả: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Sự tài năng của Thúy Kiều không chỉ là để ngưỡng mộ, mà còn là để tôn vinh tâm hồn đặc biệt của nàng. Bản giao hưởng bạc mệnh mà Kiều tự sáng tác là cách nàng ghi lại cảm xúc từ trái tim phức tạp của mình.
Do đó, vẻ đẹp của Thúy Kiều không chỉ là sự kết hợp của nhan sắc, tài năng mà còn là tâm hồn. Tác giả sử dụng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để mô tả nhân vật. Nhan sắc của Kiều có thể khiến mọi người mê mẩn đến mức đánh mất tất cả. Bức chân dung của Thúy Kiều cũng là biểu tượng cho tính cách số phận của nàng. Vẻ đẹp của Kiều khiến người khác ghen tỵ, ghen ghét, báo hiệu về những thử thách và khổ đau trong cuộc đời nàng.
Chỉ có trái tim đầy yêu thương mới có thể hiểu hết vẻ đẹp của những người khổ hạnh để ca ngợi họ. Sự đau xót, sự trân trọng về vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều giúp chúng ta thấu hiểu giá trị nhân đạo được thể hiện trong những đoạn trích này và trong Truyện Kiều nói chung.
Giá trị nhân đạo cũng được thể hiện qua sự khinh bỉ, căm ghét của tác giả đối với những kẻ “buôn thịt bán người”, như tay “sinh viên” họ Mã. Tác giả phơi bày sự xấu xa, giả dối của những kẻ buôn người đói bụng, giả vờ là sinh viên của trường Quốc Tử Giám thông qua một loạt các chi tiết phản ánh sự vô trách nhiệm, tầm thường của họ. Dù đã trưởng thành nhưng họ vẫn mặc áo quần xa xỉ, mặt mày không phù hợp với tuổi tác của họ:
“Quá tuổi ngoại tứ tuần
Mặt mày trẻ trung áo quần sang trọng.”
Về hành động, cử chỉ lại tiết lộ bản chất của một kẻ thiếu văn hóa, không tôn trọng nguyên tắc: “Ngồi lên ghế tót, không sạch sẽ”. Bằng từ “tót”, Nguyễn Du như một cú đánh chí mạng vào cái bộ mặt giả dối của hắn. Bản chất của hắn càng trở nên tồi tệ, khiến hắn bộc lộ bản thân giống như một kẻ buôn bán: “Con sói giả ngu không nhận ra con sói giả.”
Khi gặp gia đình đang gặp tai nạn, cần sự giúp đỡ, một “sinh viên” như hắn nên biết cảm thông, đồng cảm và giúp đỡ. Nhưng hắn không làm như vậy. Bằng cách miêu tả chi tiết nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã lột tả hết bộ mặt của kẻ buôn người. Miêu tả này cũng phản ánh thái độ căm ghét của tác giả đối với những kẻ chỉ biết tìm kiếm lợi ích cá nhân, đánh đổi mọi giá trị tốt đẹp trong cuộc sống - “Trong họ đã sẵn tình tham; Dễ dàng làm trắng đen khó gì”.
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã biểu đạt sự thương cảm, đồng cảm với số phận của phụ nữ, ca ngợi vẻ đẹp của con người và lên án xã hội đầy bạo lực, lừa dối, mà các đoạn trích như Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều là những ví dụ cho tư tưởng nhân đạo của tác giả. Từ đó, chúng ta cũng thấy được tấm lòng nhân ái rộng lớn của Nguyễn Du. Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sẽ tồn tại mãi với thời gian.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 7
Không phải Nguyễn Du mới đưa tinh thần nhân đạo vào văn chương, nhưng có thể khẳng định rằng tác giả này là người đã thể hiện điều đó rõ nhất. Và Truyện Kiều là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất mang tính nhân đạo.
Nhân đạo là tình yêu thương giữa con người với con người. Tình yêu thương này được biểu hiện qua nhiều khía cạnh, đặc biệt là bằng cách phê phán, vạch trần tội ác của những thế lực áp đặt lên cuộc sống của con người; ca ngợi, tôn vinh những phẩm chất đẹp của con người; và sự thông cảm, hiểu biết đến tâm trạng, cảm xúc và ước nguyện của con người, giúp họ nói lên những ước mơ và nỗ lực để đạt được điều đó. Cả ba khía cạnh này đều có trong giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tạo ra một dàn nhân vật lý tưởng mà ông yêu thích. Khi viết về họ, cảm xúc của nhà thơ luôn là ngợi ca. Nguyễn Du ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Kiều, Thúy Vân, của Kim Trọng, Từ Hải... bằng những câu thơ đẹp mắt. Họ đẹp không chỉ bề ngoại:
Dòng nước mùa thu, nét núi xuân
Hoa thắm đốn ngã, cành liễu xanh ngời
Và tài năng thì không ai sánh bằng:
Tư duy sắc sảo, thiên phú tự nhiên,
Hòa trộn nghề thi và họa, hương vị ngâm thơ.
Đó là cách Nguyễn Du ca ngợi phụ nữ. Với những người đàn ông như Kim Trọng, Từ Hải, nhà thơ cũng luôn chọn lựa những lời thơ tinh tế nhất để diễn đạt về bề ngoại, tài năng của họ:
Tài năng uy vũ, danh tiếng lừng lẫy,
Văn chương uyên bác, sáng suốt như trời.
Dáng vẻ tài nghệ, phong lưu hào hoa,
Bước ra trong trang nhã, vào trong phòng trọng.
Vai rộng năm tấc, thân cao mười thước,
Là hiện thân của anh hùng trên đời,
Sức mạnh vượt quá trí tuệ, tài năng thì vẫn tỏa sáng.
Không chỉ khẳng định vẻ đẹp của con người qua hình thức bề ngoại, Nguyễn Du còn ca ngợi cao phẩm chất, nhân cách của những nhân vật lý tưởng. Nhân vật chính trong Truyện Kiều (Thúy Kiều) sở hữu lòng hiếu thảo sâu sắc với cha mẹ và lòng trung thành với người yêu. Để đáp ơn cha mẹ, khi gia đình gặp khó khăn, cha bị giam giữ, Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha với tâm trạng dứt khoát: “Làm con trước mới đền ơn cha mẹ”. Và khi phải chấp nhận buông bỏ tình yêu với Kim, nàng đau lòng đến tận xương tuỷ:
Bây giờ cành trâm gãy, gương tan vỡ,
Làm sao giải quyết được biết bao nhiều tình cảm!
Tấm lòng trinh bạch ấy đã trải qua mười lăm năm lưu lạc, dù gặp nhiều gian khổ nhưng vẫn được nàng giữ gìn. Không chỉ dừng lại ở việc khen ngợi những vẻ đẹp của con người, Nguyễn Du còn luôn ủng hộ những người yếu đuối. Trên quan điểm nhân bản, nhà thơ chỉ trích, lên án tất cả những thế lực vi phạm quyền sống của con người.
Từ kẻ 'vô danh tiểu tốt' như thằng bán tơ đến những kẻ vô loài như Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, đến những kẻ 'ăn trên ngồi chốc', thuộc hàng phương diện quốc gia như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến,... tất cả đều bị Nguyễn Du lột tả bộ mặt xấu xa, tàn ác, đê tiện, bỉ ổi. Chúng tồn tại trong câu chuyện của thi nhân như những thế lực tăm tối, phản bội, lúc nào cũng gieo rắc những hành vi thiếu nhân tính vào số phận của những người yếu đuối, bất hạnh.
Gia đình Thúy Kiều bị tan nát vì chúng. Thúy Kiều, người con gái xinh đẹp, tài hoa, bị đàn áp một cách tàn nhẫn. Mười lăm năm lưu lạc chính là mười lăm năm Kiều phải chịu đựng mọi nỗi oan trái khủng khiếp nhất. Sự phát hiện lớn nhất và cũng đau lòng nhất của Nguyễn Du về thân phận con người là phát hiện về thân phận con người trong xã hội phong kiến. Con người bị coi như một món hàng, có lúc bị bán đấu giá, cân nhắc:
Cò kè bớt một, thêm hai,
Giờ đã mất giá, vàng ngoài bốn trăm.
Con người hai lần bị bán như cỏ rác vào những nơi dơ bẩn nhất trên thế gian: Hai lần vào Thanh lâu, hai lần vào nơi tăm tối của y dược. Con người bị gạt bỏ và đau đớn: Uốn lưng gánh nặng, đập đầu chảy máu. Con người bị đố kỵ và gian truân; Con người bị lợi dụng, biến thành kẻ phản bội…
Dẫm đạp lên con người là sở đồ của những thế lực phi nhân tính. Chúng liên kết, cùng nhau để kiềm chế sự sống của con người. Có lẽ trong lịch sử đau thương, chưa có người phụ nữ nào phải chịu đựng nỗi đau đớn, gánh chịu, sợ hãi như Thúy Kiều của Nguyễn Du.
Lên án các thế lực hủy diệt con người cũng có ý nghĩa là Nguyễn Du đã hiểu được nỗi đau mà con người phải trải qua. Hơn một lần trong các tác phẩm của mình, nhà thơ đã rơi nước mắt: Đau thương vì thân phận phụ nữ!
Khi viết về Thúy Kiều – người phụ nữ bị đối xử bất công nhất trong xã hội phong kiến, ngòi bút thi nhân luôn sâu đậm vào tâm trạng nhân vật, khám phá ra những đau đớn và miêu tả một cách cảm động về chúng. Có thể xem đoạn Trao duyên là một trong những phần hay nhất, thể hiện lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ. Trao lại vật kỷ niệm cho Thúy Vân mà Thúy Kiều như còn tiếc nuối không dứt và dường như muốn níu kéo: Duyên này, giữ lại kỷ niệm này chung.
Hai từ chung mà tác giả chọn đủ để thể hiện tâm trạng đó. Dường như giữa Thúy Kiều và Nguyễn Du có một sự đồng cảm kỳ lạ. Đó là lý do mọi đau khổ của Thúy Kiều đều được Nguyễn Du hiểu và mô tả bằng một tình cảm yêu thương đặc biệt. Khi Từ Hải bước vào cuộc đời của Kiều, Nguyễn Du không có ý định tạo ra một tình yêu mới cho nàng.
Quan trọng hơn, ông muốn nhân vật anh hùng này sẽ giải thoát Kiều khỏi cuộc đời đau khổ, trả lại cho nàng sự công bằng mà nàng đã bị bắt trước, bị lạm dụng, bị lấy đi bởi lũ kẻ ganh ghét, tàn ác, và lợi dụng. Và hơn hết, từ những nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải, Nguyễn Du cũng thể hiện khao khát của con người thời đại họ: khao khát tình yêu và khao khát công lý. Chưa bao giờ trong văn học cổ điển có một phụ nữ dũng cảm như Thúy Kiều đi qua rào cản đêm, dấn thân vào bóng tối của con đường một mình để đến với người yêu tự do như vậy.
Chưa bao giờ trong văn học cổ điển có một anh hùng dũng cảm như Từ Hải đưa tay cứu mĩ nhân và giúp nàng lấy lại công bằng như vậy. Ở thời Nguyễn Du, khao khát của ông là không thể tin được. Nhưng rõ ràng, tư tưởng của nhà thơ vượt xa thời đại và phản ánh tinh thần nhân văn. Nguyễn Du có cái nhìn sâu xa, nhìn thấu cả sáu giác quan và có tấm lòng biết ơn mãi mãi vô số kiếp.
Cùng với những giá trị về nghệ thuật, giá trị nhân đạo cũng là một trong những yếu tố làm nên thành công của Truyện Kiều. Nhưng hơn cả, giá trị nhân đạo đó là minh chứng cho một tấm lòng, một nhân cách cao quý của thời đại, của dân tộc.
Giá trị về nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 8
'Truyện Kiều' của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ với mỗi chúng ta. Tác phẩm được Nguyễn Du sáng tác bằng chữ Nôm với 3254 câu thơ lục bát, dựa trên cốt truyện của 'Kim Vân Kiều truyện' của Thanh Tâm Tài Nhân - một tác giả nổi tiếng trong văn học Trung Quốc. 'Truyện Kiều' không chỉ là một tác phẩm tố cáo sự bất công và tàn ác trong xã hội, mà còn nổi bật với giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là nhân vật chính của tác phẩm và cũng là người để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
Giá trị nhân đạo là những tình cảm chân thành bắt nguồn từ trái tim của người nghệ sĩ đối với nhân vật của mình và đối với con người nói chung. Đó là sự đồng cảm, niềm cảm thông dành cho những số phận bất hạnh. Ngoài ra, tác giả còn thể hiện sự trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào công bằng xã hội và khát vọng về sự tự do trong tình yêu của con người. Tất cả những điều đó đều được Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều - một người phụ nữ với số phận bi thảm để lại nhiều nỗi xót thương trong lòng độc giả.
Nguyễn Du đã tôn vinh vẻ đẹp của Thúy Kiều qua những câu thơ ấn tượng:
'Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai uốn nước uốn thành
Vẻ đẹp cần đòi một, tài năng cần họa hai.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là một người có cái nhìn sắc bén nên Nguyễn Du không thể không để ý đến chi tiết đó. Đôi mắt của Thúy Kiều mang vẻ đẹp trong trẻo của dòng nước mùa thu, đôi lông mày mảnh mai như đường núi mùa xuân. Vẻ đẹp của cơ thể đó khiến thiên nhiên như hoa, cây liễu cũng ganh tị.
Có lẽ chi tiết đó đã tiên đoán cho cuộc đời sau này của Thúy Kiều sẽ không bao giờ được yên bình nữa mà sẽ đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn? Những từ 'ghen' và 'hờn' đã phản ánh sự ghen tỵ của thiên nhiên đối với vẻ đẹp 'mười phân vẹn mười' của Thúy Kiều. Vẻ đẹp 'uốn nước uốn thành' không ai sánh kịp trong thế giới, chỉ có duy nhất nàng Kiều và về tài năng thì có một người may mắn. Kiều là một người hoàn hảo về cả ngoại hình và trí tuệ:
'Thông minh tự nhiên như là của trời
Pha nghề thi họa có hương vị ca ngâm
Tài năng vượt trội trong nghệ thuật âm nhạc
Nghề riêng tài vượt trội âm giai
Trời ban cho nàng trí tuệ, tài năng nên nàng hiểu biết và giỏi về bốn lĩnh vực: âm nhạc, văn chương, thi ca, hội họa nhưng nàng giỏi nhất là trong âm nhạc. Kiều biết cả năm nốt: do, re, mi, fa, sol trong dải âm của nhạc cổ. Kỹ thuật đàn của nàng vượt trội hơn hết, 'làm chết' mọi người. Không chỉ thế, nàng còn sáng tác 'hồi Bạc mệnh' mang âm hưởng buồn bã, đau đớn. Vẻ đẹp của Thúy Kiều trở nên hoàn thiện hơn với lòng hiếu thảo với cha mẹ và lòng trung thành với người yêu:
'Du duyên ngộ, trung thành hiếu
Tình hiếu hay tình ái nặng trĩu hơn?
Thề với núi hải minh sơn
Làm con phải trả ơn cha mẹ
Kiều chịu đựng đau khổ ra sao khi phải chọn giữa hiếu thảo và tình yêu. Nàng đã hy sinh tình cảm với Kim Trọng để chuộc cha và em. Ngay cả khi ở trong lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ cha mẹ càng trở nên cay đắng và không dứt. Nàng thương cha mẹ đã già mà nàng không thể ở bên cạnh chăm sóc:
'Xót lòng tựa cửa ngày mai
Quạt ấm dịu lạnh cho người đã phải đau đớn'.
Giá trị nhân đạo của 'Truyện Kiều' cũng được thể hiện trong tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng. Đó cũng là quan điểm về một tình yêu tự do của đại thi hào Nguyễn Du. Ngay từ lần gặp đầu tiên trong ngày thanh minh, cả 'người quốc sắc' và 'kẻ thiên tài' đều cảm thấy 'tình cảm trong tim như đã biểu hiện ra bên ngoài'. Từ đó, Kim Trọng thuê trọ gần nhà Thúy Kiều để có cơ hội gặp nàng, trong khi Thúy Kiều lại 'bước đi băng qua lối vườn tối mịt một mình' để đến nhà Kim Trọng và thề nguyện 'trăm năm tạc một chữ vàng đồng'.
Tình yêu của họ là tình yêu tự do, chủ động, bắt nguồn từ sự tự nguyện của cả hai bên. Điều này phá vỡ những ràng buộc của xã hội phong kiến, nơi phụ nữ bị giam cầm bởi những quy định nghiêm ngặt. Họ không bị ràng buộc và có quyền tự do trong tình yêu. Tình thân thiết với Kim đã khiến Thúy Kiều đau đớn khi chuyển giao tình cảm cho Thúy Vân và hy vọng em sẽ thực hiện lời thề với Kim Trọng thay mình.
Cuộc đời của nàng là một chuỗi bi kịch liên tiếp. Tình yêu đầy say đắm với Kim Trọng không kéo dài được lâu khi 'trên đường gặp trắc trở của nỗi tương tư' do một biến cố bất ngờ xảy ra với gia đình Thúy Kiều. Tình yêu tan vỡ, hai người phải trải qua sự chia ly và xa cách trong một khoảng thời gian dài, và khi gặp lại, tình cảm của họ vẫn còn nhưng họ chọn cách ứng xử theo nguyên tắc 'duyên cả hai một dạng cũng là duyên bạn bè'.
Song song với bi kịch tình yêu là bi kịch của nhân phẩm bị chà đạp. Để chuộc lại cha và em, Kiều đã bán mình cho Mã giám Sinh để làm vợ nhưng kẻ tham lam, lừa dối ấy đã bán Kiều vào lầu xanh khiến nàng phải trải qua 'thanh lâu hai lần, thanh y hai lần'.
Nàng phải đối mặt với những kẻ buôn bán thịt người tàn ác như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,... Thúy Kiều phải sống trong sự nhục nhã ở lầu xanh. Đó là hình ảnh thực tế mà tác giả muốn lên án. Nguyễn Du đã lên án xã hội vì tiền bạc khiến nhân phẩm bị chà đạp, quyền lực của tiền bạc có thể làm thay đổi màu trắng thành đen, khiến những người vô tội phải chịu đựng nỗi oan trái.
Bàn về ý nghĩa nhân đạo của 'Truyện Kiều', Mộng Liên Đường đã đưa ra nhận định đúng đắn: 'Lời văn như là máu chảy từ ngòi bút, nước mắt thấm ướt trên tờ giấy khiến ai đọc cũng cảm thấy thấu lòng thương.' Quả thực, Nguyễn Du đã diễn tả về số phận của người phụ nữ với bao nhiêu cảm xúc đau thương, lòng đồng cảm:
'Đau khổ thay số phận phụ nữ
Nói rằng bạc mệnh cũng chung một lời'
Ông cảm thấy đau đớn vì số phận đáng thương của Thúy Kiều. Ông cũng trân trọng khao khát của nàng về tình yêu tự do, sự sống và hạnh phúc. 'Nếu không có ánh mắt sáng suốt như thiên triều, trái tim suy tư qua hàng nghìn kiếp thì sẽ không có sức mạnh viết lách như vậy' (Mộng Liên Đường). Nếu không có một nhà thơ đầy lòng nhân ái với những kẻ bất hạnh thì có lẽ Nguyễn Du đã không thể viết nên tác phẩm 'Truyện Kiều' nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du gửi gắm tư tưởng nhân đạo của mình. Đồng thời, nàng cũng là hình ảnh biểu hiện giá trị nhân đạo của cả tác phẩm vĩ đại. 'Truyện Kiều' đã đánh thức trái tim của mọi người, khiến chúng ta rơi nước mắt vì sự đau xót cho nhân vật Thúy Kiều. 'Truyện Kiều' là di sản vĩ đại, là linh hồn của dân tộc Việt Nam. 'Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn' (Phạm Quỳnh).
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 9
Nguyễn Du là một trong những nhà thơ vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. 'Truyện Kiều' của ông là tác phẩm nổi bật nhất và tự hào của văn học cổ điển Việt Nam.
'Trải qua một hành trình gian khổ
Những điều nhìn thấy mà làm đau lòng
Tinh thần nhân đạo trong 'Truyện Kiều' không chỉ là việc chỉ trích những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội phong kiến rỉ rả mà còn 'thể hiện tinh thần nhân đạo cao quý của thi sĩ Nguyễn Du'.
Tinh thần nhân đạo là nguồn cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ 'Truyện Kiều'. Đó là giọng nói khen ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người, lòng hiếu nghĩa, lòng trắc ẩn, lòng nhân ái trong tình yêu... Đó là trái tim của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công bằng; là sự đồng cảm, thương tiếc trước bao đau khổ, bị đè bẹp của con người, đặc biệt là với người phụ nữ 'bất hạnh' trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng yêu thương con người bị áp bức, bị chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong 'Truyện Kiều', trước hết là giọng nói khen ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là biểu hiện của vẻ đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng Kiều diễm, rạng rỡ 'Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh'. Kiều không chỉ xinh đẹp 'nghiêng nước, nghiêng thành' mà còn có một tài năng đa dạng, phong phú rất đáng tự hào:
'Thiên bẩm thông minh sẵn có từ trời,
Kết hợp nghệ thuật thi hoạ mang hương vị ca dao.'
Kim Trọng, một nhà văn, người có tài 'đi vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa'. Là một 'thiên tài' tổng hợp của văn chương và trí tuệ, 'có phẩm chất đất nước, thông minh từ trời'. Mỗi bước đi của anh đều mang lại cho thiên nhiên một hơi thở mới, làm cho cây cỏ hoa lá rực rỡ hơn:
'Bước chân hòa mình vào thi văn,
Như là vùng đất nở hoa quỳnh sáng sủa'.
Tình yêu giữa Kim Trọng và Thúy Kiều là một bi kịch tình yêu. Đó là một tình yêu tự do, vượt ra ngoài những giới hạn của truyền thống, rất trong sáng và trung thành của 'người với tài năng, kẻ với dòng máu hoàng tộc'.
Kiều là một người con hiếu thảo. Gia đình gặp nạn, tài sản bị kẻ xấu chiếm đoạt, cha bị giam cầm. Kiều đã quyết định hy sinh tình yêu của mình để cứu cha và gia đình. Hành động bán thân chuộc cha của Thúy Kiều là biểu hiện của lòng hy sinh và tinh thần nhân đạo cao quý, khiến người đọc cảm phục và xúc động:
'Những giọt mưa nặng nề suy nghĩ về số phận bèo bọt,
Quyết tâm mang tấc cỏ đền đáp ba mùa xuân' hoặc:
'Dám liều mình đối diện với số phận,
Dù có tan rã, lá vẫn xanh cây'.
Đọc 'Truyện Kiều', theo dõi hành trình đầy gian khổ của Kiều, ta không khỏi ngưỡng mộ trước lòng hiếu kỳ, hiếu thảo và tình nghĩa của nàng. Kiều quên đi nỗi đau của bản thân để dành trọn tình thương cho cha mẹ và hai người em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn bã, không ai chăm sóc đỡ đần:
'Xót lòng trước số phận của mình,
Sưởi ấm lòng cho những ai đang bất hạnh…'
Tình cảnh 'trao duyên' trong 'Truyện Kiều' cũng là một biểu hiện đẹp của tình thương nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu nghĩa cao quý hai đường vẹn hai’, Kiều đã ‘hy sinh cho em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘với chàng Kim trai’
'Ngày xuân hãy còn dài thêm,
Xót lòng trước cảnh máu và nước mắt đổ.
Dù thân xác tan tành,
Nụ cười chín suối vẫn ngọt ngào.
Duyên phận như lá mây trôi,
Duyên này thì giữ vật này của cả hai.'
Tinh thần nhân đạo trong 'Truyện Kiều' cũng là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công bằng, những khát vọng về tự do. Từ Hải được mô tả như một anh hùng vĩ đại, một người có ngoại hình xuất sắc:
'Râu dày mép hồ sơ mi mày cao. Vai rộng bốn tấc, thân cao mười thước'. Với những chiến công vĩ đại, tỏa sáng:
'Anh hùng đã gọi tiếng nói,
Giữa đường dù thấy bất bình nhưng vẫn tha thứ'.
Từ Hải đã sử dụng sức mạnh của một anh hùng để giúp Kiều 'trả ơn nhớ ơn'. Hình tượng của Từ Hải là một thành công xuất sắc của Nguyễn Du trong việc xây dựng nhân vật, thể hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn hiện lên qua hình ảnh này, giống như ánh sao lướt qua bầu trời đêm u tối của cuộc đời Kiều, mặc dù ngắn ngủi nhưng tỏa sáng hi vọng và niềm tin:
'Từ chính là người anh hùng,
Trên bầu trời rộng mở vẫy cánh biển khơi'.
Số phận con người - đó là điều đầy cảm xúc không ngừng của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho cuộc sống của con người tài năng bị định sẵn một số phận đau thương và khó khăn.
Sau khi bị bán cho Mã Giám Sinh, Kiều trải qua mười lăm năm lưu lạc, chịu đựng đủ mọi khổ đau, nhục nhã 'Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'. Từ Hải bị đánh lừa bởi Hồ Tôn Hiến và bị giết. Kiều phải hát và chơi đàn trong những buổi tiệc quý,… uất ức quá, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng kêu vang đầy lòng. Những từ ngữ: ‘thương’, ‘hại’, ‘làm gì’, ‘còn gì là thân’ giống như những giọt nước mắt chứa đựng tình nhân đạo, đau thương cho số phận:
'Thương cảm với số phận của một con người,
Gánh nặng của vẻ đẹp và tài năng mang lại điều gì?
Những cơn đau khổ và oan ức dường như không bao giờ dứt
Chờ đợi cho đến khi kết thúc cuộc đời, còn gì là quý giá hơn sự sống!'
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một nỗi ám ảnh với mọi người. Người mẫu nữ 'nổi tiếng về vẻ đẹp và tài năng' nhưng số phận bi đau 'Sống trong cảnh làm vợ cho mọi người. Hậu quả là rơi vào cảnh ma không có người chồng'. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm sâu sắc! Kiều khóc Đạm Tiên hoặc Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội!
'Đau đớn với số phận của phụ nữ,
Nói rằng định mệnh cũng giống nhau'.
Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc qua việc miêu tả số phận và tính cách của nhân vật chính - Thúy Kiều - đã thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm kinh điển 'Đoạn trường tân thanh', làm xúc động lòng người.
Tinh thần cao quý của nhân đạo là ý tưởng đặc biệt tạo nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm này. Chúng ta tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy bén nhận biết vẻ đẹp của tự nhiên, một trái tim đầy lòng yêu thương, đồng cảm với tâm trạng và số phận của con người, và một tài năng vĩ đại trong nghệ thuật thơ đã làm sáng tỏ văn học Việt Nam.
Nguyễn Du và 'Truyện Kiều' mãi sống trong lòng dân tộc như là bài hát ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương mãi mãi:
'Nghìn năm sau vẫn nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như làn gió ru mát những ngày…'
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 10
Nếu cảm hứng nhân văn hướng về sự đồng cảm với những khát vọng con người, và cảm hứng nhân đạo hướng về việc ca ngợi vẻ đẹp của con người, thì cảm hứng nhân đạo là điều tỏa sáng trên hết.
Bản chất của cảm hứng nhân đạo là lòng thương. Nó thể hiện sự chân thành và đồng cảm với con người. Một tác phẩm được truyền cảm hứng nhân đạo khi nó tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của con người, đồng thời biểu đạt sự đồng cảm và thương cảm với những số phận bị bất công, đồng thời chỉ trích những thế lực gây hại và ủng hộ những khát vọng chính đáng của con người.
Nguyễn Du dành tình yêu thương cho con người đến cùng, vì vậy các tác phẩm của ông cũng chứa đựng lòng nhân đạo sâu sắc. Chỉ cần đọc ba đoạn trích từ Truyện Kiều và bài thơ Độc Tiểu Thanh ký trong SGK, độc giả cũng có thể hiểu được phần nào tâm hồn nhân đạo của thi sĩ Nguyễn Du.
Sự đồng cảm với những số phận đau buồn, những tài năng và vẻ đẹp vượt trội không phải là điều mới mẻ trong văn học, nhưng chỉ có Nguyễn Du mới làm cho người đọc thực sự đau lòng vì 'những điều trông thấy', bởi ông viết về nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình. Sắc đẹp và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du mô tả qua hai câu thơ:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
(Truyện Kiều)
Còn với Tiểu Thanh, một người thực sự tồn tại sống ở Trung Quốc cách đây 300 năm, cũng là một người phụ nữ xinh đẹp, có tài thơ, và để lại cho thế giới tập di cảo Tiểu Thanh ký. Trước khi qua đời, Tiểu Thanh đã khóc khi nhìn thấy bức chân dung của mình và nhận ra vẻ đẹp của mình.
Biết bao nhiêu nỗi đau khi một cô gái còn trẻ phải đối mặt với cái chết nhưng lại cảm thấy mình xinh đẹp. Nhưng Nguyễn Du đã hiểu rằng: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, và rằng: “Có tài mà cậy chi tài – Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Cuộc đời của Thúy Kiều và Tiểu Thanh là bằng chứng và cũng là nạn nhân của sự bất công và phi lý của cuộc sống.
Thúy Kiều có vẻ đẹp và tài năng đến mức mà người yêu nàng cũng phải là một văn nhân 'vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa'. Hai người đã thề nguyền 'Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” và có vầng trăng làm chứng. Nhưng bi kịch ập đến với gia đình khiến Thúy Kiều phải hy sinh tình yêu vì hiếu thảo.
Việc Kiều bán mình để chuộc cha không phải vì nàng làm theo đạo lý tam cương của Nho gia mà là đạo hiếu của một con con: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng chỉ có Nguyễn Du mới hiểu rõ nhất bi kịch của Thúy Kiều khi phải trao duyên cho em, nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim. Nàng sống như đã chết. Biết bao nỗi đau khi Kiều nhận mình là kẻ phụ bạc:
“Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
(Truyện Kiều)
Cảnh trao duyên ấy là bi kịch đầu tiên mở ra 15 năm “oan khổ lưu ly” của Thúy Kiều. Cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che” ngày xưa giờ đã thay đổi thành cuộc sống “Dập dìu lá gió cành chim – Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh”. Thúy Kiều không tìm thấy sự vui thú nào trong cuộc sống “bướm lả ong lơi” đó, mà tâm trạng của nàng là vui buồn, hạnh phúc và đau khổ, cuối cùng là nỗi đau, một nỗi đau không thể giải phóng được. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng cảm giác “giật mình mình lại thương mình xót xa” của cô Kiều mới đáng quý biết bao. Nếu không có những phút “giật mình” đó, thì nàng Kiều cũng chỉ là một cô gái bình thường mất hết phẩm chất. Cảm giác “giật mình” đó chứng tỏ Thúy Kiều đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ khi phẩm chất bị lợi dụng, “Mặt sao dày gió dạn sương – Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”. Nàng tức giận, đau đớn trước sự phũ phàng của cuộc sống, bị cầm tù trong vòng tròn của tàn bạo:
“Cho dù lấy đi nhan sắc đẹp
Nhưng cũng gây ra tổn thất, hủy hoại, hủy diệt
Đã bị đày vào cuộc sống thế tục
Thì cũng chỉ cần bị xỉ nhục một lần là đủ”
(Truyện Kiều)
Dường như người đọc không thể phân biệt được lời của nhân vật và lời của nhà thơ vì Nguyễn Du đã đắm chìm vào trong để hiểu rõ nỗi đau và sự bất công của Thúy Kiều.
Thúc Sinh không chỉ xuất hiện như một người bạn đồng hành mà còn như một người yêu, một người chồng, một người cứu giúp. Chính Thúc Sinh đã giải thoát nàng ra khỏi cảnh nghèo khó và cưới nàng làm vợ chính thức. Nhưng mối quan hệ này lại kết thúc sớm. Thúc Sinh phải trở về quê hương báo tin “vườn cũ đã có hoa” với vợ cũ là Hoạn Thư. Cảnh từ biệt của hai người không chỉ là buồn bã, lưu luyến như các cuộc chia ly thông thường mà còn đầy dự cảm về một cuộc chia xa không lối thoát.
“Ai là người tách vầng trăng thành đôi
Nửa gối chìm vào đêm, nửa soi dặm trường
(Trích 'Truyện Kiều')
Cuộc sống đầy thương tổn dường như gắn bó với Thúy Kiều như một số phận không thể tránh khỏi, không để cho cô được sống tự do, hạnh phúc, cho dù chỉ là thoáng qua. Tiểu Thanh cũng chịu cảnh tương tự. Mặc dù có tài năng và nhan sắc, cô cũng phải sống trong sự đau khổ của việc làm nô lệ vợ chồng. Tiểu Thanh không giống Thúy Kiều, ngay từ khi còn trẻ đã phải đối mặt với cuộc đời khó khăn, nhưng cuộc sống bị giam giữ ở núi Cô Sơn, cả ngày chỉ biết lo sợ bị vợ chồng hãm hại, cũng không khác gì cái chết.
Một cái chết từ từ, mòn mỏi và đau đớn. Sau 300 năm, chỉ có Nguyễn Du một mình đến viếng thăm cô ấy, ngồi bên cạnh khung ảnh cuối cùng còn sót lại. Cảnh đẹp của Tây Hồ cũng trở thành bi kịch của những phụ nữ tài năng:
“Tây Hồ, cảnh đẹp biến thành nơi hoang sơ
Thổn thức bên bờ sông, mảnh giấy úa màu”
(Độc Tiểu Thanh's Diary)
Nguyễn Du thương cảm cho số phận của 'văn chương', của 'son phấn', cũng bị cuốn vào nỗi đoạn trường vì chúng mang theo số mệnh của con người:
“Son phấn dù có hồn vẫn mang hận thù
Văn chương không tránh khỏi sự tàn phá của số phận”
(Son phấn có hồn vẫn mang hận thù
Văn chương không tránh khỏi sự tàn phá của số phận) (Độc Tiểu Thanh's Diary)
Mặc dù biết rằng “Trời cao quen thói má hồng ghen ghét” nhưng đó vẫn là “nỗi oán trách vô cớ” mà Nguyễn Du muốn hỏi trời cao, hoặc hỏi cuộc sống, nhưng cuối cùng vẫn không có câu trả lời. Chỉ biết rằng đó là “vận mệnh bí ẩn” của những người mang vẻ đẹp tinh tế. Sự đau khổ của Thúy Kiều trước mộ Đạm Tiên:
“Phận đàn bà đau đớn thật đáng thương
Lời nói rằng bạc mệnh cũng là định mệnh chung
(Trích 'Truyện Kiều')
Đó cũng là tiếng khóc của Thúy Kiều vì tương lai của bản thân và cũng là tiếng khóc cho những phận đàn bà nói chung. Cuối cùng, cho dù là Đạm Tiên, Thúy Kiều hay Tiểu Thanh, mặc dù số phận của họ có nhiều khác biệt nhưng họ vẫn là “cùng một thuyền trên biển số phận”. Nguyễn Du cũng coi mình là một trong những người đồng thời bị cuốn vào nỗi oan khuất mà vẻ đẹp của họ mang lại. Sự đau đớn của Tố Như vì số phận của Tiểu Thanh cũng là sự tự thương cho những lận đận của bản thân, vì vậy mới có mong muốn tìm kiếm tri kỷ:
“Không biết ba trăm năm sau
Thiên hạ cũng sẽ biết về Tố Như”
(Chẳng biết ba trăm năm nữa
Ai trong cuộc đời không khóc cho Tố Như
(Trích 'Độc Tiểu Thanh's Diary')
“Khấp” là khóc thầm, còn “khốc” là khóc lớn, rên rỉ. Nguyễn Du suốt cuộc đời khóc thương cho những đau khổ của con người nhưng mong muốn cuối cùng chỉ là người đời sau khóc trong im lặng. Đó là lòng khao khát của một con người khiêm tốn hiểu biết về cuộc sống.
Trong 'Truyện Kiều' và 'Độc Tiểu Thanh's Diary', Nguyễn Du luôn truy vấn trời về những đau khổ của con người nhưng thực tế trong tác phẩm, ông cho thấy rằng đau khổ của con người là do những thế lực thù địch chà đạp lên cuộc sống và quyền sống của con người.
Nếu không có chế độ phong kiến và đa thê, Kiều không phải trải qua 15 năm đau khổ trong bể đoạn trường, và Tiểu Thanh cũng không phải chịu số phận bi kịch như vậy. Nguyễn Du hiểu nỗi đau của con người, nhưng ông bất lực vì chính ông cũng là nạn nhân của cuộc đời.
Nỗi đau, cô đơn và lòng nhân đạo của Nguyễn Du đều phản ánh từ trái tim của một nghệ sĩ vĩ đại.
Giá trị nghệ thuật và nội dung của Truyện Kiều - mẫu 11
“Truyện Kiều” là một tác phẩm thơ Nôm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam. Có nhiều người cho rằng “Truyện Kiều” được viết vào khoảng từ năm 1813 đến 1820. Tuy nhiên, trong dân gian, có người tin rằng tác phẩm ra đời vào cuối thời kỳ Lê đầu thời Tây Sơn khi Nguyễn Du sang Trung Quốc làm sứ giả.
Thời điểm thứ hai được nhiều người đồng ý hơn là vì “Truyện Kiều” lấy cốt truyện từ tác phẩm Trung Quốc “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, mà bộ truyện này diễn ra trong thời kỳ từ năm 1521 đến 1567.
Nguyên nhân chính là Nguyễn Du đã tiếp xúc với “Kim Vân Kiều Truyện” trong chuyến đi sứ nên có nguồn cảm hứng để sáng tác “Truyện Kiều”. Phiên bản in đầu tiên của truyện có tên là “Đoạn trường tân thanh” (ý nghĩa là “âm thanh mới của nỗi đau”) và ngày càng được phổ biến và ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc.
Trong việc sáng tác “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính Vương Thúy Kiều với cấu trúc của tiểu thuyết chương hồi gồm 20 hồi. Nguyễn Du cũng đã sử dụng cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều làm trung tâm như trong tác phẩm của văn sĩ Trung Quốc để làm nền cho tác phẩm của mình.
Trước khi tìm hiểu về giá trị nghệ thuật và nội dung của Truyện Kiều, chúng ta cần hiểu những ý chính của tác phẩm này. Truyện kể về Thúy Kiều, một cô gái tài năng và xinh đẹp, con gái của Vương viên ngoại, có tài về âm nhạc, thi ca và hội họa. Nàng có hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Trong một dịp đi tảo mộ vào ngày Thanh Minh, Thúy Kiều gặp Kim Trọng và họ đã yêu nhau.
Khi tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng nảy nở và họ thề ước về, Kim Trọng phải về quê chịu tang. Đồng thời, gia đình Kiều gặp nguy hiểm vì âm mưu của người bán tơ, nên Kiều quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha mình và gia đình.
Thế nhưng, người tên Mã thực ra là tên buôn người, hắn cùng với Tú Bà đã lừa dối Kiều vào lầu xanh. Kiều đã cố gắng trốn thoát và thậm chí còn tự tử để thoát khỏi sự bắt giữ của những kẻ xấu xa, nhưng lần nào cũng thất bại, và nàng phải sống trong cảnh làm kĩ nữ trong lầu xanh. May mắn thay, trong một lần tự tử ở Tiền Đường, Kiều được sư Giác Duyên cứu giúp.
Về Kim Trọng, sau khi nối duyên với Thúy Vân theo ý nguyện của Thúy Kiều, Kim Trọng vẫn cố gắng tìm Kiều và cuối cùng họ gặp nhau nhờ sự giúp đỡ của Giác Duyên, và Kiều được đoàn tụ với gia đình. Sau tất cả những đau khổ và thất vọng, Kiều quyết định “lấy tình cầm sắt đổi ra cầm kì” thay vì giữ tình cảm với Kim Trọng.
Trong bản thân, “Truyện Kiều” là một tuyên ngôn vững chắc, chỉ trích sự thực xấu xa của một xã hội phong kiến suy đồi. Quan lại, những người được xem là biểu tượng của công lí và bình đẳng, thật ra lại thể hiện sự tham lam và không công bằng chỉ vì lợi ích cá nhân.
Điều này được thể hiện rõ nhất trong việc gia đình Kiều bị vu oan bởi người bán tơ. Bằng cách tố cáo gia đình Kiều, bọn sai nha đã tấn công gia đình nàng như những kẻ cướp. Tiền bạc là thứ có thể biến tất cả, khiến họ làm mọi cách để che đậy sự thật và không công bằng: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Những kẻ này đã đẩy Kiều vào những khó khăn đầu tiên của cuộc đời nàng.
Những lần sau, Kiều cũng đã rơi vào tay “họ Hoạn danh gia” nhưng họ lại không tuân thủ pháp luật. Họ là những thế lực tự do, có thể phạm tội mà không bị trừng phạt. Hồ Tôn Hiến cũng là một quan tàn ác và xảo quyệt. Hắn dùng mưu mẹo để lừa Từ Hải và bắt Kiều phải hầu rượu, gảy đàn để trang đời nàng. Với sự tồn tại của những kẻ này, công lí liệu còn tồn tại?
Nhưng không chỉ quan lại làm cho cuộc sống xã hội trở nên đen tối. Cũng có sự can thiệp của những kẻ chứa và quyền lực của tiền bạc. Trong “Truyện Kiều”, ta không thể quên sự hiện diện của những kẻ như Mã Giám Sinh với “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”, Tú Bà “thoắt trông nhờn nhợt màu da” và Sở Khanh với hình ảnh “hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”.
Những con người tàn nhẫn ấy đã làm cho cuộc sống của Kiều trở nên đầy khổ đau. Nhưng Kiều không chỉ gánh chịu vì bị những người trong lầu xanh áp bức mà còn phải chịu sự áp đặt của tiền bạc. Tiền có thể làm thay đổi mọi thứ, “làm cho khốc hại”, có thể mua bán con người như mua bán hàng hóa. Ngay cả trinh tiết của một người con gái cũng có thể đo lường bằng tiền bạc:
“Đã nên quốc sắc thiên hương
Một nụ cười này, có lẽ đáng giá nghìn vàng không kém
Đến đây, nước đã chảy qua,
Vương tôn, quý vị chắc chắn sẽ cùng nhau cạnh tranh
Chẳng phải mất đi ba trăm lạng đâu
Đủ để đầu tư vài góc nhìn, còn lời nói thì...
Sự tồn tại của những thế lực đã làm lung lay những giá trị đạo đức của con người, khiến xã hội rơi vào sự suy tàn, thối rữa.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua lòng trắc ẩn sâu sắc mà tác giả dành cho những người sống trong đau khổ, đặc biệt là phụ nữ. Họ sở hữu những đặc điểm về ngoại hình và tâm hồn đáng quý...
Vân và Kiều đều là những người phụ nữ sở hữu vẻ đẹp tuyệt vời. Nếu Vân được mô tả với vẻ đẹp trang trọng, như “trăng đầy đặn ánh sáng”, thì Kiều tỏa sáng với “dáng vẻ mềm mại như thu, nét mặt tự nhiên như xuân”, khiến cho “hoa phải ghen tị, cây cỏ như dần dòi muốn làm bạn”. Không chỉ nổi bật về ngoại hình, họ còn được tôn trọng vì phẩm hạnh đoan chính, chuẩn mực của bản thân (“tường đông ong bướm đi về mặc ai”). Riêng Kiều, sự ngưỡng mộ đó còn từ đặc điểm về vẻ đẹp (“vẻ đẹp không tì vết”) và tài năng (“khéo léo vượt bậc trong nghệ thuật hát hò”).
Dĩ nhiên, những người có vẻ đẹp hoàn mĩ như Thúy Kiều thường được coi là xứng đáng với hạnh phúc. Nhưng số phận của nàng lại chứa đựng những trang bi kịch. Nguyễn Du tỏ ra đầy lòng thương cảm, đặc biệt là thông qua những miêu tả về tâm trạng, cảm xúc và quan điểm của nàng trong những khoảnh khắc cô đơn giữa không gian trống rỗng:
“Mây sớm tối bao trùm,
Nửa tình nửa cảnh giống như hai nửa tấm lòng”
Họ là những người có tài năng, nhưng số phận lại đẩy họ vào hoàn cảnh khốn khổ, đau đớn khi thường chỉ được coi là “hàng hóa có thể bán bằng vài đồng”. Họ có đạo đức, nhưng đôi khi bị bóp méo tận tâm hồn bởi sự thống trị của quyền lực xã hội.
Việc khen ngợi vẻ đẹp, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với số phận của nhân vật, từ đó thúc đẩy ước muốn về quyền sống, tự do và hạnh phúc chính là những yếu tố làm nên giá trị của tác phẩm.
Quan điểm về cuộc sống mới lạ của Nguyễn Du được thể hiện một cách tinh tế qua nhiều khía cạnh mà người đọc vẫn đang khám phá thông qua tác phẩm của ông. Bằng cách nhìn nhận “trinh”, Nguyễn Du đã thể hiện quan điểm mới mẻ về cuộc sống của mình.
Sự quý trọng danh dự từ lâu đã thấm vào tâm trí của mọi người, thậm chí cả những người phụ nữ như Kiều cũng phải chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nó khi coi đó là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất của một người phụ nữ trong tình cảm vợ chồng: “Phụ nữ nên giữ trinh tiết cho chồng”. Điều này khiến Kiều luôn cảm thấy đau đớn, xót xa vì số phận không công bằng, thăng trầm đã đặt lên giá trị mà nàng kính trọng:
“Thương tiếc một bông hoa trà
Con ong đã chỉ đường về tổ”
Tuy nhiên, với Nguyễn Du, ông có quan điểm tiên tiến về vấn đề này khi cho rằng:
“Trong xưa, trong đạo nghĩa về phụ nữ
Chữ trinh cũng có nhiều biến thể”
Theo quan điểm đó, với tác giả, chữ “trinh” – về thể xác đối với phụ nữ quan trọng nhưng quan trọng hơn cả là chữ “trinh” – về tinh thần. Có lẽ đối với Nguyễn Du, một người phụ nữ đẹp và có phẩm hạnh là người dù gặp khó khăn ra sao, dù gặp tổn thương thế nào nhưng nếu giữ được lòng hiếu thảo, lòng hiếu nghĩa thì vẫn giữ được giá trị cao quý của chữ “trinh” đó. Trong tác phẩm, quan điểm đó của Nguyễn Du đã được thể hiện qua nhân vật Kim Trọng:
“Như nàng coi trọng lòng hiếu nhã
Ai có thể làm mờ đi phẩm hạnh ấy”
Vậy mặc dù Kiều đã trải qua nhiều gian nan, những khó khăn, và hiểu rằng “dù ong qua bướm lại chẳng bao giờ trở thành hoa”, Kim Trọng vẫn kiên định muốn sống bên cạnh Kiều:
“Tình yêu đã sẵn sàng vượt qua cả nguy hiểm
Gặp nhau dù chỉ trong một khoảnh khắc cũng đủ để thấu hiểu tình cảm
Khiến cho tình cảm như nhánh liễu còn xanh tươi
Nhưng làm sao để thoát ra khỏi vòng xoáy của tình ái”
Cuối cùng, có thể Kiều cũng bắt đầu cảm thấy xao động trước suy nghĩ của Kim Trọng, nhưng nàng quyết định giữ chữ “trinh” trong tâm hồn bằng cách: “đổi tình cầm sắt lấy tình cầm cờ”. Hai người có những cách ứng xử khác nhau nhưng tất cả đều phản ánh sự trân trọng của họ đối với khái niệm “trinh” quý báu ấy.
Sự lựa chọn thể thơ lục bát đã làm nổi bật nội dung của tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đây là thể loại thơ có khả năng biểu đạt phong phú và đặc sắc, đặc biệt là trong việc mô tả nhân vật.
Đặc biệt, âm nhạc trong các câu thơ được biểu đạt một cách linh hoạt và hiệu quả thông qua cách ngắt nhịp. Trong tác phẩm, có những câu thơ với vần điệu hài hòa tạo nên một bức tranh sắc nét về tâm trạng. Đó là cảm xúc đau khổ, tiếc nuối, và tự trách bản thân vì đã phụ lòng tin:
“Ôi Kim Trọng! Hỡi Kim Trọng
Xin tha thứ cho thiếp đã làm chàng thất vọng từ đây”
Có những khi, tâm trạng tựa như là một bóng dáng phủ lên cảnh vật:
“Nay bình minh đã trở lại rực rỡ”
Âm nhạc trong thơ với sự hòa mình, tạo vần hiệu quả đã tạo ra những cảm xúc, cảm giác sâu sắc trong lòng người:
“Bấy năm trôi qua như gió
Chữ số, chữ số phận khéo léo là kẻ thù nhau
Trải qua bao gian nguy, khó khăn
Những điều thấy mà lòng cảm thấy đau đớn”
Về mặt ngôn ngữ, “Truyện Kiều” đã đạt đến đỉnh cao về sự tinh tế và tài hoa khi Nguyễn Du đã kết hợp một cách thông minh giữa ngôn ngữ thường dân và ngôn ngữ học thuật. Điều này tạo ra sự đơn giản, dễ hiểu nhưng vẫn hiệu quả rất cao trong việc diễn đạt hình ảnh, tâm trạng.
Nhiều từ ngữ để gợi nhớ những câu chuyện, những sự kiện được sử dụng để mô tả tình trạng tâm hồn, phẩm chất (“sông Tương”, “sân Lai”, “gốc tử”, “nàng Ban”, hoặc “ả Tạ”…) đều là minh chứng rõ ràng cho sự uyên bác của Nguyễn Du với chữ Hán.
Việc sử dụng từ ngữ chính xác và tinh tế là một trong những tài năng đặc biệt của Nguyễn Du khi mô tả nhân vật và cảnh vật. Ví dụ, từ “nhờn nhợt” (“thoắt trông nhờn nhợt màu da”) khiến người đọc cảm thấy dè chừng về Tú Bà. Từ “lẻn”(“mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào”) làm nổi bật thần thái gian manh, xảo quyệt của Sở Khanh, từ “điểm” (“cành lê trắng điểm một vài bông hoa”) như áo choàng tươi sáng, thanh khiết cho bức tranh mùa xuân tràn đầy sức sống, từ “lập lòe” (“đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”) tạo ra sự sống động, màu sắc cho bức tranh cảnh vật mùa hè…
Để tạo dựng nhân vật, bên cạnh việc mô tả thực tế, tác giả đã rất thành công với phương pháp biểu hiện ẩn dụ. Trong việc mô tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều, người đọc sẽ ngay lập tức nhận ra sự tỉ mỉ của Nguyễn Du khi dùng để khắc họa chân dung nhân vật. Để vinh danh vẻ đẹp của họ, Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh của thiên nhiên như nước, hoa, mây, liễu, tuyết, núi.
Thiên nhiên từ lâu đã được các nhà thơ dùng để đo lường vẻ đẹp của con người. Tuy nhiên, điều Nguyễn Du đã làm không chỉ là miêu tả ngoại hình của nhân vật mà còn cho người đọc phần nào hình dung được số phận tương lai của họ: cuộc đời Vân có vẻ yên bình trong khi Kiều gặp phải nhiều gian nan.
Ngoài việc mô tả ngoại hình, Nguyễn Du còn cho nhân vật của mình thể hiện rất nhiều tâm trạng, suy nghĩ. Không ít lần và bằng không ít câu thơ, nhân vật Thúy Kiều đã thể hiện trạng thái cảm xúc vừa xót xa, vừa dằn vặt chính bản thân mình. Có những câu thơ như tiếng khóc nấc nghẹn về số phận của mình:
“Khi tỉnh dậy sau cơn say
Giật mình và cảm thấy thương xót bản thân
Khi áo phông lụa phủ rủ
Bây giờ sao tan tác như bông hoa trên đường
Gương mặt sao dày mù sương
Thân hình sao buồn bã như con ong chầm chậm di chuyển'
Và nhiều lần, thông qua việc mô tả cảnh tự nhiên, tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ. Thiên nhiên, cảnh vật ấy có lúc mang màu sắc u ám và khi nhìn bằng cảm xúc buồn rầu và cô đơn, con người trở nên càng bi thương hơn. Điều này được thể hiện rõ trong những dòng tuyệt vời của đoạn trích “Nỗi buồn của tôi”:
“Buồn nhìn cửa bể khi hoàng hôn buông xuống,
Chiếc thuyền xa xa hiện lên với cánh buồm nhỏ nhắn?
Buồn nhìn dòng nước mới chảy,
Hoa bay mất dấu biết bay về đâu?
Buồn nhìn thấy cỏ trong nhà trở nên u ám,
Chân mây, mặt đất, một màu xanh ngát.
Buồn nhìn thấy gió thổi mặt trở nên đầy đều,
Tiếng sóng vỗ ầm ầm vang vọng xung quanh chỗ ngồi.
Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều - mẫu 12
Trong tiêu đề của tập thơ Đoạn Trường Tân Thanh, tiến sĩ Phạm Quý Thích đã viết:
... Mặt ngọc lạc sao chìm đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim Lang.
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,
Bạc mệnh đàn ngưng hận vấn vương...
(Dịch bởi Nguyễn Quảng Tuân)
Phạm Quý Thích, người đồng thời với Nguyễn Du, đã tỏ ra ngưỡng mộ và ca ngợi giá trị nhân đạo của kiệt tác Truyện Kiều. Mười lăm năm đắng cay trong cuộc đời của Kiều là một bi kịch đầy cảm xúc, làm rung động lòng người. 'Cảo thơm lần giở trước đèn...' với 3254 câu thơ, Kiều vẫn làm lay động trái tim của Nguyễn Du trước những bi kịch cuộc đời, 'những điều trông thấy mà đau đớn lòng.'
Tinh thần nhân đạo là nguồn cảm hứng văn học lan tỏa khắp trong Truyện Kiều. Đó là tiếng gọi ca ngợi những phẩm chất cao quý của con người như tài năng, lòng hiếu thảo, lòng từ bi, trung trực trong tình yêu... Đó cũng là tiếng gọi đồng cảm với những nỗi đau, những mất mát trong cuộc sống, đặc biệt là đối với phụ nữ 'bạc mệnh' trong xã hội phong kiến. Cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là biểu tượng của sự trân trọng và yêu thương con người, đặc biệt là những người bị bóc lột, bị đè nén.
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện đầu tiên qua việc ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là biểu tượng của sự đẹp và tài năng vượt trội. Nàng Kiều không chỉ xinh đẹp như hoa ghen thua thắm, mà còn có một tài năng thi họa uyên bác, rất đáng tự hào:
Thông minh như một dấu ấn từ trời,
Với sự kết hợp giữa trí tuệ tự nhiên và tài năng văn chương.
Kim Trọng, một danh nhân, người tài trí “vẹn toàn trong tình, xuất sắc ngoài hình'. Là một “thiên tài” tụ hội của văn chương và tinh thần, tài năng thông minh trời ban.' Mỗi bước chân của chàng Kim là một hơi thở mới cho thế giới, làm sống lại những cỏ cây, hoa lá với sức sống mới mẻ, kỳ diệu:
Văn chương phát triển như bước dẫm xanh mát,
Như một khu vườn cây đào rực rỡ nở hoa.
Mối tình của “Kim Trọng - Thúy Kiều” là một trái tim tình yêu thần thoại. Đó là một tình yêu tự do vượt lên trên mọi rào cản của xã hội phong kiến, một tình yêu trong sáng và trung thành của “người hiếu sắc, người thiên tài”. Kiều là một con gái hiếu thảo. Gia đình gặp khó khăn. Tài sản bị lấy đi bởi những kẻ tham lam, cha phải ngồi tù. Kiều quyết định hy sinh tình yêu của mình để cứu cha và gia đình. Hành động hy sinh để chuộc lại cha của Thúy Kiều phản ánh một tinh thần nhân đạo cao cả, làm cho người đọc cảm phục và xúc động:
Hạt mưa rơi vẫn nghĩ về số phận khiêm nhường,
Liều đem mảnh cỏ quyết đền cho ba mùa xuân.
Chẳng sợ gì nếu phải hy sinh bản thân,
Hoa dù rụng cánh, lá vẫn xanh tươi cây.
Đọc Truyện Kiều, theo bước chân của Kiều trên con đường đầy gian khổ, ta không khỏi ngưỡng mộ trước tấm lòng nhân ái, hiếu thảo, và tình nghĩa của nàng. Kiều quên đi nỗi đau cá nhân để dành hết tình thương và quan tâm cho cha mẹ cùng hai đứa em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn bã, không ai chăm sóc giúp đỡ:
Dung túng bên cửa ngày mai,
Quạt gió âu yếm những ai đang giữ lửa...
Tình huống 'trao duyên' trong Truyện Kiều cũng là một nét đẹp của lòng nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời 'Tình hiếu sâu nặng, hai con đường vẹn cả hai”, Kiều đã 'phó mặc em' và giao phó duyên phận cho Thúy Vân thay mình trả ơn “nước non với chàng Kim:
... Ngày xuân còn xa,
Xót thương máu mủ, đổi lời nước non.
Dù thân xác tan tành, mô xương phai mòn,
Tươi cười nồng hương còn thơm dịu.
Cái thoa với mảnh tờ mây,
Duyên này phải giữ, vật này của chung
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng lòng, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công bằng, những khát vọng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng sử thi, một anh hùng xuất sắc có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một vẻ ngoại hình siêu phàm: 'Râu sói, mày én, vai rộng như năm tòa thành'. Những chiến công vĩ đại: “Đạp đổ huyện thành, gìn giữ pháp luật'. Từ Hải là một anh hùng đầy lòng dũng cảm “Ai biết đứng dậy trên đầu ta”. Anh hùng ấy, khi gươm vung lên là công lý được thực thi:
Anh hùng đã kêu gọi,
Giữa đường dù thấy bất bình, cũng tha thứ.
Từ Hải đã dùng sức mạnh của mình để giúp Kiều “trả ơn bằng ơn”. Hình tượng Từ Hải là một thành công nổi bật trong nghệ thuật tạo hình nhân vật của Nguyễn Du, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn hiện lên thông qua hình ảnh này, như ngôi sao lấp lánh bay qua bóng đêm dày của cuộc đời Kiều. Dù chỉ là thoáng qua nhưng rực rỡ hy vọng và niềm tin.
Định mệnh con người - đó là điều nghiền ngẫm không ngừng của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái vĩ đại của nhà thơ đã dành cho số phận của con người tài năng, bị số phận áp đặt sự đồng cảm và lòng xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều trải qua mười lăm năm đầy khổ cực, chịu đủ mọi gian nan: “Thanh lâu hai lần, tham vẫn hai đêm'. Từ Hải bị lừa phải mưu của Hồ Tôn Hiến và bị giết. Kiều phải phục vụ rượu, đánh đàn trong những buổi tiệc quan,... đau lòng quá, nàng nhảy sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đau lòng. Những từ ngữ: thương thay, hại thay, làm sao, còn gì làm thân' như những giọt lệ chứa đựng tình nhân đạo, khóc thương cho số phận trải đầy gian khổ:
... Đau lòng cũng là một đời người,
Gây hại mang lại vẻ đẹp và tài năng làm gì.
Những mảnh oan uổng lưu lại
Chờ đợi cho đến khi kết thúc cuộc đời còn gì là quan trọng!...
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một hình bóng đầy ám ảnh với mọi người. Kỹ nữ nổi tiếng “với vẻ đẹp và tài năng” nhưng số phận đau đớn “Sống như vợ của mọi người - Gặp hại rồi thành ma không có chồng”. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, thể hiện sự đồng cảm thấu hiểu! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị áp đặt trong xã hội cũ?
Đau đớn của số phận phụ nữ,
Câu nói rằng bạc mệnh cũng là phần của đời.
Nguyễn Du, thi sĩ vĩ đại của dân tộc, đã thông qua số phận và tính cách của nhân vật chính - Thúy Kiều - thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh, khiến lòng người cảm động. Tinh thần cao quý nhân đạo là ý nghĩa tư tưởng đặc biệt tạo nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm này. Chúng ta tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của tự nhiên, một trái tim giàu lòng yêu thương, đồng cảm với tâm trạng và số phận của con người, một thiên tài về thơ ca đã làm sáng tỏ văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều tồn tại mãi trong lòng dân tộc, như là âm nhạc ru của mẹ. Tinh thần nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương vô cùng sâu lắng:
Ngàn năm sau vẫn nhớ về Nguyễn Du,
Tiếng thương như làn gió ru từng ngày...
(Dành tặng cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)