Bài văn Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn xuất sắc nhất, gọn gàng bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tuyển chọn từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9. Hy vọng với phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn này, các bạn sẽ thích và viết văn tốt hơn.
Top 40 Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 1
Trong tác phẩm Một số tư liệu về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (NXB Khoa học Xã hội, 1965), G. Ô-ba-rê từng nhận định: Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu từng được coi là 'một trong những sản phẩm hiếm có của trí tuệ con người có ưu điểm lớn là diễn tả được trung thực những tình cảm của một dân tộc'. Một trong những tình cảm lớn lao đó là tấm lòng yêu mến, trân trọng cái thiện đồng thời căm ghét, lên án cái ác trong cuộc sống. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”, nhà văn đã thể hiện đầy đủ sự đối lập thiện - ác đặc trưng cho toàn bộ tác phẩm.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn' nằm trong phần thứ hai của truyện. Đang cô đơn ở nơi xa xứ với đôi mắt mù và nỗi đau sâu thẳm về mẹ vừa mất, Lục Vân Tiên lại bị Trịnh Hâm, kẻ từng ganh tỵ với anh, hãm hại. Hắn lừa người bạn nhỏ của Vân Tiên vào rừng, trói anh lại rồi giả vờ đưa anh lên thuyền, hứa sẽ đưa về quê. Nhưng khi đêm tối buông xuống, Trịnh Hâm mới thực hiện âm mưu của mình. Thông qua cách xử sự của các nhân vật khi gặp người gặp nạn: Trịnh Hâm đối diện với Vân Tiên mù, ông Ngư và gia đình đối mặt với Vân Tiên bị đẩy xuống sông, tác giả đã phân biệt rõ cái ác - đại diện là kẻ tàn nhẫn Trịnh Hâm, cùng với việc ca ngợi cái thiện, như ông Ngư và gia đình. Trịnh Hâm là một kẻ tâm hồn hèn hạ, tà ác. Dù đã ghen ghét Lục Vân Tiên từ trước, nhưng khi Vân Tiên mất thị lực, tiền của cạn kiệt, thầy tớ bỏ rơi, Trịnh Hâm vẫn không đủ lòng từ bi. Vân Tiên với anh ta là một người quen, nhưng Trịnh Hâm lại không ngần ngại lừa gạt, hại người đang trong hoàn cảnh khó khăn, cần sự giúp đỡ.
“Khi đó, Trịnh Hâm đã hành động,
Vân Tiên bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông ngay lập tức”
Ngoài ra, Trịnh Hâm còn thể hiện sự tàn bạo khi ăn cắp và gây rối rào đầy ghê tởm:
“Trịnh Hâm lúc ấy thét lên trời
Để người tỉnh dậy mà phải đau lòng.”
Không chỉ không thực hiện lời hứa (mang Vân Tiên trở về quê) mà còn hại Vân Tiên. Điều này là sự phản bội bạn bè, phản bội lời hứa của chính mình. Trong tư tưởng của những người theo triết học Nho giáo xưa, lời hứa là điều cực kỳ quan trọng, đó là một tượng trưng danh dự cho mỗi người: Một lời hứa khi đã được thốt ra như một cái dao chém đá, là một lời nói nặng nề như núi. Do đó, hành động của Trịnh Hâm lộ rõ tính cách vừa tàn nhẫn vừa không công bằng, vừa đê tiện vừa xảo quyệt của hắn. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng ganh ghét, sự ghen tỵ với tài năng của Vân Tiên. Nỗi ác này đã lan tỏa khắp trong tâm hồn hắn, trở thành bản chất độc ác của Trịnh Hâm. Chỉ trong vài dòng thơ, tác giả đã sắp xếp các sự kiện một cách tự nhiên, thể hiện sự diễn biến nhanh chóng, có kế hoạch và độc ác của Trịnh Hâm. Tính xấu xa trong con người này là biểu tượng cho sự xấu xa trong toàn bộ tác phẩm. Đó là sự lừa dối, ám sát của những nhân vật như Bùi Kiệm, Võ Công,... Họ không chỉ một lần hoặc hai lần hại những tâm hồn trong sáng như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… Tuy nhiên, Nguyễn Đình Chiểu không mất lòng tin vào cuộc sống, ông xây dựng hình ảnh của sự ác độc, lòng nhân từ của nhà thơ để tạo ra sự đối lập, vinh danh cái thiện. Cái thiện được thể hiện qua lòng đoàn kết và trái tim nhân từ của ông chài và gia đình ông. Khi nhìn thấy người gặp nạn dưới sông, ông chài đã ra tay cứu giúp:
“Ông chài nhìn thấy người ngay lập tức cứu vớt lên bờ
Giúp đỡ người gian khổ một cách tức thì,
Ông hơ lòng, mụ hơ khuôn mặt”
Từ 'hối' mang ý nghĩa giục giã, thúc đẩy. Ông ngư cùng vợ con đang nỗ lực cứu sống Vân Tiên. Câu thơ đơn giản, chỉ tường thuật sự kiện một cách tự nhiên, nhưng ẩn chứa sự đầy ân tình của một gia đình đối với người gặp nạn. Chính điều này đã tạo nên một sự đối lập rõ ràng với hành động tàn bạo, vô nhân của Trịnh Hâm. Không chỉ thế, ông Ngư và cả gia đình còn sẵn sàng bảo vệ người đang gặp khó khăn: ông chân thành mời Vân Tiên ở lại và sớm hôm tương lai chia sẻ cuộc sống bằng cách tạo ra một mái ấm tình thương:
'Ngư nói rằng: Hãy ở với chúng tôi
Mai đến, chúng tôi sẽ cùng nhau xây dựng một ổn định'.
Khi Vân Tiên cảm thấy băn khoăn về việc 'ông có thể nuôi được tôi không' ông Ngư đã thể hiện lòng biết ơn, tinh thần trân trọng tài năng của mình qua lời nói:
'Tôi không mơ ước gì cao lớn
Chỉ mong được báo đáp lòng nhân từ của bạn'
Nghĩa là giúp đỡ mà không mong đợi sự đền đáp. Đó là sự trong sạch và không màng đến lợi ích, phê phán sự tham lam và thực trạng bất công. Cuộc sống của ông Ngư gắn liền với thiên nhiên bao la, tâm hồn ông bình yên và thanh thản:
“Một mình nhàn nhã làm việc
Tắm mưa, ngồi dọc gió bên bờ sông”.
Thông qua đoạn thơ này, tác giả truyền đạt khát vọng và niềm tin vào cái thiện, vào bản chất tốt đẹp của con người lao động bình thường. Như những Hớn Minh, Vương Tử Trực, ông Tiều, ông quán,... ông Ngư trở thành biểu tượng cho cái thiện trong Truyện Lục Vân Tiên. Những nhân vật này thể hiện tầm nhìn tiến bộ và lòng lạc quan của nhân dân. Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn không được trau chuốt về hình thức nhưng lại rất chân thành, mộc mạc, và diễn đạt được tâm hồn nhân ái, lạc quan của tác giả. Đặc biệt, đoạn trích về cuộc sống của ông Ngư được diễn đạt một cách thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, ý tưởng sâu xa, phóng khoáng.
Thông qua sự đối lập giữa thiện và ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn, tác giả thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống, điều này cũng chính là nguồn cảm hứng cho toàn bộ tác phẩm.
Dàn ý Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
1. Khởi đầu
- Nguyễn Đình Chiểu, nhà văn với tinh thần cao cả, mặc dù mắt không nhìn thấy nhưng tâm hồn rạng ngời, lòng yêu nước sâu sắc. Tác phẩm văn chương của ông không chỉ là vũ khí chống lại sự xâm lược mà còn là phương tiện truyền bá tri thức.
- Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn (trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên) rõ ràng thể hiện sự đối lập giữa cái ác và cái thiện thông qua hai nhân vật Trịnh Hâm và ông Ngư, với mục tiêu giáo dục con người hướng về hành động thiện và đẩy lùi sự ác.
2. Phần chính
a. Trịnh Hâm - biểu hiện rõ nhất cho cái ác tột bậc thấm sâu vào tâm hồn
- Một kẻ hèn hạ, đê tiện.
- Vô nhân, không có lòng trắc ẩn, sử dụng mưu mẹo tinh vi, lên kế hoạch hại Lục Vân Tiên một cách chặt chẽ trong từng chi tiết (bẫy tiểu đồng vào rừng, giả vờ giúp đỡ đưa Vân Tiên về quê bằng thuyền, đẩy Vân Tiên xuống dòng nước giữa đêm tối để không ai kịp cứu, giả vờ kêu trời để lừa gạt mọi người trên thuyền).
- Tàn nhẫn, ích kỉ, chỉ vì ghen ghét tài năng mà hãm hại Vân Tiên mặc dù không có mối thù oán gì.
- Không chỉ gây hại cho Vân Tiên mà còn lên tiếng để thu lợi từ sự phô trương của mọi người.
- Hành động của Trịnh Hâm cho thấy rằng hắn không trung thành với những lời hứa của chính mình.
⇒ Bản chất độc ác, sự lừa dối và phản bội của Trịnh Hâm.
b. Ông Ngư - một biểu tượng của nhân đức và sự thiện lương
- Ông không do dự trong việc cứu giúp và không quan tâm đến việc được đền đáp.
- Gia đình của ông Ngư được mô tả là một hình ảnh đẹp đẽ (về cảm nhận nhân cách và các giá trị đạo đức).
+ Khi nhìn thấy người gặp nạn, ông đã ngay lập tức đến giúp đỡ.
+ Hành động nhân ái và tình cảm của gia đình Ông Ngư đối với người bị nạn: Khi nghe Vân Tiên kể về hoàn cảnh của mình, ông đã chăm sóc. Dù gia đình rất nghèo, nhưng ông vẫn sẵn lòng che chở người khuyết tật không nơi nương tựa.
+ Ông không tính toán về việc được cứu mạng, sống trong sạch, không quan tâm đến danh lợi:
- Tư tưởng sống và lối sống của Ông Ngư rất cao quý, đơn giản, không vụ lợi, gắn bó hòa mình với thiên nhiên.
- Ông sống tự do, thoải mái, tự lập, kiếm sống bằng công lao của mình.
- Cuộc đời của Ông Ngư không phô trương nhưng không phổ thông (có thể là nhà triết học, nhà hiền triết có uyên thâm).
⇒ Ngư Ông là biểu tượng của người lao động đạo đức và trong sáng.
c. Thái độ của tác giả Nguyễn Đình Chiểu
- Dành tình yêu thương cho những người có phẩm chất cao như Lục Vân Tiên và Ông Ngư.
- Gan ghét những kẻ xấu xa, tàn ác như bọn cướp và Trịnh Hâm.
3. Tóm tắt
- Văn của Nguyễn Đình Chiểu mang giá trị tư tưởng và đạo đức cao.
- Học hỏi từ tính cách đáng kính của ông Ngư, lên án và loại bỏ kẻ xấu như Trịnh Hâm.
Sơ đồ tư duy về sự đối lập giữa thiện và ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 2
Lục Vân Tiên là một tác phẩm thơ đặc sắc của nhà văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, viết bằng chữ Nôm, đại diện cho văn học Trung đại. Truyện kể về anh hùng Lục Vân Tiên, người có tài năng, lòng nhân ái cao cả, không màng đến danh vọng, cũng như vẻ dịu dàng, duyên dáng của Kiều Nguyệt Nga. Ngoài ra, tác phẩm còn mang lại cho chúng ta những bài học quý giá về đạo lý sống, đặc biệt là ranh giới giữa thiện và ác. Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện rõ sự đối lập này.
Trong khi đi thi, Vân Tiên nghe tin mẹ qua đời nên quay về nhà, nhưng vì tiếc nuối nên bị mù. Trên đường, anh gặp nhiều gian nan nhưng không có nơi nương tựa, chỉ mong muốn trở về nhà để thắp hương cho mẹ. Nhưng đáng tiếc, Trịnh Hâm đã tận dụng cơ hội này để hại Vân Tiên. Trong khi Vân Tiên tưởng nhờ Trịnh Hâm giúp đỡ để trở về nhà, thì hắn lại lợi dụng để gây họa cho Vân Tiên với ý đồ ích kỉ và tàn nhẫn.
'Đêm khuya yên bình bóng mờ,
Sao lung linh mặt trời mờ sương phai.
Trịnh Hâm gian xảo ra tay,
Vân Tiên bị đẩy ngã xuống dòng nước.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Mở mắt thấy người dậy, từ từ phôi pha lời nói'
Kẻ không chỉ hại người mà còn giả vờ đáng thương, làm ra vẻ, như một kẻ 'ăn cắp nhưng còn giả trang, làm ra vẻ tội nghiệp' để lấy lòng 'phui pha' từ mọi người xung quanh. Đó là bản tính của một kẻ thông minh và gian xảo. Nhưng trong cuộc sống, vẫn luôn có quy luật 'hữu duyên thiên lý, năng nhờ sự thánh thiện'. Ở mọi nơi, vẫn có rất nhiều người tốt lành, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn và hoạn nạn. Trái ngược với sự độc ác của Trịnh Hâm là gia đình của ông Ngư, một gia đình nghèo khó nhưng luôn đầy lòng nhân ái. Ông Ngư, một ngư dân, luôn rộng lượng, tốt bụng và nhân từ.
'Ông ngư thấy, liền vớt lên bờ.
Đợi đến khi lửa tắt một giờ,
Ông hơ bụng, bà hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm lòng tay,
Ngơ ngác, hồn phách đầy hồi hộp như mới tỉnh.
Sau khi cứu Vân Tiên khỏi biển, ông Ngư đã hiểu được hoàn cảnh khó khăn và bi đát của Lục Vân Tiên. Ông đã ân cần giúp đỡ chàng, dù trong hoàn cảnh khó khăn, với bữa cơm đơn giản nhưng tràn đầy tình thương.
Ngư nói: 'Hãy ở lại với tôi,
Mai này chúng ta cùng vui với tuổi già'.
Dẫu đã giúp đỡ Vân Tiên, nhưng ông không mong đợi lòng biết ơn hay sự đáp lại: 'Dù lòng nhân nghĩa không cầu đáp lại'. Nếu Trịnh Hâm hẹp hòi thì ông Ngư rộng lượng. Nếu cuộc sống của Trịnh Hâm là sự ganh đua, tính toán ích kỉ thì cuộc sống của ông Ngư rất cao thượng, không vụ lợi danh vọng. Ông sống tự do, ung dung và thanh cao. Cuộc sống của ông không quan trọng vật chất mà là niềm vui và tình yêu cuộc sống.
'Nước trong rửa sạch ruột gan,
...
Ngư ông sống hòa bình với biển cả,
Ông ngư sục sôi, mụ ngư bừa mặt
Từ 'hối' có nghĩa là thúc giục, giục giã. Ông ngư và vợ con đang cực kỳ vội vàng cứu sống Vân Tiên. Câu thơ đơn giản, chỉ tường thuật sự kiện một cách tự nhiên, nhưng chứa đựng nhiều tình thương của gia đình vợ chồng, con cái đối với người gặp nạn. Chính điều này đối lập mạnh mẽ với hành động tàn ác, bất nhân của Trịnh Hâm. Không chỉ vậy, ông Ngư và gia đình sẵn sàng giúp đỡ người bất hạnh: ông chân thành mời Vân Tiên ở lại với họ, chia sẻ cuộc sống giản dị và ấm áp như một gia đình:
'Ngư bảo: Bạn ở với tôi
Nhà mai gọi mời sống cùng vui.'
Khi Vân Tiên thắc mắc 'ông lấy gì nuôi', ông Ngư đã thể hiện lòng từ bi, tinh thần nhân nghĩa của mình qua lời nói:
'Tâm lão không mơ
Chẳng cầu đền ơn, chỉ mong trao ân'
Có nghĩa là tự tạo điều làm lợi mà không mong đợi sự đền đáp. Đó là sự trong trắng tự nhiên của một tâm hồn thuần khiết... Điều này lại được thể hiện qua cuộc sống làm việc của ông Ngư. Đó là một cuộc sống đơn giản, không chạy theo vật lợi, khinh thường thói đời bạc bẽo, gian trá. Cuộc sống của ông gắn liền với thiên nhiên phong phú, tâm hồn ông thanh thản và bình yên:
“Một mình tha hồ làm ăn
Ước mơ trải gió mưa bên sông hẻo”.
Bằng đoạn thơ trên, tác giả muốn truyền đạt khao khát và niềm tin vào điều tốt lành, vào bản chất tốt lành của con người lao động bình thường. Cùng với những Hớn Minh, Vương Tử Trực, ông Tiều, ông quán,... ông Ngư đã đại diện cho cái thiện trong tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên. Qua những nhân vật này, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện một cái nhìn tiến bộ, lạc quan đậm chất nhân dân. Giống như toàn bộ tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên, đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn không được Nàng Thơ chú trọng về hình thức nhưng chính sự giản dị, mộc mạc của ngôn ngữ đã tạo ra sự chân thành không chỉ trong việc mô tả tính cách các nhân vật mà còn thể hiện lòng nhân ái, lạc quan của tác giả.
Đặc biệt, đoạn trích miêu tả cuộc sống của ông Ngư, ngôn ngữ và thơ rất sảng khoái, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, ý tưởng phóng khoáng mà sâu sắc. Đọc đoạn thơ, ta cảm thấy như chính tác giả đang sống vào nhân vật để diễn đạt khao khát sống của mình. Qua sự đối lập giữa thiện và ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn, tác giả thể hiện niềm tin vào những điều tốt lành trong cuộc sống. Đó cũng là nguồn cảm hứng lớn của toàn bộ tác phẩm.
Phân tích sự đối lập thiện – ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 4
Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã trở thành chức năng phản ánh của văn học. Điều này đã thể hiện trong quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hệ thống nhân vật của mình, cụ thể là Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hai nhóm nhân vật: Thiện và ác, đạo đức và gian tà. Ông Quán, Ông Ngư, chú tiểu đồng, Hớn Minh… được Nguyễn Đình Chiểu coi trọng. Họ là những con người tốt lành, đầy lòng thương người, trân trọng đạo đức khinh tài.
Ngoài ra, ông cũng mạnh mẽ chỉ trích và lột tả bọn người tàn ác, xảo quyệt như cha con Võ Thế Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn, hai hình tượng đối lập giữa thiện và ác nổi bật. Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu đoạn trích bằng cách vẽ nét hình ảnh Trịnh Hâm là biểu tượng của sự xấu xa, tàn ác:
“Đêm khuya yên bình như giấy,
Ngẩng đầu ngắm sao tỏa sáng trên đỉnh núi xa
Trịnh Hâm kia lúc ấy bày mưu,
Vân Tiên bị đẩy té xuống dòng nước sâu
Trịnh Hâm dối tiếng gọi trời,
Thức dậy người rồi nói lời lừa dối.”
Ghen ghét, đố kị là tật xấu của con người. Nhưng sự ghen ghét, đố kị, độc ác như Trịnh Hâm thì thật là hiếm. Hắn âm mưu hại một con người lúc đang mù lòa, ốm đau, không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ. Hành động tàn ác của hắn bắt nguồn từ lòng thù hận nhỏ nhen, thoả mãn lòng ghen ghét, đố kị tài năng của Lục Vân Tiên trong một buổi uống rượu. Một người mang danh sĩ tử, theo nghiệp bút nghiêng, đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm mà lại có ý đồ đen tối ngay cả khi Vân Tiên không còn đe dọa đến bước đường thành công của hắn thì sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều. Để thể hiện hành động đen tối của mình, hắn nghĩ 'Hại Tiên phải bằng mưu này mới xong'. Trước đoạn truyện này, hắn đã lên kế hoạch trói tiểu đồng vào gốc cây để cho hổ ăn thịt. Sau đó, hắn giả vờ thương xót đưa Vân Tiên xuống thuyền, và khi ra giữa dòng nước 'mịt mùng trong đêm khuya, sao tỏa sáng, mây mù bay', hắn mới 'hành động'. Hai chữ 'hành động' trong câu trên tố cáo hành động tàn ác, trắng trợn của hắn. Hành động kiên quyết đó lại được che giấu dưới một cách gian ác xảo quyệt của loại người 'ném đá giấu tay' bằng cách 'giả tiếng kêu trời'. Cái hành động 'giả tiếng kêu trời' đã phản ánh rõ bản chất giả dối của kẻ giả nhân giả nghĩa. Hắn là hiện thân của cái ác, cái lưu manh trong xã hội thời đó. Một người được coi là người học như hắn mà có tâm địa tăm tối thì thực sự là nguy hiểm và ghê tởm. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cũng đã nhận xét: 'Mỗi oán thù sinh ra một câu chuyện, gợi bằng văn chương trong tâm địa của một kẻ nhỏ nhen đã dẫn đến những chuyện không ngờ'.
Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là nhân vật ông Ngư, một người giàu lòng nhân đức và cao thượng. Sau khi được Giao Long dìu Vân Tiên vào bờ, ông Ngư ra tay cứu vớt kịp thời và hết lòng tận tình chữa trị.
“Hơi con vời lửa một giờ
Ông hơi lòng dạ, mụ hơi khuôn mặt.”
Câu thơ mộc mạc, chân thành, không chút vẻ nhồi nhét, chỉ đơn giản là kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, trong việc cứu chữa bằng phương pháp dân dã 'vời lửa', 'hơi lòng dạ', 'hơi khuôn mặt' tất cả gợi lên sự chân thành, tự nguyện, yêu thương của cả gia đình nghèo với người bị nạn. Họ là hình ảnh đẹp đẽ của quần chúng nhân dân lao động, những người luôn ủng hộ chính nghĩa. Trong bức tranh thổn thức dân dã này, ta thấy ở họ không chỉ có tấm lòng và niềm vui trong lúc cứu người bị nạn mà còn là hành động vô tư không cần suy tính, không mong đợi sự đền đáp. Hiểu được hoàn cảnh của chàng, ông Ngư đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng giúp đỡ chàng.
“Ngư nói: người ở cùng ta
Mai, hâm hẩm một nhà cho vui.”
Cuộc sống “hâm hút” của ông Ngư không hề dễ dàng về vật chất, ông phải đối mặt với biển cả để giành lấy cuộc sống, giành lấy phần đời trước những bão giông của cuộc đời khốn khổ. Ông giúp đỡ người mà không đòi sự đền đáp, bởi ông coi nhân nghĩa là chân lý sống: Dốc lòng nhân nghĩa không mong đợi sự trả ơn. Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được nhắc đến một lần bởi Nguyễn Đình Chiểu ở đoạn truyện này mà còn lan tỏa khắp tác phẩm trong một truyện khác, khi Lục Vân Tiên cứu giúp Kiều Nguyệt Nga mà không tính toán. Làm ơn không đòi sự đền đáp. Hoặc ông Tiều cứu Vân Tiên cũng không trông chờ đền đáp từ chàng: “Làm ơn mà không cần chờ người trả ơn”. Đối với ông Ngư, quan niệm về nhân nghĩa tương tự như của Lục Vân Tiên, nhưng khi liên kết với người lao động như ông Ngư, ý nghĩa của quan niệm này trở nên sâu sắc hơn. Thấy việc nghĩa là làm, là đặc điểm nhân cách của ông Ngư. Nhân cách đó được thể hiện trong cuộc sống lao động của ông, mà Nguyễn Đình Chiểu đã cảm nhận từ trái tim và tâm trí của mình. Đó là cuộc sống trong sạch, không chạy theo danh lợi.
“Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu nói về danh lợi buông lỏng.”
Ông Ngư không quan tâm đến danh lợi trong cuộc sống đầy rẫy những trở ngại, ông tận hưởng cuộc sống của mình bằng nghề chài lưới, tự do trong thiên nhiên bao la, hòa mình với thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên, nên đối với ông không có gì quan trọng hơn:
“Rày đồng mai hứng gió vui vầy,
Ngày mai hứng gió, đêm nay ngắm trăng.
…
Thuyền lạc một chiếc trên cuộc đời,
Tắm mưa, chải gió giữa vùng Hàn Giang.”
Phải nói rằng, các nhà văn thường gắn bó với cuộc sống nhiều, từ đó có cảm hứng để tạo ra những tác phẩm tươi sáng về con người có tính cách mở cửa trái tim và niềm vui trong cuộc sống như ông Ngư. Cuộc sống của ông Ngư được mô tả như một thời kỳ thoải mái 'ngày hứng gió, đêm say trăng', nơi mà mỗi khoảnh khắc đều đáng trân trọng. Một hình ảnh đẹp mắt nhất được thể hiện qua 'Thuyền lạc một chiếc trên cuộc đời - Tắm mưa, chải gió giữa vùng Hàn Giang.' Những hình ảnh này giúp tôn vinh nhân cách và quan niệm sống của ông Ngư. Đoạn thơ này là một phần đặc sắc của tác phẩm, thể hiện quan niệm sống và giấc mơ của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Ngư, đồng thời là một cách để tác giả phản ánh thực tế xã hội của thời đại mình.
Đoạn truyện đã thành công trong việc tạo ra hai nhân vật đối lập: một người giấu giếm dưới bề ngoài cao quý và một người có tâm hồn cao thượng trong cuộc sống bình dị. Cả hai nhân vật được miêu tả qua hành động và ngôn từ đơn giản. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu đã thành công khi để lại ấn tượng sâu sắc về nhân vật ông Ngư, một biểu tượng nghệ thuật phản ánh quan điểm của tác giả.