Tổng hợp hơn 40 bài văn Phân tích tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc với dàn ý chi tiết giúp học sinh có tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.
Top 40 Phân tích tranh tứ bình Việt Bắc (hay nhất)
Dàn ý Phân tích tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
I. Giới thiệu
- Tác giả Tố Hữu: một nhà thơ vĩ đại, trữ tình chính trị, thể hiện qua thơ những chặng đường đấu tranh, thắng lợi của dân tộc.
- Bài thơ Việt Bắc: tác phẩm xuất sắc của Tố Hữu, tóm tắt về cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc, biểu tượng cho lòng biết ơn sâu sắc đối với cách mạng.
- Bức tranh tứ bình được coi là những bài thơ tuyệt vời trong tác phẩm Việt Bắc.
II. Nội dung chính
1. Tổng quan về bài thơ Việt Bắc
- Bối cảnh sáng tác: trong bối cảnh chiến dịch Điện Biên Phủ chiến thắng, lúc Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi Việt Bắc để về thủ đô, Tố Hữu sáng tác bài thơ này.
- Những dòng thơ trong bức tranh tứ bình là lời từ người ra đi gửi đến người ở lại.
- Hai dòng thơ đầu tiên của đoạn là lời của người ra đi, bày tỏ nỗi lo sợ về mối quan hệ với người ở lại, và từ đó thể hiện tâm tư, nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc.
2. Bức tranh mùa đông
- “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng kỹ thuật chấm phá, hoa chuối đỏ nổi bật trên nền xanh của rừng, tượng trưng cho hình ảnh ngọn đuốc xua tan cái lạnh của mùa đông trong núi rừng.
- “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: ánh nắng mạnh mẽ từ con dao gài thắt lưng tạo ra hình ảnh mạnh mẽ, to lớn của người lao động, thể hiện tâm hồn kiêu hãnh, chi phối thiên nhiên, cuộc sống.
3. Bức tranh mùa xuân
- “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khiết của hoa mơ lan tỏa khắp núi rừng, biểu hiện cho sự trỗi dậy của thiên nhiên khi mùa xuân về.
- Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài năng, khéo léo và tỉ mỉ: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “chuốt từng sợi giang”: biểu hiện sự tận tâm, tỉ mỉ với công việc lao động của mình.
4. Bức tranh mùa hạ
- “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: cảnh thiên nhiên bỗng chốc chuyển sang gam màu vàng trong từng cánh rừng, qua động từ “đổ”
+ Có thể thấy màu vàng của tường pha trộn với tiếng ve hòa mình, tràn đầy sức sống
+ Cũng có thể là tiếng ve đã đánh thức rừng phách bừng nở hoa.
- “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” là cách gọi thể hiện sự quý trọng, yêu thương của tác giả đối với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự cần cù, kiên trì của người Việt Bắc.
5. Bức tranh mùa thu
- “Rừng thu trăng sáng tỏ hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng lên núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.
- Con người hát vang, chân thành, mang trong mình tấm lòng trung thành và biết ơn.
* Nhận xét:
- Nêu cảm nhận tổng quan về bộ tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình tạo ra sự cân đối hài hòa và thể hiện một cách toàn diện vẻ đẹp của chủ thể, bốn bức tranh này tôn lên giá trị của nhau, không thể tách rời, chúng là một tác phẩm tuyệt vời kết hợp giữa con người và thiên nhiên.
III. Kết luận
- Tóm tắt lại những đặc điểm nghệ thuật và phong cách thơ của Tố Hữu: tính dân tộc sâu sắc (sử dụng thể thơ lục bát, cấu trúc đối đáp trong văn học dân gian, ngôn từ đơn giản, hình ảnh gần gũi, cảm nhận thơ thiết tha.)
- Tổng kết giá trị nội dung của cả bài thơ: là một bản ca hùng vĩ và bi ca về cuộc cách mạng, về cuộc chiến đấu và những người chiến đấu.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 1
Tố Hữu, một trong những nhà văn trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông luôn phản ánh chân thực mỗi sự kiện, mỗi bước tiến của dân tộc. Việt Bắc là tổng kết về cuộc chiến chống Pháp, đồng thời là biểu tượng của sự hạnh phúc, tự hào của ông về sự thành công của dân tộc. Đằng sau những sự kiện lịch sử đó, trong Việt Bắc còn chứa đựng những vần thơ tinh tế, đầy cảm xúc khi mô tả về thiên nhiên, đó chính là bức tranh tứ bình. Bức tranh tứ bình có thể được coi là điểm nhấn quan trọng nhất, làm nên sự thành công cho tác phẩm.
Bức tranh tứ bình được trích từ câu 43 đến câu 52 của tác phẩm. Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất, có thể tồn tại độc lập như một tác phẩm riêng. Đoạn thơ này gồm mười câu chia thành hai phần, hai câu đầu tiên tóm lược về cảm xúc chủ đạo trong đoạn, tập trung vào nỗi nhớ; phần còn lại mô tả vẻ đẹp của bốn mùa, tương ứng với bốn cặp lục bát. Sử dụng hình thức bốn bức tranh tứ bình là một phong cách mô tả được yêu thích trong văn học truyền thống. Thông qua cách viết này, Tố Hữu một lần nữa tạo ra nét văn hóa dân tộc đặc trưng cho tác phẩm.
Tác phẩm bắt đầu bằng hình ảnh của mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ sặc sỡ
Đèo cao nắng chiếu rọi thắt lưng
Thiên nhiên được miêu tả bằng màu xanh sâu của rừng núi và trên nền xanh ấy, Tố Hữu sử dụng kỹ thuật chấm phá để tạo nên hình ảnh “rừng xanh hoa chuối đỏ sặc sỡ”. Dù chỉ là một bông hoa, nhưng màu đỏ của nó đã làm rực sáng không khí, làm tan đi cảm giác lạnh buốt của mùa đông ở Việt Bắc. Con người lao động xuất hiện với tư thế cường tráng, đương đầu với thiên nhiên nhưng không bị thiên nhiên làm chìm khuất mà ngược lại, trong tư thế làm chủ vũ trụ. Ở đây, thiên nhiên dường như còn phản ứng, tạo điểm nhấn cho hình ảnh của con người, ánh nắng phản chiếu lên những lưỡi dao tạo ra vẻ đẹp rực rỡ, không hề tạo ra một cảm giác cứng nhắc, mà đó là vẻ đẹp tự nhiên.
Bức tranh mùa xuân được Tố Hữu tô điểm với sự tươi sáng, trong trẻo:
Ngày xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người dệt nón cắm sợi giang
Điểm đặc biệt của bức tranh là vẻ trắng tinh khiết, thanh nhã của rừng mơ. Loài hoa này đặc trưng cho núi rừng Tây Bắc. Dù toàn bộ bức tranh chỉ có màu trắng, nhưng không hề tạo ra cảm giác đơn điệu, vì tác giả đã biến đổi từ “trắng” kết hợp với từ “nở”, làm cho màu trắng có vẻ động từ một điểm và lan tỏa khắp bức tranh. Vì vậy, bức tranh ít chi tiết nhưng vẫn rất sống động. Tương tự, vẻ đẹp của con người lao động ở Việt Bắc cũng không kém phần hấp dẫn. Với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa, họ từng sợi giang, thể hiện vẻ đẹp của sự khéo léo, kỹ thuật mà vẫn giữ được tính giản dị.
Bức tranh mùa hạ được miêu tả bằng âm thanh, màu sắc đặc trưng:
Ve kêu rừng phách tràn vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve vang lên rộn ràng, vui tươi; màu vàng ấm áp lan tỏa khắp không gian. Tác giả đã sử dụng từ “đổ” để diễn tả quá trình thay đổi màu sắc. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, đột ngột và đầy bất ngờ. “Ve kêu rừng phách tràn vàng” gợi lên nhiều ý tưởng cho người đọc. Câu thơ này có thể hiểu là tiếng ve kêu trong rừng phách tạo ra màu vàng, hoặc tiếng ve kêu làm cho rừng phách trở nên vàng óng, nếu hiểu theo cách này, bạn sẽ cảm nhận được sức sống tươi trẻ của tự nhiên. Hình ảnh của con người vẫn tiếp tục trong tình trạng chăm chỉ lao động. Cô em gái xuất hiện một mình nhưng không gây cảm giác cô đơn, bởi có sự hòa hợp, kết nối với thiên nhiên đang trong giai đoạn đẹp nhất.
Bức tranh cuối cùng là bức tranh mùa thu, với ánh trăng chiếu sáng khắp nơi:
Rừng thu trăng tỏa hòa bình
Nhớ ai tiếng hát tình thắm, trung thành
Trăng luôn là đề tài vĩnh cửu trong thơ ca, và trăng mùa thu là lúc trăng tròn nhất và đẹp nhất. Miêu tả về trăng ở vùng chiến khu Việt Bắc đã tái hiện không khí yên bình, lặng lẽ. Vẻ đẹp của vầng trăng không chỉ đơn thuần là của thiên nhiên mà còn là của hòa bình. Hình ảnh con người được thể hiện qua nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người dân Việt Bắc, là lối hát giao duyên, là tiếng hát tình thắm, trung thành.
Với thể thơ lục bát dân tộc, đạt đến độ hoàn mỹ. Câu thơ ngắt nhịp đều đặn, cùng với vần chính xác đã làm cho đoạn thơ đậm chất nhạc. Hình ảnh không cầu kỳ, nhưng được lựa chọn kỹ lưỡng, vừa thể hiện sự giản dị vừa thể hiện vẻ đẹp tinh tế.
Bức tranh tứ bình là đoạn thơ xuất sắc nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nếu nhìn theo chiều ngang, đoạn thơ là bức tranh toàn cảnh về bốn mùa trong năm ở Việt Bắc. Nếu nhìn theo chiều dọc, ta có thể nhìn thấy vẻ đẹp đan xen của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ cũng cho thấy bút pháp tài tình, ngôn ngữ thơ tinh tế của Tố Hữu.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 2
Sống trong lòng nghĩa, trung thành là một lối sống văn hóa đẹp đẽ từ hàng ngàn năm qua của dân tộc ta. Nét đẹp ấy đã được lưu truyền qua nhiều tác phẩm văn học khác nhau và một trong số đó chính là bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
“Ta về mình có nhớ ta
…
Nhớ ai tiếng hát tình thắm, trung thành”
Việt Bắc không chỉ là một địa danh, là nơi để chiến đấu mà còn là nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm, tình người sâu nặng. Khi chia tay, mỗi người đều bồi hồi xúc động, nhớ về những kỷ niệm đã qua. Đó là những buổi học, những ngày tháng liên hoan trong những năm kháng chiến và còn nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc trong bức tranh tứ bình hiện lên rất cô đọng, hàm súc, đại diện cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên trong bức tranh tứ bình:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Khi đọc câu thơ này, người ta sẽ không nghĩ đến mùa đông âm u, lạnh lẽo mà lại là mùa xuân tràn đầy sức sống, hoặc mùa hạ rực rỡ. Nhưng không, đây chính là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông. Trên nền xanh của rừng bạt ngàn là màu đỏ rực của hoa chuối. Sự ấm áp này dường như làm cho cả bức tranh bừng sáng, trỗi dậy sức sống tiềm ẩn trong đó.
Bức tranh thứ hai là mùa xuân. Khung cảnh thiên nhiên ở đây mang đến sự trong sáng, dịu dàng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Câu thơ khiến người ta nhớ đến cảnh:“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về.. im lặng. Con chim hóa/ thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngờ”. Từ xuân đến hè đều rực rỡ, đầy màu sắc và âm thanh. Tiếng ve vang lên rộn ràng, như một dàn hòa nhạc chào đón mùa hè, cùng với đó là sắc vàng rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”. Liệu là tiếng ve làm cho rừng phách đổ vàng hay rừng đã thế từ trước? Dù cách hiểu nào, khung cảnh hiện ra đều rất rực rỡ và ấm áp.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Ánh trăng nhẹ nhàng của mùa thu lan tỏa khắp không gian. Trong màu sắc ấy, không gian ấy còn rực rỡ lên khát khao về một cuộc sống tự do, hòa bình. Dưới con mắt quan sát tinh tế của Tố Hữu, mỗi mùa ở nơi đây thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ, thật đặc biệt. Có lẽ phải gắn bó và tha thiết yêu lắm ông mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng nét đẹp tinh túy nhất của cảnh vật như vậy.
Đan xen ở mỗi bức tranh là hình ảnh của con người Việt Bắc. Ông không chỉ yêu quý, trân trọng thiên nhiên nơi đây mà còn tha thiết, chân thành với con người Việt Bắc. Ở mỗi đối tượng ông đều khám phá, nắm bắt được những vẻ đẹp đặc biệt của họ. Là hình ảnh nông dân leo núi làm việc với lưỡi dao lấp lánh dưới ánh nắng của mùa đông. Là bàn tay khéo léo của người đan nón thanh tĩnh “chuốt từng sợi giang” vô cùng điêu luyện. Bức tranh càng trở nên thơ mộng hơn với “Cô em gái hái măng một mình” ven suối bên tiếng ve kêu rộn rã. Và cuối cùng là tiếng hát tha thiết, trầm bổng vang vọng khắp không gian núi rừng Việt Bắc. Khúc hát vang lên cuối khổ thơ, kết hợp với hình ảnh ánh trăng càng làm rõ hơn nữa khát khao hòa bình, độc lập trong lòng tác giả.
Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, bởi vậy bao trùm trong từng câu từng chữ là nhịp điệu nhẹ nhàng, trầm bổng từng bước một dẫn con người ta vào quá khứ đẹp đẽ, ân nghĩa, trung thành. Nhịp điệu ấy cùng với thể thơ lục bát càng khiến cho nỗi nhớ trở nên bâng khuâng, da diết hơn.
Khép lại khổ thơ, nỗi nhớ bâng khuâng tha thiết vẫn trải dài, vang vọng khắp không gian. Nỗi nhớ ấy như một lời tri âm sâu nặng của tác giả đối với thiên nhiên và con người nơi đây. Đồng thời với việc lựa chọn các hình ảnh bình dị, ngôn ngữ thơ trong sáng dễ hiểu nhưng lại tạo nên một bức tranh tứ bình đặc sắc lại một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 3
'Việt Bắc' – một bài thơ lục bát to lớn với 150 câu thơ, đầy cảm xúc và ý nghĩa. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1054, trong ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Từ bài thơ, Tố Hữu truyền đạt một cách chân thành tình yêu sâu đậm dành cho Việt Bắc, tình yêu với cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây là phần trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ 'Việt Bắc', thể hiện sự nhớ mong sâu sắc và trung thành với Việt Bắc:
'Ta về mình có nhớ ta,
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Hai câu đầu tiên là lời hỏi – đáp của 'ta', của một người lính chiến đấu với quá khứ, ta tự hỏi mình 'có nhớ ta'. Dù xa cách, lòng ta vẫn đậm chất với Việt Bắc: 'Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'. Từ 'ta', từ 'nhớ' lặp lại thể hiện lòng trung thành kiên định. Nỗi nhớ đó dành cho 'những hoa cùng người', dành cho thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:
'Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'.
Hai từ 'mình – ta' thường xuất hiện trong bài thơ, như trong hai dòng này đã thể hiện một cách đẹp tình yêu của đôi lứa hòa quyện trong tình yêu Việt Bắc, tạo nên một giọng thơ thiết tha như tiếng hát giao duyên ngọt ngào. Đó là dấu ấn trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ kế tiếp, mỗi cặp lục bát tả lại một kí ức riêng về một cảnh vật, một người cụ thể trong bốn mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông, nhớ màu xanh của rừng núi Việt Bắc, nhớ màu đỏ tươi của hoa chuối tỏa sáng như ngọn lửa trên đỉnh rừng. Nhớ người cày cấy ruộng 'dao gài thắt lưng' đầy sức mạnh trên đèo cao 'nắng ánh...'. Con dao của người cày cấy phản chiếu 'nắng ánh' rất quyến rũ:
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh gao gài thắt lưng'.
Màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, ánh nắng lung linh từ con dao; những màu sắc này hòa quyện với nhau, làm bùng cháy sức sống mãnh liệt của thiên nhiên và con người Việt Bắc, đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống trong kháng chiến. Tố Hữu đã nhận ra sức mạnh tinh thần của cộng đồng lao động ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người làm việc nơi đây vẫn mạnh mẽ trên 'đèo cao' ngập nắng và gió. Đoàn người lao động chiến đấu với 'bước chân nát đá muôn tàn lửa bay'. Chiến sĩ mang theo sức mạnh mới mẻ của thời đại mới:
'Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo'.
('Lên Tây Bắc')
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ 'nở trắng rừng'. Từ 'trắng' là một tính từ chỉ màu sắc đã được biến thành bổ ngữ 'nở trắng rừng', tạo ra một cảnh hoa mơ bao phủ khắp rừng Việt Bắc, toả sáng với màu trắng trong trẻo và rộn ràng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố Hữu gợi nhớ đến câu thơ của Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp xuân thơ mộng, tinh khôi trong 'Truyện Kiều':
'Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'.
Nhớ 'mơ nở trắng rừng', nhớ người thợ thủ công đan nón 'chuốt rừng sợi giang'. 'Chuốt' có nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Chỉ có sự khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể 'chuốt từng sợi giang' để tạo ra những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ cho cuộc chiến, để những người lính mang theo 'ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan'. Người đan nón được nhà thơ ví như biểu tượng cho vẻ đẹp tài hoa và tính sáng tạo của người dân Việt Bắc. Ngày xuân ở Việt Bắc thật đáng nhớ:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi 'hái măng một mình' giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
'Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình'.
Một chữ 'đổ' tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống 'đổ' xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ 'đổ' chuyển cảm giác tương tự: 'Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá...' (Thơ duyên – 1938). Câu thơ 'Nhớ cô em gái hái măng một mình' là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: 'Gái' vần với 'hái'. Có điệp âm qua các phụ âm 'm': 'măng – một – mình'. Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. 'Cô em gái hái măng một mình' vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần 'nuôi quân' phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
'Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trăng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong 'Việt Bắc' cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Thơ đích thực 'là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la' (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ 'nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp', để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 4
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến nguồn cội của cách mạng, là nhắc đến vùng đất trung du nghèo khó nhưng đầy ý nghĩa và tình cảm - nơi chứa đựng bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi, khiến lòng ta đầy xúc động khi nhớ lại. Và như thế, sợi nhớ, sợi thương cứ như thế mà vấn vương xoắn xuýt như tiếng gọi của đôi tình nhân yêu nhau. Đúng như những dòng thơ của Chế Lan Viên đã viết: 'Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta rời đi, đất bỗng chứa đựng tâm hồn'. Đúng vậy! Việt Bắc đã chứa đựng tâm hồn dày dặn của tình yêu thương trong thơ Tố Hữu, với những dòng thơ như những bản nhạc du dương, với hình ảnh của những người và những kỷ niệm ân tình không bao giờ phai nhạt.
'Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những bông hoa bên người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng vàng sáng bóng
Ngày xuân mơ màng hoa trắng rợp rừng
Nhớ người đan nón tay chuốt từng sợi rơm
Ve reo rừng phách rộng mênh mông
Nhớ cô em gái một mình hái măng
Rừng thu trăng sáng hòa bình
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung
Đoạn thơ mở đầu bằng hai câu giới thiệu nội dung tổng quát và cảm xúc chung của đoạn thơ:
'Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những bông hoa cùng người'
Bài thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi thú vị 'mình có nhớ ta', câu thơ thứ hai là câu trả lời, từ 'ta' được lặp lại bốn lần cùng với âm 'a' làm cho bài thơ toả ra âm hưởng ngân xa, sâu lắng và nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về những ngày tháng gian khổ 'bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng', mà còn nhớ về vẻ đẹp dịu dàng của Hoa và Con người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp tự nhiên của Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm lòng chân thành và áo chàm nghèo khó. Hoa và Người hoà quện với nhau trong một vẻ đẹp hài hòa và đằm thắm để tạo ra một cái gì đó riêng biệt và độc đáo cho vùng đất này. Điều này tạo ra một cấu trúc đặc biệt cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu thứ sáu dành cho việc nhớ về hoa, cảnh vật, câu thứ tám dành cho việc nhớ về con người. Cảnh vật và Con người trong mỗi câu thơ đều có những sắc thái riêng biệt và rất hấp dẫn.
Khi nhắc đến mùa đông, chúng ta thường nghĩ đến cái lạnh buốt xương, cái ẩm ương của những ngày mưa phùn gió bấc, cái u ám của bầu trời. Nhưng khi đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu, mùa đông lại trở nên ấm áp và lạ lùng:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh sáng dao gài thắt lưng'
Điểm nhấn trên nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu sắc đỏ tươi của hoa chuối đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa nhìn vào, bông hoa giống như những bó đuốc lấp lánh tạo nên một bức tranh với các đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Màu đỏ tươi - gam màu nóng của bông hoa chuối nổi bật giữa màu xanh rậm của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như đang tỏa ra một sức sống, xua đi cái lạnh lẽo và hiu quạnh của núi rừng. Câu thơ khiến ta nhớ đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương'
Từ những liên tưởng đó, ta nhận thấy rằng, mùa đông trong thơ của Tố Hữu không chỉ mang hơi ấm của mùa hè mà còn lan tỏa hơi ấm của mùa xuân, không lạnh buốt hoang sơ bởi sắc đỏ của hoa chuối như đang phun trào từ giữa màu xanh của rừng.
Cùng với sự lung linh của hoa chuối là hình ảnh của con người ở vùng chiến khu lên núi làm ruộng, sản xuất lúa khoai để cung cấp cho kháng chiến. Trước vẻ đẹp bao la của thiên nhiên, con người trở nên kỳ vĩ và hùng tráng hơn. Nhà thơ không chỉ mô tả vẻ ngoài mà còn tập trung vào chi tiết đặc biệt như ánh sáng mặt trời phản chiếu trên lưỡi dao rừng. Con người chiếm vị trí đẹp nhất - 'đèo cao', biểu tượng cho sức mạnh và sự tự do.
Đông qua, xuân lại tới. Mùa xuân mang lại sức sống mới cho cỏ cây, hoa lá sau mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Bắc cũng như vậy:
'Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang'
Màu trắng dịu dàng, trong trẻo của hoa mơ nở khắp rừng bao phủ cảnh vật mùa xuân. Màu trắng lấn át màu xanh của lá, làm sáng bừng cả khu rừng. Tố Hữu đã từng viết về màu trắng này từ năm 1941, khi Việt Bắc đón chờ Bác Hồ với sắc hoa mơ:
'Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Mùa xuân trắng rực biên giới với những bông hoa mơ nở
Bác Hồ trở về trong im lặng, nhưng con chim vẫn hót vang
Bờ lau thánh thót vui mừng ngẩn ngơ
Mùa xuân trở nên tươi tắn hơn với hình ảnh con người 'chuốt từng sợi giang'. Hình ảnh đẹp tự nhiên của con người trong các hoạt động hàng ngày. Việc 'chuốt' thể hiện bàn tay lao động của họ: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chỉ - đó cũng chính là phẩm chất của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến với âm thanh vang vọng của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết:
'Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình'
Khi ve kêu, rừng phách chợt trở nên vàng hoe. Động từ 'đổ' là biểu hiện sự phô diễn mạnh mẽ của hoa phách đầu hè. Màu vàng của cây phách khiến cho cả tiếng ve kêu rộn rã cũng trở nên lung linh hơn dưới ánh nắng mùa hè. Điều này tạo nên một bức tranh sống động với sự kết hợp của ánh sáng, màu sắc và âm thanh. Tố Hữu không chỉ miêu tả vẻ đẹp của từng mùa mà còn thể hiện sự biến đổi của thời gian và cảnh vật. Trong một câu thơ, ông đã thể hiện sự thay đổi rõ rệt của mùa hè và cây phách từ xanh tươi sang vàng rực rỡ. Điều này là biểu hiện rõ nét của bản sắc dân tộc.
Trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ và rộn rã, hình ảnh cô gái áo chàm đi hái búp măng để cung cấp cho bộ đội kháng chiến hiện lên: 'Nhớ cô em gái hái măng một mình'. Hình ảnh này không chỉ đơn giản là một hình ảnh cô đơn mà còn là biểu hiện của tình thương và sự quý trọng. Cô gái trở nên đẹp đẽ và gần gũi trong việc làm của mình. Đằng sau đó, là sự biểu hiện của niềm cảm thông và trân trọng từ tác giả.
Mùa thu đến, khung cảnh của núi rừng chiến khu như được tô điểm bởi ánh trăng xanh huyền ảo, tạo nên một không gian dịu mát và lãng mạn:
'Rừng thu dưới ánh trăng rọi, bình yên
Nhớ về ai, tiếng hát truyền tình thủy chung'
Không gian bao la được chiếu sáng bởi ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do và hòa bình, chiếu sáng niềm vui lên từng góc của Việt Bắc. Mùa thu đầy ánh trăng đã được Bác Hồ miêu tả trong thơ của ông khi còn ở chiến khu:
'Trăng đến gõ cửa, yêu cầu một bài thơ'
Quân đang bận, hãy đợi đến ngày mai
Chuông lầu đột ngột reo, thu đã tỉnh giấc
Tin vui thắng trận lan tỏa từ khu liên chiến
Không có tiếng chuông báo thắng trận, chỉ có tiếng hát vang lên trong trẻo của dân tộc, nhắc nhở về tình yêu và sự thủy chung. Đó chính là tiếng hát của Việt Bắc, của núi rừng và tình cảm lâu năm.
Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã hoàn thiện với tiếng hát thủy chung, khiến cho người đọc cảm nhận sâu sắc tình yêu đối với quê hương.
Với những nét chấm phá đơn giản, đoạn thơ của Tố Hữu đã làm nổi bật bức tranh cảnh và con người qua bốn mùa ở Việt Bắc. Cảnh vật và con người hoà quyện với nhau, tạo nên bức tranh sống động và gần gũi.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ 'Việt Bắc - mẫu 5'
Tố Hữu, một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca trong cuộc kháng chiến chống Pháp, tác phẩm của ông là vũ khí để động viên tinh thần yêu nước.
Bài thơ 'Việt Bắc' viết khi tác giả đóng quân ở vùng đất đó, thể hiện tình thân quân dân sâu sắc, lúc chia tay đầy xúc động.
Bài thơ thể hiện tình cảm thiêng liêng giữa quân và dân trong cuộc kháng chiến, với ngôn ngữ giản dị gần gũi.
Bài thơ sử dụng thể lục bát truyền thống, với sự linh hoạt và tinh tế trong ngôn ngữ, phản ánh vẻ đẹp của Việt Bắc.
Quay về, ta nhớ chính mình
Quay về, nhớ hoa và những người ấy
'Ta' và 'mình' thể hiện sự gắn bó giữa quân và dân, như người thân trong gia đình, như những người bạn tri kỷ.
Tác giả Tố Hữu đã khéo léo dẫn dắt người đọc khám phá những cảnh đẹp lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ nên một mùa đông ấm áp, tràn đầy tình yêu thương và niềm tin của những người dân hiền lành ở đây.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Thiên nhiên Việt Bắc mở ra vẻ đẹp trữ tình của núi rừng Tây Bắc, với hoa chuối đỏ tươi nở giữa mùa đông lạnh lẽo, tạo nên khung cảnh sinh động, ấm áp lòng người. Hình ảnh người con gái hái măng, lấy nấm bằng con dao sắc nhọn thể hiện sự sống động của cuộc sống hàng ngày.
Ánh nắng mùa đông làm không khí trở nên ấm áp hơn, không u ám như những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp và hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Trong hai dòng thơ này, tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi đến sắc hoa mơ trắng tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
Hoa mơ là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, vì loại hoa này thường chỉ nở vào mùa xuân, như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm quyến rũ, khiến lòng người ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, và làm nón lá khiến không khí mùa xuân gần gũi ấm áp hơn bao giờ hết.
Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp luôn kết hợp với những con người nơi đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, tác giả cũng nhớ về những con người và hoạt động của họ, thể hiện tình cảm sâu đậm với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.
Ve kêu rừng phách rơi vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Khi mùa hè sang, tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè sôi động, khác biệt hoàn toàn so với sự ấm áp của mùa đông và tinh khôi của mùa xuân. Khi mùa hè đến, rừng núi Việt Bắc rộn ràng tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve làm cho thiên nhiên nơi đây trở nên sống động. Tiếng ve phá vỡ sự yên bình, thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thời gian.
Bức tranh về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, với tiếng ve kêu rộn ràng. Trong mỗi bức tranh, tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khéo léo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.
Trong không gian rộng lớn của núi rừng Việt Bắc, tác giả đã khéo léo kết hợp thiên nhiên với hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc và gần gũi, nhưng được Tố Hữu mô tả một cách dịu dàng và thơ mộng.
Rừng thu ánh trăng chiếu tỏa hòa bình
Nhớ ai, tiếng hát đầy ân tình và trung thành
Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc tươi đẹp và thơ mộng, với ánh trăng sáng rọi, thể hiện sự trọn đầy và trung thành của những người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh để bảo vệ dân tộc và đất nước.
Tác giả Tố Hữu sâu sắc và tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã tài tình gợi lên hình ảnh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Phân tích về bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 6
“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ chấm dứt!”. Nỗi nhớ vượt qua thời gian và không gian, đọng sâu trong tâm hồn… Và nỗi nhớ ấy cứ khắc sâu, đầy xúc động trong trái tim những chiến sĩ cách mạng đã từng sống và chiến đấu với gian khổ ở Việt Bắc - nơi đã là mái nhà thân yêu, nơi đã nuôi dưỡng họ trong những ngày gian lao của kháng chiến…
Trở về, lòng ta vẫn nhớ về chính mình
Quay về, ta nhớ những bông hoa và những người bạn
Rừng xanh, hoa chuối rực đỏ
Trên những đèo cao, ánh nắng như gài thắt lưng
Mùa xuân, hoa nở trắng um tùm trong rừng
Nhớ về người phụ nữ đan nón, chuốt từng sợi giang
Tiếng ve vang vọng, rừng phách bên kia trải thảm vàng
Nhớ về cô em gái hái măng một mình
Rừng thu dưới ánh trăng tỏa sáng hòa bình
Nhớ về người, với tiếng hát đầy tình thương và trung thành
Trong cùng một đoạn thơ ngắn, từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ lan tỏa từ đầu đến cuối. Hai dòng đầu là lời gợi nhớ, “nhắc nhở”: ta có nhớ ta không? Riêng ta, ta luôn nhớ! Cách diễn đạt gợi cảm giác thân mật, tình cảm sâu lắng. Ta và mình, hai người nhưng lại là một, một người nhưng lại là hai. Người ra đi nhớ điều gì? Việt Bắc có gì để nhớ, để yêu thương? Câu thơ đã diễn tả rõ ràng?
“Trở về, ta nhớ những bông hoa bên người'
Núi rừng và phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiên nhiên đó, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất, mộc mạc nhưng cao quý vô cùng! Con người và thiên nhiên gắn kết với nhau, tạo nên phong cách đặc biệt của Việt Bắc.
Bốn mùa trong nước được thể hiện qua những câu thơ ngắn, súc tích, đặc trưng bằng các hình ảnh, chi tiết tinh tế. Mỗi mùa mang một vị đặc trưng riêng.
Mùa đông, rừng xanh biếc, nhấn nhá bởi những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng sáng lên bởi sắc trắng của hoa mơ. Hè sang, tiếng ve kêu và “rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được rọi sáng bởi ánh trăng bạc dịu. Đoạn thơ đong đầy những gam màu chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy tác động mạnh mẽ vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được thưởng thức một bức tranh sống động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách tự nhiên, hài hòa, làm tôn lên vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian trôi đi mạch lạc trong những dòng thơ. Nó bước đi một cách kiên định, chắc chắn, khiến ta không cảm nhận được sự chuyển đổi giữa các mùa. Thiên nhiên Việt Bắc được miêu tả theo dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, buổi trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng chiếu sáng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh vật đang thay đổi từng khoảnh khắc…
Và cảnh đẹp, đáng yêu ấy trở nên hoàn hảo hơn, ấm áp hơn, sống động hơn khi có hình ảnh của con người. Con người được gắn liền với thiên nhiên, như một bông hoa tinh khiết nhất, thơm ngát nhất. Mỗi câu thơ miêu tả cảnh vật đi kèm với một câu thơ tả người. Cảnh và người xen kẽ nhau một cách hài hòa. Đó là những người lao động, chăm chỉ, hăng hái với công việc. Người “gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát đầy tình cảm của ai đó vẫn vọng lên giữa bóng tối của rừng núi… Hình ảnh con người làm cho thiên nhiên trở nên rực rỡ hơn. Họ là nguồn sáng của thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên trở nên lung linh hơn. Họ là người gợi lại những nỗi nhớ sâu thẳm cho người ra đi. Đọc những câu thơ này, ta cảm nhận được vẻ đẹp bình dị và tinh khiết của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó, họ đối xử với nhau bằng tình cảm mặn nồng, chân thành, bằng sự trung thành “trước sau như một”. Họ đã nuôi dưỡng chiến sĩ, nuôi dưỡng cách mạng, nuôi dưỡng cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc dù bình dị nhưng thực sự anh hùng.
Bằng cách khơi gợi hình ảnh của thiên nhiên và con người ở đây, Tố Hữu đã truyền đạt một tình cảm sâu sắc, một tình yêu tha thiết và một nỗi nhớ đầy đau thương. Ta và mình đã từng như thế:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Chúng ta đã từng chia sẻ những khó khăn, những niềm vui như thế! Ta và mình làm sao có thể quên được nhau. Tình yêu thương ấy đã thấm vào tận tâm hồn kẻ ở lại, người ra đi. Vì vậy, khi ra đi, nỗi nhớ vẫn đọng sâu trong tâm trí, là tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Toàn bộ khổ thơ tràn ngập niềm lạc quan, sự sống động và lòng tin vào cuộc sống. Nó mang đậm hơi thở trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng yêu nước sâu sắc của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vẫn vọng lên giai điệu hòa mình, kích thích bao kỷ niệm. Những kỷ niệm ấy vẫn theo dấu bước người ra đi và ôm trọn bên lòng người ở lại…
Những câu thơ của Tố Hữu nâng cao mức độ trừu tượng so với toàn bài. Văn phong thơ giản dị nhưng trong trẻo thể hiện sự rung cảm chân thành trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã chạm đến tâm hồn của người đọc, như một bản hòa âm dịu dàng, gợi lại trong lòng những cảm xúc sâu lắng, dịu êm.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 7
Khi nhắc đến các nhà văn, nhà thơ cách mạng nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến, không thể không kể đến Tố Hữu với một giọng thơ đậm chất chiến đấu, đong đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Mặc dù vậy, trong những bài thơ đó vẫn hiện hữu những hình ảnh trữ tình sâu lắng, giàu hương vị thơ, mềm mại và rạng rỡ. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc là minh chứng rõ ràng nhất:
'Ta trở về, mình vẫn nhớ về chính mình
Ta trở về, ta nhớ những bông hoa kề bên người thân
Rừng xanh rợp hoa chuối rực rỡ
Lên đèo cao, ánh nắng như lưỡi gươm chói chang
Xuân về, hoa mơ khoe sắc trắng tinh khôi trong rừng
Nhớ người phụ nữ đan nón tỉ mỉ từng sợi rơm
Rừng vang tiếng ve, lá phách vàng rơi rụng
Nhớ cô em gái một mình hái măng trong rừng
Rừng thu, ánh trăng soi sáng góc tối, tạo nên bình yên
Nghe tiếng hát dịu dàng, trung thành vang lên từ ai đó
Bức tranh về Việt Bắc với bốn mùa và hơi thở của quê hương, chứa đựng nỗi nhớ sâu đậm của tác giả và lòng trung thành của những người con cống hiến cho đất nước.
'Ta về, lòng vẫn còn đó
Ta về, nhớ hoa nở đẹp sân nhà'
Hai câu thơ như là tiếng hỏi và câu kể của người rời đi, muốn biết lòng người ở lại và cũng là cách tác giả tự bộc lộ tình cảm. Hai từ 'ta về' mở đầu như muốn khắc sâu những nỗi niềm của người ra đi. Sự đẹp đẽ của câu thơ nằm ở hình ảnh 'hoa và con người', liệu rằng con người có thể là một phần của vườn hoa Việt Bắc? Hình ảnh đó tạo nên sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên, giữa hoa và con người khi hòa mình vào nhau hoặc khi cách xa để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Ngay sau đó là bức tranh về bốn mùa của Việt Bắc với màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
'Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Đèo cao, nắng vàng rực sáng lòng'
Mùa đông với màu xanh đậm, bao phủ cả núi rừng bao la nơi đây. Tác giả miêu tả mùa đông có lẽ vì người cách mạng đến với Việt Bắc cũng là vào mùa đông của vùng đất này và chính thời điểm ấy, sau mười lăm năm, người cách mạng cũng phải rời xa Việt Bắc - nơi đã là nguồn cơn của cách mạng Việt Nam.
Trong khung cảnh xanh mướt của rừng sâu, những bông hoa chuối đỏ tươi nổi bật, làm cho không gian núi rừng trở nên ấm áp và đặc biệt hơn bao giờ hết. Những bông hoa chuối ẩn trong sương mờ như những ngọn đèn hồng soi sáng con đường mà chúng ta đã từng gặp trong bài thơ Tây Tiến: 'Mường lát hoa về trong đêm hơi'. Màu sắc 'đỏ tươi' của hoa chuối như làm tan đi sự lạnh lẽo cô đơn của mùa đông nơi đây, như là nơi chứa đựng sức sống của trời đất. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong biểu đạt khiến cho mùa đông ở đây mang hơi thở của mùa hè ấm áp trong thơ của Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương'
Trong cảnh thiên nhiên đó, vẻ đẹp của con người Tây Bắc lộ ra với một cái gì đó rất độc đáo:
'Đèo cao, nắng ánh, dao gài thắt lưng'
Người dân Việt Bắc khi đi rừng thường mang theo một con dao gài ở thắt lưng để vượt qua các trở ngại và phòng thú dữ. Ở đây tác giả không mô tả vẻ ngoài hay thần thái mà tập trung vào ánh sáng phản chiếu trên lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho lưỡi dao phát ra ánh sáng, tạo nên hình ảnh đẹp đẽ không thể quên, như thể con người là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt ở trung tâm của 'đèo cao, nắng ánh', giữa vùng đất Tây Bắc hoang sơ, vượt qua không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.
Đông đã qua, xuân đã về. Mùa xuân ở Việt Bắc hiện lên với màu trắng của hoa mơ, làm rực sáng cả khu rừng:
'Trong ngày xuân, hoa mơ rộ lên trắng khắp rừng
Nhớ về những người phụ nữ đan nón, cẩn thận từng sợi rơm'
Mỗi khi nhắc đến mùa xuân, ta lại nghĩ đến thời tiết mát mẻ, khi cỏ cây, hoa lá tràn ngập sức sống, bắt đầu nảy mầm và xanh mướt. Ngày xuân ở Việt Bắc được Tổ Hữu miêu tả một cách đặc biệt: 'mơ nở trắng rừng'. Từ 'trắng' được sử dụng như một động từ, không chỉ là một màu sắc. Sự lan tỏa của màu trắng như làm cho mọi thứ xanh mướt của rừng trở nên nhạt nhòa, tạo ra một không gian trong lành, dịu dàng của hoa mơ, làm cho bức tranh trở nên tinh khiết và sâu lắng hơn.
Trong khung cảnh trắng xóa của hoa mơ, nổi bật hình ảnh của những người lao động làm việc cần cù, tinh tế: 'chuốt từng sợi giang'. Con người tỏa sáng tự nhiên trong công việc hàng ngày của họ. Động từ 'chuốt' kết hợp với trợ từ 'từng' thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ và tài năng của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc, vừa hào hùng vừa dịu dàng.
Khi mùa hè đến, tiếng ve ồn ào vang vọng khắp núi rừng:
'Tiếng ve kêu rộn rã trên đỉnh núi
Nhớ về cô em gái mình, hái măng một mình'
Âm thanh của tiếng ve làm cho lá phách rụng vàng. Ngay khi tiếng ve vang lên, không khí bỗng chuyển từ mùa xuân sang mùa hè. Câu thơ này gợi nhớ đến bài thơ 'Một tiếng chim kêu sáng cả rừng' của Khương Hữu Dụng. Chỉ một câu thơ đã diễn đạt sự thay đổi của thời gian, của cuộc sống. Trên nền vàng của rừng phách, hiện ra hình ảnh dễ thương là 'cô em gái hái măng một mình', biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ chịu khó. Câu thơ này chứa đựng sự cảm thông và kính trọng đối với người Việt Bắc, mà những ai đã từng đặt chân đến đây không thể quên được những tình cảm chân thành ấy.
Mùa thu ở Việt Bắc đến với ánh trăng lung linh làm cho cảnh núi rừng trở nên mơ màng, yên bình. Trong cõi trăng thu kỳ bí, tiếng hát ân tình của người Việt Bắc lại vang lên, làm ấm áp lòng người:
'Rừng thu trong ánh trăng bình yên
Nhớ về tiếng hát ân tình thủy chung của ai đó'
Ở đây không có sự chiến thắng, nhưng lại có tiếng hát nồng nàn của người Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc, đã gắn bó mười lăm năm. Tiếng hát 'ân tình' đó kết thúc bức tranh về thiên nhiên và con người, khiến cho người đi và người ở đều cảm thấy rung động về tình yêu dành cho Tổ quốc.
Nếu câu lục mô tả cảnh vật, thì câu bát tả người. Điều đẹp trong bài thơ là sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh ở đây tươi đẹp, thơ mộng, trữ tình, làm nền cho hình ảnh của những người Việt Bắc, chân thành, cần cù, giàu lòng yêu nước và trung thành.
Với những đường nét đơn giản, giản dị, bức tranh về mùa thu ở Việt Bắc được vẽ ra với sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về cuộc sống và thiên nhiên. Đoạn thơ này là một nét đặc trưng trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu, khi nhắc đến Việt Bắc, người ta không thể không nghĩ đến những tâm hồn giàu nghĩa tình, trung thành của người dân nơi đây.
Đánh giá bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 8
Tố Hữu là một nhà thơ đại diện cho văn hóa Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ theo chủ nghĩa cộng sản, một nhà thơ có tầm vóc, với sự liên kết sâu sắc với cách mạng. Tố Hữu cũng có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Vì thế, các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một di sản văn học phong phú, có giá trị với phong cách kết hợp giữa trữ tình và chính trị sâu sắc, đậm chất dân tộc. Một trong những tác phẩm đặc trưng của ông là bài thơ Việt Bắc. Có thể nói, tinh hoa của tác phẩm được tóm gọn trong mười câu thơ diễn tả sự nhớ nhung về quê hương và con người Việt Bắc, kết hợp với thiên nhiên thành một bức tranh tứ bình.
'Ta trở về, lòng không thôi nhớ về ta
Khi ta trở về, ta nhớ về những bông hoa cùng những người thân'
Rừng xanh với những bông hoa chuối đỏ rực rỡ
Ðèo cao nắng chói chang gắn liền với lưng thắt của người
Ngày xuân, hoa mơ khoe sắc trắng trên khắp rừng
Nhớ những người đan nón chuốt từng sợi giang
Tiếng ve kêu rộn rã rồi rừng phách rụng vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu dưới ánh trăng chiếu sáng hòa bình
Việt Bắc là chủ đề của bài thơ do Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thành công. Tố Hữu, một trong những người lãnh đạo đã gắn bó với Việt Bắc suốt nhiều năm, giờ đây phải từ biệt vùng đất chiến đấu để trở về kinh đô Hà Nội. Bài thơ dường như được viết trong cảm xúc chia tay đầy xúc động ấy. Và có lẽ điều đẹp nhất trong kỷ niệm về Việt Bắc là hình ảnh không thể phai nhòa về sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên núi rừng tươi đẹp.
'Ta trở về, lòng vẫn nhớ về chính mình
Khi ta trở về, ta nhớ về những bông hoa và những người thân'
Bắt đầu đoạn thơ là một câu hỏi nhẹ nhàng. Tuy nhiên, câu hỏi chỉ là phương tiện để thể hiện tâm trạng tương tư, nhấn mạnh sự nhớ nhung sâu sắc của người về Thủ đô. Hai câu đầu tiên là cuộc đối thoại giữa ta và những người chiến sĩ trở về quê hương. Ta tự hỏi liệu ta có nhớ về chính mình không. Người cách mạng trở về hỏi về Việt Bắc để thể hiện tâm trạng của mình, rằng dù ở nơi xa xôi, dù có cách xa nhưng trái tim ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ 'ta' và 'nhớ' lặp lại liên tục thể hiện lòng trung thành một cách sâu sắc. Sự nhớ nhung hướng về 'những bông hoa cùng người', hướng về thiên nhiên, núi rừng và con người Việt Bắc. 'Hoa' là biểu tượng của sự tinh tế, còn 'người' là biểu tượng của cuộc sống xã hội. Tóm lại, 'người chính là hoa của đất'. Hoa và người đặt cạnh nhau tôn lên vẻ đẹp của nhau, làm sáng bừng cả không gian núi rừng, Việt Bắc thêm phần lãng mạn.
Những câu thơ tiếp theo tái hiện một cách cụ thể, chân thực vẻ đẹp của bốn mùa trong chiến khu. Cảnh vật và con người hoà quyện vào nhau. Mỗi câu thơ miêu tả cảnh vật thì lại có một câu thơ miêu tả con người. Mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng biệt tạo nên một bức tranh tứ bình rực rỡ ánh sáng, màu sắc, âm thanh vui tươi, ấm áp.
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'
Bắt đầu bức tranh tứ bình là khung cảnh của mùa Đông. Chúng ta luôn tự hỏi tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông mà lại là mùa Đông trước. Có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm mùa đông nên khung cảnh mùa đông của Việt Bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa Đông trước.
Nhớ về mùa đông của Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu nhớ về những ngày mùa đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh rợp ngàn của núi rừng Việt Bắc. Nó như màu nền làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh 'hoa chuối đỏ tươi' - hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u ám, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Phía sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn chứa hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để làm nương rẫy. Một hình ảnh mạnh mẽ của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng 'ánh nắng' là một danh từ mà lại dùng 'nắng ánh' - một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm áp hơn
'Dưới ánh nắng xuân, rừng trắng bừng sáng
Nhớ đến những người phụ nữ đan nón từng sợi rơm'
Mùa xuân - hình ảnh của bông hoa 'mơ nở trắng rừng' là biểu tượng của mùa xuân tại Việt Bắc. Hoa nở trắng phủ kín cả khu rừng. Không phải màu trắng nhạt như mô tả trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du 'cành lê trắng điểm vài bông hoa'. Đó là màu trắng tinh khôi, trong trẻo, làm cho núi rừng Việt Bắc trở nên rạng ngời. Sau mùa xuân tinh khôi, nhẹ nhàng và thơ mộng đó, nhà thơ nhớ về những người phụ nữ đan nón. Hình ảnh 'người đan từng sợi rơm' đã thể hiện sự tỉ mỉ, khéo léo và tài năng của những người phụ nữ ở đây. Họ đã dùng sợi rơm để đan những chiếc nón. Đó không chỉ là vật phẩm để che nắng, che mưa mà còn là món quà ý nghĩa dành cho những người mà họ quý trọng.
'Tiếng ve râm ran, rừng phách chuyển sang màu vàng
Nhớ về cô em gái nhỏ hái măng một mình'
Khi tiếng ve vang lên, đó là dấu hiệu của mùa hè. Rừng phách chuyển sang màu vàng. Sự thay đổi này khiến cho lá cây từ màu xanh chuyển sang màu vàng khi tiếng ve vang lên. Cả không gian của Việt Bắc như được phủ lên lớp màu vàng rực rỡ. Trong thời gian này, hình ảnh của cô em gái nhỏ hái măng hiện ra. Điều này thể hiện sự cần mẫn, chăm chỉ, và siêng năng. Măng là loại thực phẩm quan trọng để nuôi sống các chiến sĩ cách mạng. Và hình ảnh của cô gái hái măng một mình thể hiện sự yên bình, thoải mái. Câu thơ này khiến ta liên tưởng đến câu ca dao:
'Trám bùi để rụng, măng mai để già'
Nếu mùa đông được biểu hiện bằng hoa mơ, mùa xuân bằng hoa chuối, mùa hè bằng hoa phách vàng. Thì mùa thu được thể hiện bằng hoa gì? Mùa thu không có hoa mà có người. Con người là loài hoa tuyệt vời nhất. 'Người ta là hoa của đất'.
Khác biệt với văn học thời Trung Đại, trong đó thiên nhiên được xem là tiêu chuẩn của cái đẹp, văn học hiện đại lại coi con người là tiêu chuẩn của cái đẹp. Điều này được rõ ràng thể hiện trong câu thơ miêu tả mùa thu của Tố Hữu.
'Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung'
Nếu câu thơ lục miêu tả ánh trăng thì câu thơ bát lại tập trung vào 'tiếng hát ân tình'. Cặp 'trăng - nhạc' đóng góp vào vẻ đẹp lãng mạn, lung linh. Quốc gia chúng ta lúc đó đang trong thời kỳ kháng chiến gay go nhưng trong những câu thơ của Tố Hữu, chúng ta chỉ cảm nhận được sự yên bình, hòa bình và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ này đầy tình cảm, kỷ niệm và sự nhớ nhung sâu sắc về cảnh và con người. Người ở đó nhớ về những người đi và người về nhớ về mình. Tình cảm ấy đầy đặn, tuyệt vời, truyền thống. Năm tháng trôi qua nhưng tình cảm thủy chung giữa Việt Bắc và người về vẫn luôn vững vàng, sâu sắc, vẹn nguyên trong lòng người.
Tóm lại, qua 10 câu thơ, Tố Hữu đã tạo ra sự hòa quện giữa miêu tả cảnh vật và miêu tả con người. Sự hòa quện này tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Thông qua đó, Tố Hữu đã thể hiện tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và tình cảm thủy chung với những con người hiền lành, chất phát ở đây. Tình yêu và tự hào của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Và trong mỗi cá nhân chúng ta, cần phải biết về các địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp kỳ diệu của nó. Quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công lao to lớn của những chiến sĩ đã hy sinh hết mình trong cuộc chiến để xây dựng nên một đất nước yên bình, xinh đẹp như ngày hôm nay.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 9
Tố Hữu được coi là 'đầu lá cờ' trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác phẩm ghi dấu thời gian. Thơ ông viết về chính trị không chỉ khô khan mà còn sâu sắc và truyền cảm. 'Việt Bắc' được viết ra trong cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này được xem như lời tâm tình của Tố Hữu với mảnh đất anh hùng này.
Toàn bộ bài thơ 'Việt Bắc' đều phản ánh tâm trạng, tình cảm sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân tham gia vào cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp. Trong bài thơ, đọc giả có thể tìm thấy những hình ảnh gần gũi, cuộc sống giản dị và những con người chân chất của Việt Bắc thông qua lời thơ của Tố Hữu.
Có thể nói rằng điểm sáng của bài thơ nằm ở bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về núi rừng Việt Bắc được thể hiện qua lời thơ dịu dàng, trầm bổng của Tố Hữu. Đọc giả sẽ bị hấp dẫn bởi không khí thơ mộng, yên bình của 'xứ Tiên' này.
Khổ thơ mở đầu bằng câu đối giữa 'ta' và 'mình':
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Tố Hữu đã truyền đạt tình cảm một cách tinh tế và kín đáo qua ngôn ngữ gần gũi, cách diễn đạt nhẹ nhàng. Câu hỏi 'người' thực sự là câu hỏi 'mình' và câu trả lời đã được ẩn chứa trong chính câu hỏi. Lời mở đầu sâu sắc này sẽ khơi gợi sự tò mò của đọc giả, khám phá những đặc điểm riêng biệt của núi rừng Việt Bắc qua từng mùa.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 10
Dẫn dắt người đọc khám phá cảnh tiên ở Việt Bắc, Tố Hữu đã tạo ra một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tình yêu:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Đọc mùa đông ở vùng cao Tây Bắc qua lời thơ của Tố Hữu, người đọc sẽ ngạc nhiên với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Mùa đông không buồn, không u ám nhưng lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là điểm nhấn, là ánh sáng làm rạng rỡ khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Điều này được xem là nghệ thuật sáng tạo của Tố Hữu giúp người đọc cảm thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu vào con đèo cao như một thanh kiếm bên người người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc hiểu được đời sống và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối kết hợp với màu vàng của nắng trên đèo cao đã tạo ra một bức tranh mùa đông rực rỡ, đầy hi vọng.
Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên trữ tình, thơ mộng như tiên cảnh:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu dàng, ấm áp. Màu trắng của mơ tạo ra một bức tranh thơ mộng trên nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây Bắc, chỉ cần vào độ xuân thì chúng ta sẽ thấy trên những con đường ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” rất gần gũi. Động từ “chuốt” được sử dụng khéo léo và tinh tế khi mô tả về hành động mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Chính sự sâu sắc và am hiểu làm cho Tố Hữu nhận ra điều này. Chữ “chuốt” như làm sống lại bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người.
Bức tranh mùa hè sôi động dưới bút của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve vang giữa “rừng phách” làm náo động cảnh đẹp bất diệt. Màu vàng của rừng phách báo hiệu mùa hè tràn đầy sức sống. Tiếng ve như giọt nắng chiếu sáng nơi này, khuấy động không gian yên bình. Từ “đổ” mạnh mẽ, diễn tả sự chuyển động mãnh liệt của mùa hè. Bức tranh mùa hè bừng sáng với màu vàng rực của rừng phách. Trong mỗi bức tranh thiên nhiên, con người hiện hình rõ ràng. Đây là sự tài tình của Tố Hữu khi liên kết thiên nhiên và con người. Trong vẻ đẹp bao la của núi rừng, bóng dáng “cô gái hái măng” rực rỡ như những tia nắng.
Và cuối cùng là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu về với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên ưu ái mùa thu với ánh trăng tròn đầy. Trăng nơi đây là biểu tượng của hòa bình, rọi sáng những năm tháng chiến tranh. Ánh trăng mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt Bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.
Với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, Tố Hữu gợi lên hình ảnh rõ nét của 4 mùa ở Việt Bắc, tràn đầy sức sống. Tài tình của tác giả thể hiện qua sự kết hợp tự nhiên giữa thiên nhiên và con người. Bức tranh tứ bình này sẽ làm cho người đọc hiểu và yêu thêm vẻ đẹp của đất nước này.
Phân tích vẻ đẹp tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 11
Tố Hữu là một trong những biểu tượng của thơ cách mạng Việt Nam. Thơ ông kết hợp giữa trữ tình và chính trị, đậm chất sử thi, lãng mạn và tinh thần dân tộc. 'Việt Bắc' là một trong những tác phẩm đại diện nhất của Tố Hữu, là một tác phẩm anh hùng và tình yêu về cách mạng, kháng chiến và con người. Bức tranh tứ bình trong bài thơ là biểu tượng cho sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Đoạn thơ mở đầu miêu tả bức tranh tứ bình bằng một câu hỏi tu từ, gợi lại ấn tượng sâu sắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Với câu hỏi tu từ và việc sử dụng từ 'ta', tác giả muốn nhấn mạnh nỗi nhớ và lòng trung thành của mình. Nỗi nhớ và lòng trung thành đó dành cho 'hoa cùng người'. Sự phân chia giữa 'hoa' và 'người' cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc, những người đã tham gia vào cuộc kháng chiến.
Mô tả khung cảnh đầu tiên của bức tranh tứ bình là cảnh mùa đông tươi đẹp ở núi rừng Tây Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ấn tượng về thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông được tạo nên bởi sự kết hợp tuyệt vời giữa màu xanh bạt ngàn và màu đỏ rực rỡ của hoa chuối rừng, tạo nên bức tranh sinh động và ấm áp.
Mô tả về mùa xuân ở Việt Bắc được thể hiện qua hình ảnh của hoa đào, hoa mận, mang lại cảm giác tươi mới, trẻ trung và thơ mộng.
Hình ảnh người lao động trong mùa xuân, với hành động chuốt từng sợi giang, thể hiện sự tỉ mỉ, cẩn trọng và tình yêu thương sâu sắc đối với đất nước.
Mùa hè ở Việt Bắc được tạo nên bởi âm thanh ve kêu và sắc vàng của rừng phách, thể hiện sự rộn ràng và yêu mến, đồng thời nhấn mạnh sự cô đơn, nhớ nhà của người lao động.
Thiên nhiên vào mùa hè được tạo nên bởi sự kết hợp giữa âm thanh ve kêu và màu sắc vàng của rừng phách, tạo ra một cảm giác sống động và yêu mến.
Hình ảnh người lao động trong mùa hè, với hành động hái măng một mình, thể hiện sự cô đơn, chăm chỉ và sự hy sinh cho đất nước.
Mùa thu ở Việt Bắc được tạo nên bởi hình ảnh của trăng rọi và tiếng hát ân tình, mang lại cảm giác bình yên và ấm áp.
Bức tranh cuối cùng trong bài thơ Việt Bắc là về mùa thu - mùa thu đầy bình yên:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Hình ảnh thiên nhiên hiện ra đẹp đẽ trong sự êm đềm, thơ mộng với ánh trăng tỏa sáng, chiếu rọi khắp núi rừng. 'Trăng rọi hòa bình' là biểu tượng của tương lai tươi sáng. Đây là hình ảnh được tạo ra bởi sự kết hợp giữa cảm hứng thiên nhiên và lịch sử. Trong không khí đó, con người không chỉ được nhìn nhận qua hình dạng mà còn qua âm thanh, với vẻ đẹp tâm hồn từ thời xa xưa của dân tộc Việt Nam: ân tình, thủy chung, lạc quan và niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Tóm lại, bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hiện lên đẹp đẽ, sinh động bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó, chúng ta thấy được tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn ngữ, chọn lựa hình ảnh và tâm hồn ân tình, thủy chung của ông dành cho quê hương cách mạng Việt Bắc.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc - mẫu 12
Như một bài hát của cảm xúc vang lên từ đáy lòng nghệ sĩ, thơ làm cho những điều tốt đẹp nhất trên thế gian trở thành bất tử. Thơ - biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp của con người, là nghệ thuật tinh tế trong tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự biểu hiện của những tình cảm mãnh liệt.
Chúng ta thường yêu thích một bài thơ vì chúng ta thích cách nghệ sĩ diễn đạt, và đôi khi chúng ta cảm thông với họ trong những khoảnh khắc tĩnh lặng sâu thẳm ở mỗi lời thơ, mỗi câu từ, vẻ điệu tài tình, ngôn ngữ sáng tạo hoặc thậm chí là sự sáng tạo của một thiên tài. Trong số những nhà thơ mà chúng ta ngưỡng mộ, Tố Hữu chính là một trong những người đó.
Tố Hữu là biểu tượng hàng đầu trong thơ ca cách mạng của Việt Nam. Tinh thần thơ của ông là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc sống cách mạng và nghệ thuật thơ. Thơ của ông mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu, người ta có thể nhận ra những dấu mốc quan trọng trong lịch sử đất nước. Nói về thơ của Tố Hữu, có người đã mô tả nó như một cuốn phim chậm ghi lại những trang sử vẻ vang của dân tộc.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954, thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc với chiến thắng. Đây là lúc các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy xúc động giữa các cán bộ và nhân dân Việt Bắc sau những năm tháng sống, chiến đấu và gắn bó với nhau qua mọi gian khổ.
Trong bài thơ này, tác giả sử dụng hình thức thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp với lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia ly đầy cảm xúc giữa các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Nhưng điều đẹp nhất trong ký ức về Việt Bắc là sự kết hợp đầy thú vị giữa cảnh vật và con người, là ấn tượng không thể phai nhạt về những người dân Việt Bắc lao động siêng năng, trung thành trong tình thương trong bức tranh tứ bình:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Nói về thơ, Chenier đã nói: Nghệ thuật chỉ làm ra những câu thơ, trái tim mới là nơi của thi sĩ. Một bài thơ có giá trị, đó là khi nó phản ánh và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ, khi nó được viết bằng những dòng thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ trái tim sâu thẳm của người viết. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi thơ lãng mạn phương Tây của Rimbaud, Verlaine… ảnh hưởng mạnh mẽ, Tố Hữu im lặng trở về với vần thơ lục bát của dân tộc. Điều này đã tạo ra một Tố Hữu thi sĩ riêng biệt, độc đáo, vừa chính trị vừa trữ tình.
Toàn bộ bài thơ “Việt Bắc” tràn đầy tình cảm, chứa đựng sâu lắng tâm tư của Tố Hữu dành cho những người lính và nhân dân tham gia kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn. Đọc giữa các dòng thơ lục bát mềm mại, trầm bổng của Tố Hữu, người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời thường, cũng như những con người thật chất của Việt Bắc. Điểm sáng của bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua ngôn từ dịu dàng, trầm ấm của Tố Hữu. Đọc giả sẽ bị cuốn hút vào khung cảnh thơ mộng của núi rừng này.
Phần mở đầu với hai câu thơ đầu tiên gợi lên cảm xúc chính của cả bài thơ. Đó là sự nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Bắt đầu với một câu hỏi tu từ bâng khuâng, chạm vào tâm trạng của cảnh vật và con người - “ta về mình có nhớ ta”. Đây là một câu hỏi ngọt ngào, mang hương vị của tình yêu. Câu hỏi không chỉ đơn thuần là để hỏi, mà còn để thể hiện cảm xúc, để rồi lại bùng cháy trong phút chia ly. Việc sử dụng đại từ nhân xưng “mình-ta” gợi lên nhiều cảm xúc. “Ta” là người đi, “mình” là người ở lại. “Ta-mình” đồng thời cũng gợi lên nhiều lời ngọt ngào của tình yêu: “Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hoặc “Mình về mình nhớ ta chăng - Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
Điểm đặc biệt của Tố Hữu là viết về lịch sử, về chính trị mà không bao giờ khô khan. Điều này là nhờ vào việc sáng tạo với hai đại từ nhân xưng “mình-ta” cũng như việc sử dụng thơ lục bát mềm mại trong lối viết đối đáp trữ tình. Câu chuyện về sự chia tay của nhân dân và cách mạng được lãng mạn hóa thành sự chia tay của “ta” và “mình”, tạm xa nhau vì lý do cách mạng. Lời thơ trở nên ngọt ngào, lãng mạn, chạm đến trái tim người đọc.
Câu thứ hai như một lời khẳng định: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Hai câu thơ đầy ắp “ta”, “mình”, “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp với âm “a” khiến cho nỗi nhớ trở nên vang vọng, mênh mông và sâu lắng hơn. Người đi mang theo nỗi nhớ về “những hoa cùng người”. “Hoa” là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc.
“Hoa” cũng là biểu tượng cho cảm xúc: Trong lòng người ra đi, ký ức còn lại là những kỷ niệm tươi đẹp nhất. “Người” là vẻ đẹp của con người lao động ở đây. Từ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo, gợi lên nỗi nhớ sâu sắc và da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng thời hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, và nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa trong khi câu bát nói đến người, tạo nên bức tranh lộng lẫy của tứ bình.
Như một khúc hát của tình cảm cất lên từ đáy lòng nghệ sĩ, thơ ca biến những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống trở nên bất tử. Thơ là cách thể hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn khao khát, là nghệ thuật trong tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự thể hiện của những tình cảm mãnh liệt. Khi ta tìm đến một bài thơ, có lúc là vì ta yêu cách thể hiện của người nghệ sĩ, và có lúc là vì ta đồng cảm với họ trong những khoảnh khắc lặng lẽ, đậm chất tình cảm. Vì “Thơ ca sinh ra từ trái tim, nở hoa từ ngôn từ”, “Việt Bắc” của Tố Hữu là một bức tranh tuyệt vời về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống lại thực dân Pháp.
Bài thơ đi sâu vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, miêu tả sâu sắc nỗi niềm của những người con dời “thủ đô kháng chiến”, lòng đầy kỷ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng của người ở và người đi, hình ảnh của núi rừng và con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với những hình ảnh đơn giản mà cảm động. Ngày nay, những câu thơ vẫn làm rung động lòng người với sắc màu, âm thanh tươi rói của núi rừng chiến khu, và tình người lan tỏa.
Phần mở đầu với bức tranh mùa đông đong đầy sức sống. Vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hòa quyện vào vẻ đẹp của con người Việt Bắc trong lao động và sản xuất. Trong đoạn thơ, mỗi câu lục tả cảnh là một câu bát tả người, thiên nhiên và con người đã hòa nhập, tạo nên bức tranh thơ rực rỡ. Tố Hữu đã thành công trong việc tái hiện không gian vô tận của thi ca gói trọn bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Mỗi bức tranh gồm hai mảng: Một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người, và sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Khi nhắc đến mùa đông, ta thường nghĩ đến cái lạnh buốt xương, cái âm u tĩnh lặng của những ngày mưa phùn gió bấc, và cái buồn của không khí ảm đạm. Núi rừng Việt Bắc mang một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già - màu xanh ngắn ngủi đầy sức sống. Bức tranh núi rừng ở đây được điểm xuyết bằng màu hoa chuối đỏ tươi nở rộ dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa nhìn, bông hoa như những bó đuốc rực sáng, tạo ra một bức tranh với đường nét và màu sắc đối lập, hài hòa, cổ điển và hiện đại. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi bật giữa màu xanh bao la của rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và đầy sức sống, xua đi cái lạnh lẽo hiu quạnh của núi rừng.
Câu thơ này gợi lên hình ảnh của hoa lựu đỏ trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng đó, ta thấy rằng mùa đông trong thơ Tố Hữu không lạnh lẽo mà ấm áp như mùa hè, vì màu đỏ của hoa chuối như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Bên cạnh vẻ đẹp của hoa là nét rạng ngời của con người. “Ánh nắng chói chang trên lưỡi dao găm vào thắt lưng” là biểu tượng của người dân vùng núi. Không phải tình cờ mà họ chọn con dao làm biểu tượng, con người miền núi mang trong mình nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Họ nổi bật giữa không gian đèo cao, trở nên sáng chói dưới ánh nắng mùa đông, tỏa sáng với vẻ kiêu hãnh và uy nghi của núi rừng. Hình ảnh “dao găm vào thắt lưng” thể hiện sự vững chãi, tự tin, và khả năng thống trị núi rừng của con người Việt Bắc - họ đang nỗ lực để sản xuất thêm nhiều lúa gạo hơn cho cuộc kháng chiến.
Trước vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên, con người dường như trở nên hùng vĩ và kỳ diệu hơn. Ở đây, không gian đèo cao trở thành nơi con người tỏa sáng dưới ánh mặt trời, tạo nên một tình thần rất đặc biệt. Họ chiếm lĩnh đỉnh cao, làm chủ núi rừng, tự do 'Núi rừng này là của chúng ta/Trời xanh này là của chúng ta'. Điều này thể hiện sự kiêu hãnh và sức mạnh giữa không gian rộng lớn của trời đất. Con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Với Tố Hữu, thơ là vũ khí của cuộc chiến cách mạng. Thơ chính trị của ông không chỉ đơn giản là một biểu tượng cảm xúc mà còn là sự kết hợp giữa biến cố lịch sử và lòng yêu nước. Sự kết hợp này đã đi sâu vào lòng người qua từng dòng chữ, từng cảm xúc trong suốt 15 năm hoạt động cách mạng.
Thơ sinh ra từ tình yêu và căm hận, từ nụ cười trong sáng và những giọt nước mắt cay đắng. Thơ là cây đàn mang đến những giai điệu đặc biệt của con người, biểu hiện cho những cảm xúc tinh khiết nhất. Bài thơ là sự kết hợp giữa tình cảm và tài năng của thi sĩ. Để chạm đến trái tim của độc giả, mỗi tác phẩm không chỉ đơn giản là tình cảm và nỗi buồn của tác giả.
Bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc đã khiến người đọc bị lôi cuốn. Họ bắt đầu đắm chìm trong bức tranh xuân sôi động, đầy sức sống của thiên nhiên mùa xuân ở Việt Bắc.
Mùa xuân nở rộ trắng muốt trên khắp rừng
Nhớ những người phụ nữ đan nón mỗi sợi tơ
Cùng với sự thay đổi mùa là sự thay đổi màu sắc trong bức tranh. Mùa xuân đến, mùa đông đi qua. Khi nghĩ đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến sức sống mới của cây cỏ, hoa lá, và hàng trăm loài thức dậy sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Bắc mang theo màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng. Màu trắng làm sáng tỏ mọi ngóc ngách của khu rừng, tạo ra không gian ấm áp và tươi mới với sắc trắng mong manh, dịu mát của hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn ngập mọi ngóc ngách của tự nhiên.
Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc đã chào đón Bác Hồ trong sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay đã đến
Hoa mơ nở trắng trên biên giới
Bác về, im lặng, con chim hót
Bờ lau thảnh thơi, vui mừng ngẩn ngơ.
(“Đi theo Bác”)
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ trắng rực, vườn cam vàng óng ánh
(“Vang danh chiến sĩ Điện Biên”)
Không gian mùa xuân rực rỡ với sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh trắng hoa mơ, hình ảnh “người đan nón” nổi bật. Nỗi nhớ cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Đối với Tố Hữu, mỗi sợi giang đều gợi lên một sợi nhớ. Nỗi nhớ kéo dài suốt bốn mùa trong năm. Mỗi sợi nhớ là một âm thanh, là một dấu ấn trong trái tim của họ. Trong tả cảnh, không có tiếng reo hò của núi rừng, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ vào sự chăm chỉ của con người.
Trong âm nhạc vang vọng, mùa xuân trở nên tươi tắn hơn bởi hình ảnh con người 'chuốt từng sợi giang'. Họ đẹp tự nhiên trong những công việc hàng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ, ta nhận thấy bàn tay của con người lao động: Cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài năng, nhanh nhẹn, chăm chỉ - đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Bao nhiêu tình cảm, hy vọng, sự mong chờ được gửi vào sợi nhớ, sợi thương, tạo nên những chiếc nón nghĩa tình đầy ý nghĩa gửi đến cán bộ, dân công trên mặt trận.
Hai câu thơ về mùa xuân đánh thức những cảm xúc thẩm mỹ tuyệt vời, nhấn nhá những kỷ niệm dịu dàng, kêu gọi những người lãnh đạo suy tư. Một người đã nói: “Thơ hay phải mang dư vị văn chương”. Trong những năm sống trong cảnh bao cấp, thiếu thốn, nhiều người khi đọc Việt Bắc vẫn chưa cảm nhận được “dư vị” của nó.
Khi xưa, có lẽ Beethoven đã sáng tác nhạc bằng những cảm xúc tinh tế, mạnh mẽ nhất khi nhìn thấy cuộc sống của một gia đình mù. Tố Hữu cũng đã nói: “Thơ là sự đồng điệu, tiếng nói đồng lòng, đồng chí”. Phải chăng kỷ niệm, niềm gắn bó sâu sắc suốt 15 năm kháng chiến đã trở thành lời thơ rưng rưng trong Việt Bắc.
Sau vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc ở mùa xuân là bức tranh mùa hạ Việt Bắc lung linh vàng óng như một tấm tranh sơn mài đậm đà cổ điển nhưng vẫn mang đậm vẻ hiện đại:
Ve râm rầm, rừng phách chuyển màu
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ đầu tiên tạo ra hình ảnh rực rỡ của mùa hè với hai điểm nhấn: Tiếng ve và sắc vàng của rừng phách. Tiếng ve là biểu tượng của mùa hạ; và rừng phách chuyển màu là biểu tượng của mùa hè ở Việt Bắc. Từ “đổ” được sử dụng một cách chính xác và tinh tế. Nó đồng thời mô tả hai hoạt động cùng một lúc: Âm thanh và màu sắc. Khi tiếng ve đổ xuống, cảnh rừng phách cũng chuyển sang màu vàng.
Tiếng ve lan tỏa khắp nơi, sắc vàng bừng sáng khắp nơi. Ý thơ nhắc đến câu thơ của Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là cách sử dụng âm thanh để gợi lên màu sắc, sử dụng không gian để diễn tả thời gian. Bức tranh mô tả vẻ đẹp của mùa hè trở nên tươi tắn, lãng mạn, mát mẻ mà không quá chói lọi như trong thơ cổ điển. Từ “đổ” được Tố Hữu sử dụng một cách tinh tế để diễn tả sự biến đổi nhanh chóng của màu sắc.
Cũng giống như trong câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.
Trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ vàng óng, hình ảnh cô gái áo chàm cẩn thận đi hái búp măng rừng hiện ra: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai từ “một mình” đầy ý nghĩa, vừa nhấn mạnh vào nỗ lực và sự siêng năng của người lao động, vừa gợi nhớ câu ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình-em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Thơ ẩn chứa tình cảm, sự quý trọng mà nhà thơ dành cho người em gái.
Trong thơ ca cách mạng, việc sử dụng lối đối đáp “mình-ta” trở nên ngọt ngào, trữ tình là một thành công lớn trong sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu. Đúng như lời của Xuân Diệu: Tố Hữu đã biến thơ chính trị thành thơ đầy trữ tình, và vì vậy, ông xứng đáng là thi sĩ của nhân dân, là “Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”.
Người làm bánh tạo ra chiếc bánh thạch với tình yêu dành cho món bánh quê hương, họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu với trái tim đắm chìm trong thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng rung động của mình để viết về sự chia tay, những kỷ niệm của những năm kháng chiến vĩ đại với người dân Việt Bắc. Đó là cốt lõi của sức mạnh thơ Tố Hữu, nói với trái tim, nói với chính bản thân.
Kết thúc bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay, để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình trung thành
Mùa thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian rộng lớn bị tràn ngập bởi ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình chiếu sáng niềm vui lên rừng núi, từng làng xóm Việt Bắc. Chúng ta cũng đã nghe về mùa thu trăng rằm trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Quân đang bận xin chờ ngày mai
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Tin chiến thắng liên khu sẽ đến.
Đêm về, núi rừng Việt Bắc tựa bức tranh hoàn hảo. Ánh trăng len lỏi nhẹ nhàng trong cảnh sắc xanh ngút ngàn. Huyền ảo và thơ mộng, khu rừng dưới ánh trăng gợi lên nỗi nhớ với tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không tiếng chuông báo thắng trận, chỉ tiếng hát vang vọng. Đó là tiếng hát trong trẻo của dân tộc, nhắc nhở về thủy chung và tình cảm. Tiếng hát của Việt Bắc, gắn bó mười lăm năm, hoàn thiện bức tranh đẹp của núi rừng.
Đoạn thơ của Tố Hữu với nét đơn giản nhưng cổ điển và hiện đại, tái hiện bức tranh mùa thu Việt Bắc qua các mùa. Hòa hợp với thiên nhiên và con người, tạo nên bức tranh sống động, gần gũi. Nỗi nhớ trong lòng người cán bộ trở thành những rung động sâu sắc.
Bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu là biểu tượng của thơ trữ tình chính trị. Lãng mạn hóa câu chuyện lịch sử và chính trị thành mối tình đầy cảm xúc. Bằng thể thơ lục bát, bài thơ mang tính dân tộc sâu sắc và tình cảm ngọt ngào, thấm đẫm.
'Việt Bắc' là khúc ca của những người cách mạng, của toàn dân tộc. Tình cảm chung và cá nhân hòa quyện vào nhau. Qua nỗi nhớ về Việt Bắc, tác giả thể hiện lòng biết ơn và thủy chung sâu sắc với quê hương và nhân dân.
Nghĩ đến Việt Bắc là nghĩ đến nguồn cội của cách mạng, của những kỉ niệm sâu đậm. Mảnh đất nghèo khó đã chứa đựng bao nhiêu nỗi đau và hào hùng. Việt Bắc đã trở thành tâm hồn của thơ Tố Hữu, với những lời thơ như những giai điệu ngân nga, kỷ niệm ân tình không bao giờ phai mờ.
Thời gian có thể trôi đi, nhưng thơ văn và nghệ thuật sẽ sống mãi. Những vần thơ của Tố Hữu sẽ luôn tồn tại, là di sản văn hóa vĩnh cửu.