Bài viết về một trận chiến đẫm máu mà bạn đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh hay nhất, cung cấp dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu tuyển chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9, giúp bạn hiểu và viết văn hay hơn.
Top 40 Trận chiến đẫm máu (hấp dẫn, ngắn gọn)
Kể lại một trận chiến đẫm máu mà bạn đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh – mẫu 1
Trong lịch sử quân sự Hoàng Mai, có những trận đánh khốc liệt được ghi lại, trong đó có tên của Đỗ Lương Bằng và thế trận chiến tranh nhân dân. Trung tá Trần Quốc Mỹ kể lại một trong những trận đánh tại trận địa pháo năm xưa, khiến chúng tôi không quên.
…Lúc 13 giờ 15 phút, ngày 3/2/1966, một đội máy bay trinh sát A3J và F4H từ biển bay vào Khe nước Lạnh trinh sát khu vực Hoàng Mai. 2 đơn vị cao xạ pháo C214, D14, F34, cùng với lực lượng chiến đấu kịp thời bắn trúng chiếc máy bay A3J. Chiếc máy bay bốc cháy và rơi làm 3 mảnh. Hai phi công nhảy dù xuống cách bờ biển khoảng 2.000m. Dân làng cùng với lực lượng chủ lực ra khơi bắt giặc lái, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.
Trong khi chúng ta tiến gần mục tiêu để bắt 2 tên giặc lái, địch đã tổ chức đội hình ứng cứu, huy động các máy bay chiến đấu và tàu chiến sẵn sàng giải thoát cho phi công Mỹ. Dù bị bao vây, các chiến sĩ không nao núng, vẫn bám sát mục tiêu và bắt giặc lái. Cuối cùng, 2 tên giặc lái Mỹ đã bị bắt.
Ghi nhận thành tích của lính cao xạ và toàn thể dân quân tại Quỳnh Lưu vào ngày 3/2/1966, Đỗ Lương Bằng viết trong nhật kí: “Nhân kỷ niệm 36 năm ngày thành lập Đảng, đơn vị đã khích lệ mọi người thi đua lập kỷ lục, đặc biệt trong chiến trường. Tinh thần thi đua sôi nổi trong toàn đội. Sau giờ nghỉ trưa, máy bay phản lực A3J xuất hiện hướng 14. Khoảnh khắc đó là 13 giờ 5 phút, đơn vị nổ súng và chiếc máy bay Mỹ bốc cháy thành ba mảnh, rơi xuống đất giữa tiếng reo hò vang vọng của dân làng... Chúng tôi vô cùng phấn khích. Tiếng reo hò vang vọng khắp nơi. Sau hơn hai tháng, hôm nay chúng tôi đã nổ súng, và ngay từ đầu tiên đã ghi điểm.”
Dàn ý Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
I. Khởi đầu:
– Lịch sử dân tộc ghi nhận nhiều trận chiến đấu cam go, gan dạ để bảo vệ lãnh thổ, tự do; ấn tượng nhất về một cuộc chiến.
II. Thân bài
– Bối cảnh tiếp xúc với câu chuyện.
– Tóm tắt về trận chiến.
– Trung tâm của cuộc chiến (phần quan trọng nhất)
+ Sử dụng nhiều đoạn văn để tường thuật các giai đoạn của cuộc chiến (phòng thủ – cầm cự - tấn công – chiến thắng).
+ Phải thể hiện rõ sự cam go, ác liệt của cuộc chiến từ đầu đến cuối.
+ Những nhân vật xuất hiện trong câu chuyện có vai trò quyết định (người chỉ huy tài giỏi hoặc lính dũng cảm, anh hùng,…).
+ Kết hợp miêu tả – biểu cảm khi kể (mô tả nét mặt cử chỉ, tác phong, tâm trạng,… của nhân vật; thể hiện cảm xúc một cách trực tiếp hoặc gián tiếp).
+ Tận dụng miêu tả cảnh thiên nhiên phù hợp với câu chuyện.
+ Suy nghĩ của người kể chuyện (tôn trọng, trân trọng thành tựu; quyết tâm học tập để theo đuổi công lao cha ông xây dựng tổ quốc).
III. Phần kết:
– Tự hào về lịch sử rực rỡ của quê hương.
– Nhận định tổng quan về vấn đề.
Sơ đồ tư duy Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh – mẫu 2
Gia tộc Tây Sơn bao gồm ba anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Mỗi người đều cai trị một vùng lãnh thổ. Nguyễn Huệ, hay còn được gọi là Bắc Bình Vương, nổi lên trong thời kỳ rối ren của lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XVII. Trong bối cảnh xã hội đầy biến động, Lê Chiêu Thống, vua nhà Lê, lo sợ về ngai vàng của mình và đã mở cửa đón quân Thanh và Tôn Sĩ Nghị xâm lược Thăng Long. Trong khi đó, Nguyễn Huệ nhận được tin tức về cuộc xâm lược và quyết định đánh trận với quân Thanh.
Nguyễn Huệ triệu họp các tướng lĩnh, quyết định tự mình dẫn quân ra trận. Tuy nhiên, mọi người khuyên ông nên trước tiên tăng thân hiệu vị để lan tỏa lòng nhân từ khắp nơi, giữ vững sự bình yên và sau đó mới cất quân ra trận. Nguyễn Huệ chấp nhận và đến núi Bân để cầu nguyện, kêu gọi sự bảo trợ từ trời đất cũng như các thần linh. Trong buổi lễ, ông mặc chiếc áo long bào được thêu hình rồng, đội mũ miện và đeo chuỗi hạt từ ngọc. Ông lên mạnh mẽ và trang nghiêm khi thực hiện nghi lễ tế lễ. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Thái Đức, thay thế niên hiệu Quang Trung của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc.
Sau khi kết thúc lễ, vua Quang Trung ra lệnh xuất quân. Hôm đó là ngày 25 tháng Chạp năm 1788. Vua đã tự mình kêu gọi quân lính cả trên biển lẫn trên đất liền. Khi đến Nghệ An vào ngày 29, vua hỏi Nguyễn Thiếp về chiến lược, và Nguyễn Thiếp dự đoán rằng quân Thanh sẽ bị đánh bại trong vòng không quá 10 ngày. Vua rất mừng và tiến hành tuyển chọn quân lính tại Nghệ An. Sau một thời gian ngắn, đội quân đã sẵn sàng chiến đấu. Vua tổ chức một cuộc duyệt binh lớn và khẳng định ý chí quyết thắng.
Khi đến núi Tam Điệp, cả Sở và Lân đều ra đón và xin chịu trách nhiệm về lỗi lầm của mình. Vua phân tích công và tội của họ và cho họ cơ hội để cải thiện. Vua nói rằng, với phương lược hiện tại, chỉ cần mười ngày là quân Thanh sẽ bị tiêu diệt. Nhưng nếu để chúng trốn thoát, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Sở và Lân đều biểu dương lòng biết ơn trước sự am hiểu của vua và tổ chức một bữa tiệc để chia tay trước khi ra trận.
Vào nửa đêm ngày mùng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu 1789, vua tới đồn ở làng Hà Hồi huyện Thượng Phúc và triệu tập quân lính bằng kế nghi binh bắc. Tiếng kêu gọi đã làm rung chuyển cả vùng trời, khiến mọi người trong đồn hoảng sợ. Vua lấy hết lương thực và sắp xếp quân lính chuẩn bị cho cuộc tấn công vào đồn Ngọc Hồi.
Tiếp theo, vua Quang Trung yêu cầu lấy ván và rơm để che phủ và chuẩn bị vũ khí cho cuộc tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh đã cố gắng phòng thủ nhưng không thể chống lại sức mạnh của quân Tây Sơn. Cuộc tấn công đã kết thúc với chiến thắng lớn của quân Tây Sơn.
Trước đó, vua Quang Trung đã gửi một toán quân ở phía Đông để làm nghi binh và tạo ra một cuộc đột kích vào lãnh thổ của quân Thanh. Khi quân Thanh thấy nguy hiểm, họ đã bỏ chạy và quân Tây Sơn đã chiến thắng một cách dễ dàng. Vua Quang Trung đã tiến vào Thăng Long và bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công kế tiếp.
Vào ngày mùng 4, quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi đã chạy về và cấp báo. Tôn Sĩ Nghị đã hoảng loạn và cố gắng trốn thoát nhưng không thành công. Quân lính Thanh đã bị đánh bại và quân Tây Sơn đã giành chiến thắng.
Thành tựu vang dội trong cuộc chiến đại phá quân Thanh đã minh chứng cho sức mạnh độc lập và chủ quyền của đất nước. Hàng năm, lễ hội Đống Đa vẫn được tổ chức để tưởng nhớ công lao của tổ tiên và nhấn mạnh chiến thắng lịch sử của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh.
Hãy nhớ lại một trận đấu ác liệt mà bạn đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh - mẫu số 3
'Xuyên dọc Trường Sơn đi giải phóng nước'
'Với tâm hồn phấn chấn, hướng tới tương lai'
Những dòng thơ đầy hào khí và tinh thần quyết chiến của những người lính trẻ tuổi trong cuộc chiến chống quân Mỹ ác liệt. Họ đã hy sinh tất cả để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong dịp 30/4 gần đây, tôi đã có cơ hội xem bộ phim tài liệu về cuộc Tổng tiến công - Tổng nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Mỹ.
Sau hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, tình hình quân sự ở miền Nam đã thay đổi. Đồng thời, tại Mỹ, cuộc bầu cử tổng thống (1968) đang diễn ra, tạo ra những mâu thuẫn nội bộ. Chúng tôi quyết định tiến hành một cuộc tiến công và nổi dậy trên quy mô toàn miền Nam để buộc Mỹ phải rút quân.
Dưới mưa bom đạn và khói súng, các chiến sĩ dũng cảm của đất nước hình chữ S lao vào mặt trận. Dù bị đối diện với nguy hiểm và cái chết, họ vẫn kiên định và không chùn bước. Trải qua bao khó khăn, họ vẫn không từ bỏ hy vọng và sẵn sàng chiến đấu để giành chiến thắng. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã làm đảo lộn ý định xâm lược của Mỹ và buộc họ phải ngồi vào bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh ở Việt Nam.
Chứng kiến những thời khắc lịch sử hùng vĩ của dân tộc và sự oai hùng của thế hệ trẻ, cha ông trong quá khứ, tôi cảm thấy mình nhỏ bé biết bao. Họ đã hy sinh tất cả, chỉ để bảo vệ những gì họ yêu quý. Và cuộc tổng tiến công và nổi dậy trong Tết Mậu Thân 1968 là sự tuyên bố rõ ràng của nhân dân Việt Nam trước kẻ thù xâm lược. Giống như bài thơ mạnh mẽ mà Lý Thường Kiệt đã đọc bên bờ sông Như Nguyệt:
'Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ, lai xâm phạm
Như đẳng hành khan thủ bại hư'
Hãy kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà bạn đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu số 4
Sinh ra trong bình yên, chưa từng trải qua khó khăn, tôi chưa hiểu được hết nỗi đau mất mát của dân tộc. Cho đến khi những người cũ quay trở lại thăm ông nội tôi, tôi mới cảm nhận được nhiều điều khi nghe họ kể lại những kỷ niệm xưa, trong đó có trận Điện Biên Phủ đầy cam go.
Đó là trận đánh đầu tiên mà quân đội ta có sự tham gia của pháo binh, điều đó càng tăng thêm niềm tin, ý chí và hy vọng cho nhân dân. Tuy nhiên, thời điểm đó kẻ thù của chúng ta là thực dân Pháp, một trong những cường quốc hàng đầu của thế kỷ XX. Quân đội Pháp chiếm Điện Biên Phủ với ba trăm tiểu đội và vũ khí hiện đại nhất. Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã hạ lệnh thay đổi chiến lược, không thể 'đánh nhanh thắng nhanh' như ban đầu mà phải 'đánh chắc thắng chắc'. Nếu không có sự thay đổi đó, chúng ta có thể không thể trở về, và nhiều chiến sĩ khác cũng không thể tiếp tục tham gia kháng chiến.
Chuyển đổi sang 'đánh chắc thắng chắc', chúng ta có hơn một tháng để chuẩn bị và vận chuyển pháo binh lên trận địa. Mỗi khẩu pháo có trọng lượng hơn hai tấn và phải được tháo rời từng phần, sau đó chúng được trôi dạt theo sông Hồng và lắp ráp lại tại cứ điểm. Đoạn đường đầy gian khó từ trung tuyến vào trận địa là một thách thức, nhưng với sự đoàn kết và nỗ lực phi thường, pháo binh của chúng ta đã vượt qua được. Quân địch bị bất ngờ khi pháo binh của chúng ta xuất hiện trên những đỉnh núi cao.
Cứ điểm Him Lam bị tiêu diệt hoàn toàn trong một đêm. Sự bất ngờ này không còn là yếu tố quan trọng với địch khi chúng ta tiến công đồi Độc Lập vào đêm hôm sau. Trong trận chiến, đồng đội của tôi đã gặp nhiều khó khăn và hy sinh. Mỗi trận chơi chơi xổ sốu là một lời gọi tinh thần cho đồng đội, khiến họ chiến đấu dũng cảm và kiên cường hơn.
Nghe những câu chuyện về trận Điện Biên Phủ, tôi mới hiểu được sự đau đớn của dân tộc và tại sao việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần lại là một cú sốc lớn. Tôi tự hào khi là cháu của một người lính thanh niên xung phong, một người lính bộ đội Cụ Hồ. Hình ảnh những người lính năm xưa xếp hàng dâng hương lên Đại tướng sẽ mãi in trong trí não tôi.
Hãy kể lại một trận chiến ác liệt mà bạn đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh - mẫu số 5
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc ta đã chiến đấu dũng cảm chống lại nhiều thế lực ngoại xâm. Trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận đánh vĩ đại nhất của dân tộc.
Cuối năm 938, quân Nam Hán xâm lược nước ta lần hai, lựa chọn con đường biển để tấn công. Ngô Quyền tận dụng thời cơ và địa thế của sông Bạch Đằng để bày binh bố trận, sử dụng cọc gỗ ngầm và thuỷ triều như một chiến thuật để hạ gục quân địch. Khi địch vào cửa sông, quân ta đánh nhử, khiến quân Nam Hán sa vào bãi cọc ngầm và bị đánh quật. Chiến thắng này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử bảo vệ tổ quốc.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng như một dấu mốc vang dội trong lịch sử bảo vệ đất nước. Hy vọng một ngày được đến thăm trận địa cọc ngầm để chiêm ngưỡng những dấu tích hào hùng của dân tộc.
Kể lại một trận chiến đấu gay gắt mà tôi đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 6
Tôi đã nghe rất nhiều câu chuyện về lịch sử nước nhà và những anh hùng. Một trong số đó là cuộc khởi nghĩa của Lý Bí vào mùa xuân năm 542.
Lý Bí, người gốc Trung Quốc, đã dẫn dắt cuộc khởi nghĩa chống lại bọn đô hộ phương Bắc. Với sự hỗ trợ của hào kiệt địa phương, Lý Bí đã giành lại chủ quyền từ nhà Lương, và cuối cùng lên ngôi vua, lập ra nhà nước Vạn Xuân.
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí cho thấy ý chí đồng lòng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ, quyết tâm giành lại độc lập và tự chủ.
Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà tôi đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 7
Năm 1288, trên sông Bạch Đằng diễn ra một trận đánh ác liệt, là một phần quan trọng trong cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy.
Sau thất bại tại Trúc động, ngày 8 tháng 3 (9 tháng 4 năm 1288), Ô Mã Nhi không chọn đường biển để rút quân về mà thay vào đó lựa chọn sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo quyết định tổ chức một trận đánh lớn để chống lại quân Mông Cổ xâm lược Đại Việt, lấy cách đánh của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 làm mẫu.
Trần Hưng Đạo chỉ huy quân dân Đại Việt sắp xếp một trận địa mai phục lớn trên sông Bạch Đằng, nơi mà đoàn thuyền của quân Nguyên phải đi qua khi rút lui. Ông cho đốn gỗ lim, gỗ táu từ rừng và cắm chúng xuống lòng sông tạo thành những bãi chông ngầm, kín đáo dưới mặt nước. Ông cũng sắp xếp mai phục ở nhiều điểm khác nhau, kết hợp giữa bãi chông và mai phục để ngăn chặn quân địch khi thủy triều xuống.
Khi Ô Mã Nhi đưa đoàn thuyền vào sông Bạch Đằng khi nước đang lớn, quân Đại Việt ra sức giao chiến, sau đó giả vờ chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi bị Nguyễn Khoái dẫn quân nhử vào vùng đóng cọc và quân Trần tiến công từ phía sau khiến quân Nguyên chịu tổn thất nặng nề.
Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông - Vân Trà nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, sắp xếp hàng trăm chiến thuyền và quân lính trên sông, và dựa vào Ghềnh Cốc để tạo thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch. Đồng thời, đoàn thuyền do hai vua Trần chỉ huy tấn công từ phía sau, khiến quân Nguyên chịu tổn thất nặng nề.
Trận đánh Bạch Đằng năm 1288 là một chiến thắng vĩ đại, bắt giữ hơn 400 chiếc thuyền, bắt sống tướng Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi, tiêu diệt hơn 4 vạn tướng sĩ quân Nguyên, là một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 1288 được coi là một trong những chiến thắng đặc biệt của quân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống lại quân Nguyên Mông, đóng vai trò quyết định trong việc chấm dứt chiến tranh giữa hai nước.
Trận chiến này là một chiến thắng lịch sử của dân tộc, điểm sáng tỏa sáng trong quá trình bảo vệ đất nước. Sự thông minh chiến lược của tướng lĩnh và lòng dũng cảm của nhân dân sẽ mãi được kính trọng.
Kể về một trận chiến ác liệt mà tôi đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 8
Nguyễn Huệ đã đánh bại quân Thanh, mang lại sự an lạc cho dân tộc Việt Nam trong lịch sử. Cuộc chiến này đã giúp giải phóng đất nước khỏi sự xâm lược của giặc Thanh.
Vào mùa xuân năm Kỷ Dậu, năm 1789 sau Công Nguyên, quân Thanh xâm lược Việt Nam. Nguyễn Huệ đã khởi binh chống lại giặc. Trong cuộc chiến này, Nguyễn Huệ đã sử dụng trăm thớt voi mạnh mẽ làm lợi thế của mình.
Vào giờ Ngọ cùng ngày, quân Nguyễn Huệ đã tiến hành pháo kích vào trại quân Thanh. Quân Nguyễn Huệ chiến đấu quyết liệt và đánh tan quân Thanh, khiến các trại của địch tan vỡ.
Hứa Thế Thanh, một trong chơi xổ số đốc của quân Thanh, đã quyết chiến và hy sinh trong trận đánh. Mất đi lãnh đạo, quân Thanh bắt đầu bị thua lỗi. Quân ta đã bao vây quanh thành của quân Thanh và tiếp tục đánh đuổi. Khi không còn liên lạc với đề đốc, thống soái quân Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã ra lệnh cho các tướng khác rút lui.
Tôn Sĩ Nghị ra lệnh bắn vào quân truy kích của Nguyễn Huệ để giúp quân Thanh. Sau đó, hắn rút quân về phía bắc và phá hủy cầu. Quân Thanh rút về sông Thị Cầu.
Quân Thanh ở phía nam khi thấy cầu bị cắt, biết không còn đường lui. Tàn quân tiến vào thành Lê. Tất cả tướng lĩnh quan trọng đều hy sinh tại đây. Vua An Nam Lê Duy Kỳ cũng bỏ chạy, từ đó nhà Lê tan rã.
Nguyễn Huệ dẫn binh tiến vào thành. Đề đốc quân Thanh Ô Đại khi thấy cầu bị cắt tại sông Phú Lương và thấy tình hình chiến trận bất lợi, rút quân về. Quân Thanh không còn cứu viện. Cuộc chiến tiếp tục và chiến thắng thuộc về Nguyễn Huệ. Sau này, Nguyễn Huệ trở thành vua thứ hai của triều Tây Sơn với hiệu là Quang Trung.
Cuộc chiến này để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Nguyễn Huệ đã chiến thắng quân Thanh và làm cho dân tộc ta học được bài học lịch sử sâu sắc. Từ trận đánh này, ta thấy rõ rằng chính nghĩa sẽ chiến thắng. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng, đoàn kết và dũng mãnh.
Kể về một trận chiến ác liệt mà tôi đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 9
Tôi là lính trong nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung. Tham gia vào trận đánh, tôi tự hào vì một đất nước nhỏ bé có thể đánh bại một quân địch mạnh mẽ như vậy. Trận đánh Ngọc Hồi - Hà Hồi đã làm cho tôi cảm thấy tự hào. Đó thực sự là một chiến thắng ấn tượng.
Vua Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh, Tôn Sĩ Nghị đưa quân Thanh tấn công Thăng Long. Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với hiệu là Quang Trung và lập tức mở một đội quân ra Bắc. Cuộc lùi binh diễn ra nhanh chóng, đi suốt ngày đêm không nghỉ bằng chân bộ.
Đêm 29 Tết đánh đồn sông Gián Khẩu và đến nửa đêm 30 Tết kế hoạch đánh đồn Hà Hồi. Trận đánh diễn ra nhanh chóng và quân Thanh phải đầu hàng. Vua Quang Trung thật sự là một nhà lãnh đạo tài giỏi.
Khi tấn công đồn Ngọc Hồi, chúng tôi gặp nhiều khó khăn vì đây là đồn lớn, được xây dựng chắc chắn, bảo vệ Thăng Long. Chúng tôi đã sử dụng chiến thuật lẩn tránh và tinh thần dũng cảm để tiến vào thành.
Trận đánh xảy ra vào buổi sáng mùng 5 Tết, khi sương mù còn đọng, quân Tây Sơn đã bao vây đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh bắn mũi tên có lửa nhưng bị ván cản lại. Trong khi đó, quân ta đã sử dụng chiến thuật để đánh bại địch, và vua Quang Trung dẫn đầu tiến vào thành.
Chỉ trong một thoáng chốc, chúng tôi chiếm được đồn Ngọc Hồi. Sầm Nghi Đống tự tử, và quân địch bỏ chạy. Trưa mùng 5 Tết, vua Quang Trung cùng đội quân tiến vào Thăng Long với sự cổ vũ của nhân dân và sắc đào của hoa xuân. Tôi tự hào về sự lãnh đạo và chiến lược của vua Quang Trung.
Trận đánh Hà Hồi - Đống Đa là một trận chiến vĩ đại. Mặc dù buồn vì nhiều người hi sinh, nhưng chúng tôi tự hào về phần công của mình. Tôi hy vọng rằng đất nước sẽ được thái bình và mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến này đã trở thành một phần quan trọng của lịch sử dân tộc.
Đêm đã khuya...
Những vệt sáng đầu tiên của một ngày mới đã xuất hiện. Những tiếng gà gáy vang vọng từ xóm làng gần đó.
Ngoài trời, những vệt sáng đầu tiên của một ngày mới đã hiện ra. Những tiếng gà gáy vang vọng từ các xóm làng gần đó.
Toàn bộ doanh trại im lìm dưới bóng đêm. Tiếng thở nhẹ nhàng của binh sĩ nằm ngủ, tiếng cuốc kêu trong đêm êm đềm. Một ánh đèn vẫn sáng soi trong góc tối của trại quân.
Trong bóng tối, Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo ngồi suy tư với chiếc đèn dầu sắp cạn. Ông nhớ đến chiến thắng lịch sử của Ngô Quyền năm 938 và tìm ra ý tưởng cho cuộc chiến sắp tới.
Trần Hưng Đạo ra lệnh đốt rừng để làm cọc. Dân chúng cùng nhau làm việc, đắp những cây cọc gỗ nhọn để chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.
Sau khi hoàn thành việc đốt rừng và làm cọc, Trần Hưng Đạo cho chúng đặt xuống sông Chanh. Các nhà lặn giỏi như Yết Kiêu cùng những người thợ lặn khác đã giúp đỡ việc cắm cọc xuống lòng sông.
Trần Hưng Đạo hài lòng khi thấy trận địa cọc hình thành. Các cọc nhọn đứng vững trước sóng lớn, sẵn sàng cho cuộc chiến sắp tới.
Trên bờ sông, Trần Hưng Đạo quan sát cẩn thận trận địa cọc. Các chiến binh được chọn ra và chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho cuộc chiến.
Các cọc nhọn đứng vững sẵn sàng đối mặt với quân địch. Mọi chuẩn bị đã sẵn sàng cho cuộc chiến sắp tới.
Các công nhân và lính giúp việc đang làm việc cần mẫn và chu toàn, chế tạo những chiếc thuyền nhỏ từ gỗ để chuẩn bị cho cuộc tấn công.
Trong khi đó, trên bờ sông, những người lính còn lại cũng không ngồi yên. Họ chuẩn bị vũ khí và rèn dao gươm sắc bén, chuẩn bị cho cuộc chiến sắp tới.
Khi chiều tối buông xuống, mọi người vẫn chưa ngủ. Họ ngồi lại nghe một người đọc bài hịch của Trần Hưng Đạo, khiến lòng người rạo rực, bừng bừng trong máu, trong tim.
Trống đã điểm canh hai, tờ mờ sáng, bỗng gần cửa sông Bạch Đằng xuất hiện một đoàn thuyền chiến dài dằng dặc làm chật cả khúc sông.
Trong thuyền, Ô Mã Nhi vui mừng với các tướng và tin rằng quân Trần không dám đánh mình. Thuyền chậm lại khi đối mặt với quân địch.
Bỗng dậy tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng chim loạn xạ. Nguyễn Khoái dẫn đầu đoàn thuyền chiến đến, nhưng sau một thời gian ngắn đánh nhau, quân Nguyên rút lui.
Tôi nhớ lại một trận đánh ác liệt đã từng đọc, nghe hoặc xem qua trên màn ảnh - mẫu 11
Vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân Nguyễn Huệ của nước An Nam vượt sông Gián Thủy và đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), bắt toàn bộ quân Thanh tuần thám và tiêu diệt. Tôn Sĩ Nghị, sợ hãi, gửi binh Trương Triều Long và Hứa Thế Hanh đến cứu trợ các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi. Quân Nguyễn Huệ vây đồn bốn phía và đánh giao tranh suốt một ngày một đêm, khiến quân Thanh tan tác và phải chạy trốn.
Vào đêm mùng 5, Nguyễn Huệ dẫn đội quân tiến công, mình tự đốc chiến, sử dụng thú voi làm tiên phong. Quân Thanh gửi kỵ binh tiến chiến nhưng bị thú voi kinh hãi làm ngựa bỏ chạy, rút lui vào trại cố thủ. Quân Nguyễn Huệ sử dụng hỏa châu và rạ lăn tiến vào, chinh phục mọi khó khăn, quân Thanh tan vỡ và chạy trốn.
Hứa Thế Hanh thấy thế lực quân địch rõ ràng, ra sức tấn công nhưng bị tiêu diệt trong trận. Quân Thanh bị chia cắt và bao vây từng nhóm, khiến Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc và phải rút lui.
Quân Thanh ở phía nam sông không thể rút lui khi cầu bị phá hủy, nên họ phải đánh trở lại thành nhà Lê. Nhiều chỉ huy lớn của quân Thanh đã tử trận, và Lê Duy Kỳ cũng bỏ chạy.
Nguyễn Huệ tiến vào thành, mặc chiến bào đen do bị bắn thuốc súng. Quân Thanh do Ô Ðai Kinh dẫn đã rút lui sau khi thất bại tại Tuyên Quang.
Cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, nhưng rõ ràng rằng chiến thắng sẽ thuộc về lý tưởng và tinh thần chiến đấu công bằng. Sự hy sinh và tài năng của dân tộc được khẳng định một lần nữa trước thế giới khi chiến công vẻ vang được nhắc lại.
Kể lại một trận chiến ác liệt mà em đã đọc, nghe hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 12
Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã ghi danh những chiến công lịch sử: chiến thắng ba trận giữa dân tộc Việt Nam và quân đội Nguyên Mông xâm lược.
Trận đầu tiên diễn ra vào tháng Giêng năm 1258. Lúc đó, vua Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến xâm lược Trung Quốc. Cùng lúc, một đạo quân lớn từ Vân Nam do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy, đánh xuống Đại Việt. Vua Trần Thái Tông đã đối mặt với giặc tại Bình Lệ Nguyên, nhưng sau đó quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng.
Mặc dù rút lui, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không dao động. Vua Trần đã lên kế hoạch đánh giặc bằng những con thuyền trên sông Hồng. Khi được hỏi ý kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời: ''Chưa đến lúc lo lắng'.
Quân giặc bị cô lập trong thành Thăng Long và thiếu lương thực. Họ cố gắng cướp lương thực từ các vùng lân cận nhưng bị dân địa phương chống cự dữ dội. Sau 9 ngày, chúng hoảng loạn. Đây là cơ hội để quân ta phản công. Vào ngày 29/1/1258, Vua Trần Thái Tông dẫn binh thuyền tiến vào Thăng Long, đánh bại quân giặc và đuổi chúng trở về Vân Nam.
Sau thất bại đó, Mông Cổ rơi vào cuộc nội chiến (1259 -1264) và chiến tranh với Tống (1267-1279), không thể tiếp tục xâm lược Việt Nam. Cho đến năm 1279, khi nhà Tống sụp đổ, Mông Cổ mới chuẩn bị xâm lược lại. Năm 1284, đạo quân Mông Cổ lên đường dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan và A Lý Hải Nha, con trai của Hốt Tất Liệt.
Lần này, quân đội của Thoát Hoan và Nạp Tốc Lạt Đinh tiến vào Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong khi Toa Đô đánh vào Nam Đại Việt. Sau vài trận đánh, quân ta rút lui và chờ đợi cơ hội tấn công trở lại. Trong tháng 2/1285, quân ta tiến vào Trường Yên và Ninh Bình, chuẩn bị cho cuộc phản công.
Trong mùa hè năm 1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đội quân tiến vào Bắc. Kế hoạch phản công được thực hiện thành công, đánh tan quân Mông Cổ và giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan bị đuổi đến Lạng Sơn, nơi chúng bị chặn đánh và phải chạy trốn. Viên tướng Lý Hằng bị tiêu diệt trên đường chạy về nước.
Trong lúc cánh quân Thoát Hoan chạy về Lạng Sơn, cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh cũng gặp khó khăn khi đối mặt với sự tấn công dồn dập của quân dân ta. Cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai kết thúc hoàn toàn thất bại.
Sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị một cuộc chiến tranh mới. Nhưng đến cuối năm 1287, các đạo quân mới có thể ra đường. Một đạo do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào Lạng Sơn, đồng thời đạo khác từ Vân Nam do Lỗ Xích cầm đầu đánh vào Tuyên Quang.
Tháng 12/1287, đoàn thuyền của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh). Trần Khánh Dư cố gắng chặn đánh nhưng không thành công. Đoàn thuyền giặc tiếp tục hành trình vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng cuối cùng bị tiêu diệt hoàn toàn.
Lần thứ ba, quân Nguyên bước vào Thăng Long ngày 2/2/1288. Thoát Hoan cố gắng đem chiến thuyền của ô Mã Nhi đến nhưng không thành công. Vì thiếu lương thực, quân đội của Thoát Hoan cuối cùng phải rút về Vạn Kiếp.
Kế hoạch rút lui của giặc đã rơi vào dự liệu của Trần Hưng Đạo. Trận chiến trên sông Bạch Đằng đã phá hủy hoàn toàn quân đội thủy của giặc, ghi thêm một chiến công oanh liệt trong lịch sử giữ nước.
Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Nhưng cuối cùng, chúng bị tiêu diệt hoàn toàn bởi trận đánh kịch tính. Đây là lần thứ ba dòng Bạch Đằng chứng minh sức mạnh và khí phách của dân tộc.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng đã chôn vùi hoàn toàn ý đồ xâm lược của Hốt Tất Liệt.
Nhớ lại một trận đánh ác liệt mà tôi đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 13
Năm nay, trong chuyến du lịch gia đình, tôi tham dự lễ kỷ niệm 40 năm cuộc chiến huyền thoại tại Ngã ba Đồng Lộc. Lễ kỷ niệm diễn ra từ ngày 16 đến 24 tháng 7 năm 2008 với sự hoành tráng và tôn nghiêm. Tham dự sự kiện này, tôi nhớ lại trận đánh ác liệt mà những người thanh niên xung phong đã góp phần làm nên lịch sử.
Những nhân chứng sống của cuộc chiến đã bắt đầu hồi tưởng lại trận đánh ấy. Vào mùa thu năm 1968, từ Thạch Hà đến Hồng Lĩnh, máy bay Mỹ tấn công dữ dội. Quốc lộ 1A bị tắc nghẽn, hệ thống cầu cống bị phá hủy. Trong hoàn cảnh đó, làng Hạ Lôi đã được chia làm đôi để mở đường cho xe chở xăng dầu qua. Cả làng đồng lòng hưởng ứng và thực hiện nhiệm vụ này.
Sáng ngày 13/8/1968, sau khi tiếp nhận mệnh lệnh từ cấp trên, lãnh đạo xã đã tổ chức họp dân để chuẩn bị phá nhà, mở đường cho xe qua. Cả làng hưởng ứng nhiệt tình và chỉ trong vài tiếng đồng hồ, 130 ngôi nhà đã được dỡ bỏ, đường xe đã được mở. Con đường xuyên làng được giữ bí mật cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.
Trong một đêm, người dân di dời 130 ngôi nhà để mở đường cho xe chở hàng ra tiền tuyến. Ban đảm bảo giao thông tỉnh đặt tên làng Hạ Lôi là làng K130. Những dấu tích của chiến tranh vẫn còn đọng lại, và mỗi dấu tích đều gợi lại nhiều cảm xúc bùi ngùi về sự hy sinh và may mắn của những người lính.
Thời gian đã làm phai mờ dấu tích của chiến tranh, nhưng chúng vẫn sống mãi trong tiềm thức của những nhân chứng. Hãy lắng nghe và hành động, xây dựng và bảo vệ đất nước để đáp lại những hy sinh của cha ông.
Nhớ lại một trận đánh ác liệt mà tôi đã đọc, nghe kể hoặc xem trên màn ảnh - mẫu 14
Quay ngược thời gian trở về thời kỳ phong kiến của nước ta, giai đoạn mà vua Quang Trung đã đánh bại quân Thanh để bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ bị xâm chiếm từ phương Bắc, điển hình là trận Ngọc Hồi - Hà Hồi diễn ra vào năm 1789.
Trong thế kỷ 18 cuối, Đại Việt bị chia cắt bởi nhiều thế lực khác nhau. Lê Chiêu Thống ở phía Bắc thất bại và kêu gọi sự giúp đỡ từ nhà Thanh, dùng lời bào chữa là 'phù Lê' để mời quân Thanh xâm nhập mà không gây hại cho bất kỳ binh sĩ nào. Vào năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế với tên là Quang Trung, và quyết định tiến quân ra phía Bắc, tạo nên cuộc hành quân nhanh nhất trong lịch sử.
Trước khi bắt đầu trận đánh, vua Quang Trung đã động viên tinh thần các binh lính. Đêm trước ngày 29 Tết, quân Thanh bị tấn công ở đồn Gián Khẩu, và vào ngày 30 Tết, đánh đồn Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi gặp khó khăn nhưng vẫn bảo vệ chặt chẽ. Quân ta sử dụng chiến thuật tinh vi và dũng cảm, với sự lãnh đạo mạnh mẽ của vua Quang Trung.
Trận đánh ở Ngọc Hồi diễn ra sáng sớm, quân Tây Sơn bao vây đồn mà quân Thanh không hay biết. Khi bị phát hiện, quân Thanh bắn pháo và bị cản bởi tấm ván. Thời tiết có gió Bắc, làm cho khói mù nhưng đột ngột lại trở gió Nam, khiến quân Thanh hoảng loạn. Quân Tây Sơn tận dụng lợi thế này để tấn công và chiếm lấy đồn một cách dễ dàng.
Đồn Ngọc Hồi bị bao vây, quân Thanh thua trận và Sầm Nghi Đống phải tự tử. Một số quân Thanh bị bắt làm tù binh trong khi những người còn lại chạy trốn.
Sáng mùng 5, quân Tây Sơn tiến công và chiếm đồn Ngọc Hồi, vua cùng quân đội tiến vào thành trong sự chào đón nồng nhiệt của người dân. Cuộc hành quân nhanh chóng và sự lãnh đạo tài tình của vua đã giúp quân Tây Sơn giành chiến thắng to lớn.
Mỗi trận chiến đều cần có lãnh đạo thông minh và chiến thuật xuất sắc, và vua Quang Trung đã thể hiện điều đó trong chiến thắng lịch sử của mình.
Mỗi chiến thắng đều là kết quả của sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự dũng cảm của quân đội, đặc biệt là dưới sự lãnh đạo của Quang Trung.
Hồi cuối năm Mậu Thân (1788), dân Thăng Long và Bắc Hà phải trải qua những ngày đau khổ vì nạn xâm lược. Tôn Sĩ Nghị dẫn đạo 290 nghìn quân Thanh xâm nhập kinh thành và chiếm đóng lãnh thổ Bắc Hà. Quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Ngô Văn Sở rút về giữ Tam Điệp - Biện Sơn.
Sau chiến thắng dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra chủ quan. Quân Thanh tạm gác lại Thăng Long để ăn tết, chuẩn bị tấn công Nguyễn Huệ sau đó. Nhưng Quang Trung đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đối đầu.
Trong khi nhân dân Thăng Long chứng kiến tội ác của quân Thanh, Quang Trung đã sẵn sàng xuất quân từ Phú Xuân. Trong vòng 35 ngày, Quang Trung đã hoàn thành mọi chuẩn bị cho cuộc đại phá Thanh.
Đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tấn công Gián Khẩu, mở đầu cho cuộc đại phá Thanh. Sau 5 ngày tiến quân nhanh chóng, Quang Trung tiêu diệt quân Thanh ở Ngọc Hồi - Đầm Mực.
Cùng lúc, quân do đô đốc Long chỉ huy, đánh thắng Đống Đa rồi tiến vào cung Tây Long của Tôn Sĩ Nghị.
Sáng mùng 5 Tết, quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đội đốc Bảo công đánh bại quân Thanh ở Ngọc Hồi - Đầm Mực.
Sự hòa hợp giữa hai trận đánh ở Ngọc Hồi và Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị bất ngờ và hoàn toàn mất sự kiểm soát, tan rã. Dù có lực lượng dự bị lớn ở tổng hành dinh, nhưng quân Thanh cuối cùng cũng phải chạy trốn trong cảnh hoảng loạn.
Quang Trung đã thực hiện chuẩn bị trong 35 ngày và tiến công trong 5 ngày đêm trên một tuyến phòng ngự dài 90 km. Đây là một kỷ lục về tốc độ và quyết đoán trong lịch sử quân sự.
Chiến thắng tại Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một biểu tượng của phong trào Tây Sơn, sức mạnh của dân tộc. Quân đội Tây Sơn đã kết hợp năng lượng dân chủ với tinh thần chiến đấu mạnh mẽ.
Quân Tây Sơn đã đánh bại quân Thanh với ý chí bất khuất và sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nhân dân. Những người dân đã cùng quân Tây Sơn chiến đấu và cung cấp hỗ trợ cần thiết.
Cư dân xung quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn che giấu quân số, tham gia xây dựng chiến trận và cung cấp lương thực. Họ đã làm mọi cách để đánh bại quân giặc.
Quang Trung đã sử dụng chiến thuật tốc độ và tạo ra một thế trận vững chắc để đánh bại quân Thanh. Chiến thắng của ông biểu thị sức mạnh tinh thần và chiến thuật xuất sắc.
Ngay sau chiến thắng, Quang Trung đã khôi phục quan hệ hòa bình với nhà Thanh thông qua ngoại giao. Quan hệ giữa hai nước đã được lập lại trong thời gian ngắn.