1. Bài tham khảo số 4
Đặng Trần Côn, một danh nhân và nhà thơ nổi tiếng của văn học cổ điển, đã để lại cho đời kiệt tác ‘Chinh phụ ngâm khúc’. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán và được biết đến rộng rãi qua bản dịch của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích ‘Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ’ không chỉ là nỗi lòng của người chinh phụ mà còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là 8 câu thơ giữa bài.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Căn phòng tưởng như rộng lớn khi hai người cùng sống, nhưng trở nên tù túng và u ám khi chỉ còn người vợ đơn độc, khắc khoải nhớ chồng. Nỗi chờ đợi của người vợ tiễn chồng ra chiến trận kéo dài đến vô tận, bao trùm lên cả con người và tâm trạng của người chinh phụ.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Nhịp thơ chậm rãi và giọng thơ man mác làm người đọc cảm nhận sâu sắc tâm trạng của nhân vật trữ tình. Hành động lặp đi lặp lại, như “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước”, diễn tả nỗi buồn đau và sự cô đơn vô tận. Không gian yên tĩnh làm cho tiếng bước chân trở nên nặng nề hơn. Ngày qua ngày, đêm qua đêm, nàng vẫn một mình nhớ chồng, dù có chiếc rèm kéo lên kéo xuống cũng không làm thay đổi được lòng nàng.
Thời gian chờ đợi không có dấu hiệu gì vui vẻ, chim thước đã lâu không ghé thăm để mang lại chút hi vọng. Bên trong rèm chỉ có nàng và ngọn đèn le lói, làm bạn với chính bóng của mình. Nỗi cô đơn của nàng không có ai để chia sẻ, chỉ có cây đèn vô tri chứng kiến nỗi lòng thủy chung của nàng. Hình ảnh chiếc đèn càng làm rõ sự lẻ loi và nỗi buồn của người chinh phụ.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
“Buồn rầu nói chẳng nên lời” miêu tả nỗi buồn không thể diễn tả bằng lời, nàng chỉ còn lại một mình với hoa đèn, tàn bấc vẫn còn sáng như lòng nàng đang cháy đỏ. Hình ảnh này làm người đọc càng thêm cảm thương cho sự lẻ loi của người phụ nữ.
Phép ước lệ kết hợp với thể thơ song thất lục bát tạo nên giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha, thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người chinh phụ. Đoạn trích mang giá trị nhân đạo sâu sắc, phê phán chiến tranh phi nghĩa và phong kiến hà khắc thời bấy giờ.
2. Bài tham khảo thứ 5
Chinh Phụ Ngâm là một tác phẩm nổi tiếng của Đặng Trần Côn, nổi bật với chủ đề về nỗi đau chia ly của những người phụ nữ chờ đợi chồng đi chinh chiến. Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 17, mặc dù có nhiều tác phẩm viết về sự chia ly, nhưng Chinh Phụ Ngâm vẫn đặc biệt gây xúc động nhất cho người đọc. Đặc biệt, 8 câu giữa bài thơ Chinh Phụ Ngâm thể hiện nỗi cô đơn, lẻ loi, và nỗi nhớ mong sâu sắc của người chinh phụ.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
(8 câu giữa Chinh Phụ Ngâm)
Truyền thống miêu tả tình cảm qua cảnh vật không phải là điều mới lạ: “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Khi tâm trạng con người u buồn, mọi cảnh vật xung quanh cũng trở nên xám xịt. Trong đoạn giữa này, bức chân dung của người phụ nữ chinh phụ không được mô tả cụ thể mà thông qua các hình ảnh không gian và thời gian để thể hiện nỗi buồn:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hai câu thơ này nói về thời gian canh khuya với tiếng gà gáy và tiếng hòe rủ bóng làm tăng thêm nỗi buồn. Trong không gian tĩnh lặng, âm thanh của gà gáy và hòe rủ bóng tạo nên một cảm giác cô đơn. Thời gian đã khuya, nỗi nhớ kéo dài suốt đêm. Khi đêm đến, người vợ càng cảm nhận được nỗi cô đơn qua âm thanh xung quanh. Tác giả dùng hình ảnh ước lệ để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ. Hai câu thơ giúp hình dung sự cô đơn của người vợ, nỗi u sầu của đêm khuya và cảnh vật xung quanh. Mặc dù không mô tả chi tiết người vợ, nhưng qua thời gian và không gian, ta có thể cảm nhận được nỗi buồn sâu sắc.
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”
Hai câu thơ tiếp theo khắc họa thêm nỗi sầu đêm vắng. Từ láy “đằng đẵng” và “dằng dặc” thể hiện sự chán chường và mệt mỏi kéo dài. Nỗi nhớ “miền biển xa” chính là nỗi nhớ chồng, người đi không biết khi nào trở lại. Chiến tranh có thể kéo dài nhiều năm hoặc mãi mãi. Nỗi nhớ của người vợ giống như ngồi trên đống lửa, sinh li tử biệt, nên nỗi nhớ mới da diết và kéo dài.
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả những hành động gượng gạo. Khi nỗi nhớ trào dâng, tất cả hành động của người chinh phụ đều trở nên gượng ép và mệt mỏi. Từ “gượng” được lặp lại cho thấy người chinh phụ cố gắng thoát khỏi nỗi cô đơn, nhưng đều thất bại. Nàng cố đốt hương, soi gương, gảy đàn nhưng đều không thành công. Cuộc sống hàng ngày vẫn diễn ra, nhưng nàng chỉ đang diễn vai một cách gượng gạo. Nàng tìm đến gương để chỉnh trang lại chỉ thấy nỗi sầu, và âm nhạc thì chỉ làm tăng thêm nỗi đau.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Hai câu thơ này cho thấy tình duyên đứt đoạn và phím loan ngại ngùng. Người vợ xa chồng cảm nhận được sự chia ly và nỗi đau đớn. Duyên vợ chồng ngắn ngủi, chiến tranh cướp đi người thương, để lại người vợ sống trong cảnh “tam tòng tứ đức” và không có quyền quyết định cuộc đời mình. Một phím đàn đứt ngang như một cuộc tình không trọn vẹn. Nỗi cô đơn của người chinh phụ được tác giả miêu tả chi tiết, tạo sự đồng cảm sâu sắc với độc giả. Ta cảm thông cho số phận phụ nữ trong xã hội xưa, phải sống dưới áp lực và định kiến xã hội. Tác giả thể hiện sự cảm thông sâu sắc và khát vọng giải phóng phụ nữ khỏi cảnh ngộ này.
Khổ thơ giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ vẽ nên bức tranh tâm trạng của người vợ khi chồng ra chiến trận, đồng thời tố cáo chiến tranh phong kiến đã chia rẽ đôi lứa và bày tỏ khát vọng hạnh phúc và sống của phụ nữ xưa.
3. Tài liệu tham khảo 1
Văn học Việt Nam đã chứng kiến nhiều cuộc chia ly và tiễn biệt đầy cảm xúc. Vào thế kỉ XVIII, tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, với chủ đề chia ly trong chiến tranh, đã phản ánh sâu sắc tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích 'Gà eo óc gáy sương năm trống, đến dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” làm nổi bật nỗi lẻ loi và nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.
Chân dung người phụ nữ trong tác phẩm không chỉ được thể hiện qua hành động, cử chỉ, nét mặt buồn bã, hay dáng ngồi lặng lẽ trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật trong không gian và thời gian:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt cả ngày dài cùng với âm thanh “tiếng gà eo óc” trong đêm như làm nổi bật nỗi cô đơn kéo dài của nhân vật. Âm thanh “eo óc” là tiếng nhỏ, lạc lõng trong không gian rộng lớn, vắng vẻ, thể hiện nỗi buồn của nhân vật trong đêm. Nàng đã thức trọn năm canh để cảm nhận nỗi sầu, nỗi đau sâu thẳm. Từ láy “phất phơ” biểu đạt tinh tế sự uể oải của người chinh phụ, tâm trạng chờ đợi của người vợ. Tâm trạng của nhân vật như trải dài cả thời gian và không gian. Tác giả đã dùng bút pháp ước lệ và so sánh để biến thời gian thành tâm trạng và không gian thành cảm xúc trong hai câu thơ:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”
Hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” thêm vào đã làm nổi rõ sự mệt mỏi, chán chường kéo dài của người chinh phụ. Kể từ khi chồng ra đi, mỗi ngày trở nên dài như cả năm, nỗi lo và buồn sầu dồn nén đè nặng tâm hồn người phụ nữ. Ngày, giờ, phút đều là cuộc chiến chống lại nỗi cô đơn và cuộc sống tẻ nhạt:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Điệp từ “gượng” xuất hiện ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo thể hiện sự nỗ lực của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để tìm sự an yên, nhưng lại rơi vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để làm đẹp, nhưng chỉ thấy lệ rơi. Nàng gượng chơi đàn để giải tỏa nhưng nỗi âu lo về duyên phận và tình yêu lại hiện về. Nỗi cô đơn và lo lắng đã khiến nàng không thể giải thoát mình khỏi nỗi buồn, mà còn chìm sâu hơn vào sự bi thương. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ được thể hiện qua nhiều bút pháp trữ tình, làm nổi bật sự buồn tẻ cả khi ngày và đêm, trong phòng và ngoài phòng, bao trùm không gian xung quanh, làm hao mòn thể xác và tâm hồn nàng.
Dù chỉ tám câu thơ, nhưng ta đã cảm nhận được phần nào nỗi cô đơn và nhớ nhung của người chinh phụ. Nỗi đau này cũng chỉ trích chiến tranh phong kiến xưa, chia rẽ hạnh phúc lứa đôi, đồng thời phản ánh khát khao hạnh phúc của con người.
4. Tài liệu tham khảo 2
Tác phẩm 'Chinh phụ ngâm” chứa nhiều đoạn thơ thể hiện sự cô đơn, nỗi buồn và khổ sở của người chinh phụ. Đoạn thơ này đặc biệt thể hiện tâm trạng đau khổ của người phụ nữ trong thời kỳ chiến tranh, loạn lạc:
'Gà eo óc gáy sương năm trống,
..........
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Chồng nàng đã ra trận nhiều năm chưa trở về, để lại người vợ trẻ đơn độc trải qua những tháng ngày dài lẻ loi. Nàng ngồi một mình trong phòng, không có ai để chia sẻ nỗi lòng. Chinh phụ thao thức suốt đêm, lắng nghe tiếng gà “eo óc” gáy trong sương và tiếng trống canh năm. Bốn bề chỉ có bóng hòe “phất phơ”. Thời gian trôi qua từng khắc, từng giờ, dài dằng dặc “như niên”, nỗi sầu đọng lại “dằng dặc tựa biển xa”.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.
Các từ láy (eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc) tạo nên hình ảnh và thời gian, làm tăng thêm sự biểu cảm về nỗi cô đơn và tâm trạng thao thức của người chinh phụ. Hai so sánh về thời gian “đằng đẵng như niên” và “dằng dặc tựa biển xa” đã cực tả nỗi buồn lê thê suốt ngày đêm, đúng như câu “ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” (Truyện Kiều).
Nỗi sầu tủi, buồn chán rồi e ngại, “gượng” đốt hương, “gượng” soi gương, và “gượng” gảy đàn. Sự mỏi mệt và chán nản khiến nước mắt “chứa chan” trên gối, tràn đầy mi. Các từ ngữ như “kinh”, “ngại”, cùng điệp từ “gượng” thể hiện rõ nỗi buồn, khổ sở, lo sợ của chinh phụ. Tâm hồn nàng “mê mải”, chân tay thì rã rời:
“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Nhạc điệu của thơ song thất lục bát kéo dài như nỗi buồn cô đơn, dằng dặc trong lòng người chinh phụ. Các từ láy và so sánh khắc họa nội tâm của nàng. Lời thơ đẹp và ngôn ngữ tinh tế, làm cho ngoại cảnh như thấm đẫm nỗi buồn và khổ sở của lòng người.
Chiến tranh phong kiến đã “dãi thây trăm họ nên công một người”. Trên chiến địa, “hồn tử sĩ gió ù ù thổi”... Ở các làng quê, những người mẹ già và vợ trẻ đang lo lắng, chờ mong. Đoạn thơ chứa giá trị nhân đạo sâu sắc, tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây ra đau khổ cho nhân dân.
5. Tài liệu tham khảo 3
'Chinh phụ ngâm' là một tác phẩm nổi bật của Đặng Trần Côn, được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Ngay khi ra mắt, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn và càng được biết đến nhiều hơn khi có bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm. Bài thơ miêu tả cảnh lẻ loi của người chinh phụ khi chồng đang ở chiến trường xa. Tình cảm đó đã hòa quyện vào cảnh vật xung quanh:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Tiếng gà gáy đã được dùng để miêu tả sự tĩnh lặng của thiên nhiên và nỗi cô đơn của con người. Nàng đã thức suốt đêm để cảm nhận nỗi sầu, nỗi đau vô hình trong lòng. Từ láy “phất phơ” tinh tế diễn tả sự chờ đợi của người vợ đối với hình bóng của chồng. Hình ảnh cây hòe “rủ bóng” như thể hiện sự tiều tụy của người chinh phụ, làm nổi bật sự cô độc giữa không gian bao la.
Trong những câu thơ tiếp theo, nỗi ai oán thể hiện rõ qua từng chữ, dù không nhắc đến chiến tranh:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Điệp từ “gượng” xuất hiện ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo thể hiện nỗ lực của người chinh phụ. Dường như nàng đang tìm kiếm sự thanh thản nhưng lại càng lún sâu vào nỗi mê man. Cố gắng tìm đến gương thì lại rơi lệ, cố gắng tìm đến nhạc thì lại lo âu. Nỗi sầu cô đơn như bao trùm, ám ảnh nàng. Tác giả đã sử dụng bút pháp trữ tình để làm nổi bật nỗi cô đơn của người chinh phụ. Những lo âu đã khiến nàng như đang chết dần trong nỗi cô đơn đó.
Đằng sau nỗi sầu thảm của người phụ nữ chính là hiện thực khốc liệt mà chiến tranh để lại. Bài thơ không chỉ miêu tả tâm trạng của người phụ nữ mong mỏi chồng mà còn gián tiếp tố cáo chiến tranh và sự tàn phá của nó. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự đồng cảm và thấu hiểu của tác giả với người chinh phụ. Đây chính là giá trị nhân đạo sáng ngời của tác phẩm.
Như vậy, tác giả đã khéo léo kết hợp các biện pháp tu từ để miêu tả thế giới nội tâm sâu kín của người chinh phụ và phản ánh hiện thực loạn lạc do chiến tranh gây ra. Điều này không chỉ thể hiện tài năng của tác giả mà còn phản ánh tâm lòng của ông.