1. Bài tham khảo số 1
Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A. Chúng ta có thể thấy được hình ảnh trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Không có một từ ngữ nào có thể tả hết được chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên mạnh mẽ là vậy nhưng trong lòng quân tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)
Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: Dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.
“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
Hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.


2. Tham khảo số 3
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Võ tướng nổi tiếng với đóng góp lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông. Mê thơ văn, ông được ca tụng là vị tướng văn võ toàn tài. Tác phẩm nổi bật của ông có 'Tỏ lòng' và 'Viếng Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại Vương'. 'Tỏ lòng' là bài thơ nổi tiếng, thể hiện khí phách nam nhi và lòng yêu nước. Viết năm 1284, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai. Bài thơ chỉ 4 câu 7 chữ, nhưng truyền đạt hình ảnh và hào khí của quân đội thời Trần. Phạm Ngũ Lão ca tụng chí nam nhi và ý chí trả nợ công danh, góp phần xây dựng đất nước. Thể hiện sự thấu hiểu và tôn trọng trước tài năng vượt trội của người tiền bối như Gia Cát Lượng, ông cảm thấy thẹn trước công danh nhỏ bé của mình. Vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão được thể hiện qua ý chí và lòng kính trọng, khao khát góp sức xây dựng đất nước.


3. Tác phẩm số 2
Phạm Ngũ Lão, danh tướng nổi tiếng thời chiến tranh chống quân Nguyên Mông, không chỉ xuất sắc trong binh nghiệp mà còn là người yêu thơ văn, được mệnh danh là tướng văn võ toàn tài. Trong số ít tác phẩm còn lại, 'Tỏ lòng' và 'Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương' là những tác phẩm nổi bật. 'Tỏ lòng' là một bức tranh ngắn về vẻ đẹp anh hùng của con người và quân đội thời Trần, toát lên sức mạnh và hào hùng của thời kỳ ấy.
Bài thơ, viết bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, diễn đạt hình ảnh anh hùng lẫm liệt của quân đội và tư tưởng trả nợ công danh của nam nhi. 'Nam nhi vị liễu công danh trái' - Phạm Ngũ Lão nhấn mạnh ý chí trả nợ công danh bằng cách đóng góp công sức cho đất nước. Tâm hồn cao quý, lí tưởng sống cao cả được thể hiện qua lòng thẹn khi so sánh với vị mưu thần Gia Cát Lượng. Với từ ngữ sắc sảo và hình ảnh sinh động, bài thơ là một bức tranh đẹp về những giá trị cao quý trong tâm hồn của người lính hiền lành.
Với tư duy tiến bộ và lòng trung hiếu, Phạm Ngũ Lão ca ngợi những anh hùng có công, đồng thời tỏ lòng muốn trả nợ công danh bằng cách đóng góp công sức, xây dựng đất nước. Bức tranh anh hùng trong bài thơ không chỉ là minh chứng cho sức mạnh vũ trụ của quân đội thời Trần mà còn là biểu tượng cho lòng trung hiếu, ý chí làm trai của nam nhi hiện đại.


4. Tác phẩm số 5
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng xuất sắc thời Trần, có đóng góp lớn trong chiến tranh chống quân Mông-Nguyên. Tướng võ tài năng, ông giữ chức Điện súy và phong tước quan nội hầu. Yêu thơ và làm thơ, Phạm Ngũ Lão được biết đến là văn võ toàn tài. Tuy có nhiều bài thơ xuất sắc, nhưng chỉ còn Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.
Tỏ lòng là bức tranh hùng vĩ về chí nam nhi và lòng hy sinh vì đất nước. Sáng tác trước chiến tranh thứ hai chống quân Mông-Nguyên, bài thơ thể hiện lòng trung quân, ái quốc của Phạm Ngũ Lão. Ông nhìn nhận món nợ công danh là trách nhiệm lớn, là lý tưởng cao cả. Qua câu thơ cuối, nỗi thẹn của ông khi đối sánh với nhân vật lịch sử Gia Cát Lượng làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao quý của một người anh hùng hiên ngang.
Tỏ lòng là tác phẩm ghi chép về vị tướng dũng cảm, là nguồn động viên cho thế hệ trẻ theo đuổi lý tưởng và công danh lớn lao. Bài thơ không chỉ là tình khúc ca ngợi anh hùng, mà còn là bài học về lòng yêu nước, sẵn sàng đối mặt với thách thức để xây dựng một Tổ quốc vững mạnh.


5. Tác phẩm số 4
Phạm Ngũ Lão, anh hùng kháng chiến vĩ đại, không chỉ nổi tiếng với chiến công trên trận trường mà còn là một nhà văn võ toàn tài. Tác phẩm duy nhất còn lại của ông là 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) và 'Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương'. 'Tỏ lòng' không chỉ là bức tranh hào hùng về anh hùng Trần, mà còn là tấm gương cho lòng trung hiếu và ý chí vươn lên vượt khó khăn.
Bài thơ sử dụng chữ Hán và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu đầu tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ của con người và quân đội Trần. Tuy nhiên, hai câu sau là tâm hồn sâu sắc của Phạm Ngũ Lão. 'Nam nhi vị liễu công danh trái' - anh hùng không gì bằng công danh, làm trai phải trả nợ cho đất nước. Ông thể hiện lòng thẹn khi đối chiếu với Vũ Hầu (Gia Cát Lượng), người có công lớn trong việc khôi phục vương triều. Ông khát khao gặt hái nhiều thành công hơn và tự nhủ: 'Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu'.
'Tỏ lòng' không chỉ là sự ca ngợi về hào khí quân đội mà còn là cuộc đối diện của một nhà anh hùng với chí lớn và trách nhiệm với đất nước. Bài thơ để lại ấn tượng mạnh mẽ, khí thế hào hùng của thời Trần và gửi gắm thông điệp về tình yêu nước và lòng dũng cảm trong tâm hồn mỗi người đọc.

