1. Bài tham khảo số 1
Nguyễn Trãi (1380-1442) là nhà thơ lớn của Đại Việt thế kỷ 15. Ngoài những tác phẩm văn xuôi uyên bác, Ức Trai để lại hai tập thơ quý báu: “Quốc âm thi tập” (chữ Nôm) và “Ức Trai thi tập” (chữ Hán).
Thơ của Nguyễn Trãi đặt thiên nhiên lên vị thế cao. Màu xanh của cỏ, tiếng rì rầm của suối, bóng thông ven núi, tiếng cuốc gọi hè, vầng trăng soi vào chén rượu, cây chuối, cành mai, hoa sen trong đầm, hoa lựu thắp đỏ ngoài hiên… toàn bộ là những yếu tố chảy trong tác phẩm của ông. Trong đó, bài thơ “Bến đò xuân đầu trại” là một tác phẩm xuất sắc trong bộ sưu tập “Ức Trai thi tập”
Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt của bài thơ được viết với sự chặt chẽ và linh hoạt. Ức Trai miêu tả cảnh mưa xuân trên bến đò đầu trại. Màu xanh của cỏ xuân như khói nâu bồi đậm bức tranh. Những con sóng “nước vỗ trời” thể hiện sức sống mãnh liệt của mùa xuân. Con đò mồ côi trở thành hình ảnh nhân hóa, gối đầu lên bãi cát ngủ ngon lành dưới trời mưa.
Bài thơ mang lại cảm giác lặng lẽ, thơ mộng, và bình yên, đồng thời thoát lên khỏi lòng địa phương, làm cho độc giả yêu thêm mùa xuân quê nhà. Những biện pháp tu từ như so sánh, thậm xưng, nhân hóa đều được Ức Trai khéo léo sử dụng, tạo nên bức tranh tinh tế và gần gũi với tâm hồn người đọc.

2. Tham khảo số 3
Thiên nhiên, cái nôi lớn của bí ẩn, luôn thay đổi vẻ đẹp theo thời gian. Vẻ đẹp kì diệu này không thể nào diễn đạt hết bằng lời. Đã có bao thơ, ca khúc được sáng tác để tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Người nông dân, người lãnh đạo đất nước, tất cả đều bị cuốn hút bởi thiên nhiên và họ cảm thấy hòa mình vào vẻ đẹp tuyệt vời ấy.
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng cho nghệ sĩ. Từ bức tranh của nông dân đơn giản đến người trị vì đất nước, tất cả đều đắm chìm trong vẻ đẹp tự nhiên, khám phá những điều kỳ diệu của nó.
Cảnh thiên nhiên trong thơ cổ điển luôn sống động, đẹp đẽ và trữ tình. Người viết chỉ cần một vài nét vẽ, nhưng đã tạo ra những đường nét uyển chuyển, gợi cảm. Điều này khiến tâm hồn độc giả phải rung động trước vẻ đẹp trong thơ, với những nhận định tinh tế, sâu sắc và chân thực từ các nhà thơ. Trong đó, tác phẩm của Nguyễn Trãi nổi bật.
Đọc bài thơ của ông, chúng ta cảm nhận được tâm hồn nhà thơ:
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi,
Lại có mưa xuân nước vỗ trời.
Đường đồng quạnh quẽ thưa vắng khách,
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi.
(Bến đò xuân đầu trại - Nguyễn Trãi)
Thiên nhiên ở đây là mùa xuân tại quê hương của Nguyễn Trãi. Mùa xuân tràn ngập vẻ đẹp: cỏ xanh tươi như làn khói lam nhẹ nhàng trên bến đò. Khung cảnh huyền bí này có những hạt mưa xuân bay nhẹ, như lơ lửng ngang trời.
Câu thơ đẹp nhưng cảm giác cô độc, hư vô xen giữa cảnh đẹp tươi tắn của mùa xuân. Tại sao Nguyễn Trãi chỉ miêu tả cảnh quạnh quẽ, vắng vẻ trên con đường nhỏ? Tại sao ông không tả sự tấp nập của những người dân về làng sau buổi chợ? Sao ông chỉ chú ý đến con đò nằm trên bãi cát, trong khi nhiều cảnh đẹp khác ông bỏ qua?
Đó chính là sự hiện thực của tâm hồn Nguyễn Trãi, người lính trung hiếu, dành tâm trí cho dân tộc, nhưng ghét sự hối hả, ông rút về quê hương, sống những năm tháng cuối đời trong cảnh thiên nhiên tươi đẹp.
Cô đơn và lẻ loi giữa thời đại ông sống, không người tri kỷ, ông làm bạn với thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên, cảm nhận vẻ tươi sáng của thiên nhiên để sáng tác ra những tác phẩm xuất sắc, trữ tình và bất hủ. Tâm sự của ông đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ông, tìm thấy sự đồng cảm với ông, và nhìn nhận khác hơn về tình cảm của ông.
Điều này giúp chúng ta trân trọng hơn những đóng góp của Nguyễn Trãi, phần nào hiểu rõ nỗi cô đơn, lạnh lẽo mà con người trải qua. Đây là đặc trưng của văn thơ Nguyễn Trãi, với phong cách “tả cảnh ngụ tình” thường thấy trong văn thơ cổ điển thời phong kiến.

3. Tham khảo số 2
Xuân Diệu từng nhận xét về thơ của Nguyễn Trãi rằng “Trán thi sĩ vượt mây nhưng ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm”. Thực sự, thơ của Nguyễn Trãi không ngừng làm người đọc khen ngợi. Bài thơ “Bến đò xuân đầu trại” của ông viết bằng chữ Hán để lại dấu ấn khó phai.
“Đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô châu trấn nhật các sa miên”.
“Bến đò xuân đầu trại” sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, lấy từ tập “Ức Trai thi tập” miêu tả mưa xuân trên bến đò. Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, nơi có cảnh sinh tình, đã “nở hoa trên trang giấy”.
Đầu thơ, ông viết:
“Đầu xuân thảo lục như yên”
(Dịch: Cỏ xuân ở đầu bến đò xanh như khói)
Màu xanh của cỏ như hiện lên. Một màu xanh mơn mởn, tràn đầy sức sống. Sắc xanh trong mùa xuân làm trái tim ta thêm phần háo hức. Thế nhưng, màu xanh bị trộn lẫn bởi sương khói mơ màng. Nó như ẩn hiện, rõ nét nhưng đôi khi lại mơ hồ.
Trong làn sương nhẹ nhàng, Nguyễn Trãi chú ý đến. Ông khác biệt ở chỗ luôn tìm cảm hứng từ những điều nhỏ, thậm chí là hiện tượng bị lãng quên. So sánh làm nổi bật màu xanh trên nền sương khói trắng mơ hồ.
“Xuân vũ thiên lai thủy phách thiên.”
(Dịch: Mưa xuân nước vỗ vào trời)
Mùa xuân mang theo những giọt mưa nhẹ. Nguyễn Trãi có cái nhìn mới khi dùng “thủy phách thiên”. Đó là sự vận động của mùa xuân. Trên bến sông, giọt mưa nhẹ nhàng rơi lên mặt nước và nhẹ nhàng. Mưa không chỉ chạm vào mặt nước mà còn tưới mát cỏ trên mặt đất đã xanh mơn mởn.
“Dã kính hoang lương hành khách thiểu,”
(Dịch: Đường ngoại nội vắng teo ít người đi lại)
Câu thứ ba chuyển cảnh từ thiên nhiên sang con người. Trên đường đồng nội, vốn tưởng nhộn nhịp nhưng thì “thưa”. Bến đò hiu quạnh, vài người lác đác. “Quạnh” nhấn mạnh sự yên bình đến u uất.
“Cô châu trấn nhật các sa miên.”
(Dịch: Thuyền đơn côi suốt ngày gối đầu lên bãi cát ngủ)
Có lẽ, đây là câu thần của bài thơ. Cảnh xuân ở bến đò đẹp đến nhường nào nhưng cảnh người lại buồn bã. Chiếc thuyền đơn côi yên bình trên mặt nước không vị khách “ghé thăm”. Chiếc thuyền này “gối đầu” lên bãi cát ngủ dù trời mưa. Hình ảnh vừa thi vị vừa thơ mộng.
Nhờ tài năng, Nguyễn Trãi đã viết nên bài thơ để đời. Thơ là tiếng lòng. Nếu không xuất phát từ trái tim chân thành, muốn được viết, được chép, được ghi lại khoảnh khắc này thì làm sao có một bài thơ hay như thế. Sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa khiến cảnh và người hài hòa, lắng đọng. Bài thơ thành công diễn tả bức tranh xuân yên bình, ẩn sau đó là tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước.
Vậy nên, qua bài thơ “Bến đò xuân đầu trại”, Nguyễn Trãi mang đến cho người đọc cảm nhận sâu sắc về cảnh mưa xuân dạt dào tình cảm.

4. Tài liệu tham khảo số 5
Bài thơ 'Bến đò xuân đầu trại' của Nguyễn Trãi (thế kỉ XV) được sáng tác khi ông rời xã hội và trở về sống yên bình. Trong tác phẩm, ông đem đến vẻ xuân tươi mới, nhẹ nhàng cho văn hóa thơ ca Việt Nam. Cảm xúc trước vẻ đẹp mùa xuân được thể hiện qua những dòng thơ:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi.”
Nguyễn Trãi mô tả bức tranh xuân với những đường nét giản dị: cỏ xanh, mưa xuân, con đường làng và chiếc đò. Mỗi đường nét đều hòa quyện với tâm hồn quê hương Việt Nam.
Cảnh xuân bên bến sông được tả một cách chân thực: cỏ xanh, mưa xuân, con đường làng, chiếc đò. Mỗi đường nét đều là bức tranh sống động, hòa quyện với tâm hồn quê hương.
Mưa xuân lất phất làm ướt đẫm con sông. Giọt mưa như là những viên ngọc tinh khôi ban cho đất, nước sông hòa nhịp vỗ lên bầu trời. Cảnh xuân tuyệt vời, đầy sức sống.
Trong từng chi tiết của bức tranh xuân là ý xuân, tình xuân dễ thấu hiểu, là tâm sự sâu sắc của nhà thơ.
Những con đường trên đồng nội dẫn tới bến đò vắng vẻ, thiếu khách qua lại. Cảnh vật im lặng đầy nỗi buồn. Mưa xuân kéo dài đã nhiều ngày. Trời mưa, không có khách qua đò. Chiếc đò giờ đây cô đơn, yên bình, được nhân hóa, nằm gối đầu trên bãi cát mà ngủ say.
Chiếc đò trở thành biểu tượng ẩn dụ, mang đậm tâm hồn con người. Chiếc đò giữa bến vắng là nơi ghi lại nhiều tâm tư của tác giả, gợi liên tưởng đến tâm hồn thư thái của nhà thơ trong những ngày ẩn mình: nhàn nhã, thanh thản, bình yên.
Tác giả Nguyễn Trãi sử dụng gam màu tươi sáng để mô tả bức tranh xuân, mỗi chi tiết trong tranh gần gũi với làng quê Việt Nam. Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, trái tim cháy bỏng với tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước. Nguyễn Trãi đã ghi lại vẻ đẹp xuân tươi mới, thăng hoa trên từng dòng thơ của mình.
Văn hóa thơ xuân thời trung đại còn giữ lại nhiều tác phẩm đặc sắc như: Cuối xuân tức sự (Nguyễn Trãi), Xuân (Trần Nhân Tông), Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư)… Tất cả đều là biểu hiện của tâm hồn thanh khiết, yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc.

5. Tài liệu tham khảo số 4
Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn chứa đựng nỗi lòng sâu thẳm của Nguyễn Trãi. Thơ xuân của ông tuyệt vời, như thanh gươm và bình rượu túi thơ kết hợp hoàn hảo với mùa xuân, cỏ cây, hoa lá. Mỗi dòng thơ chứa đựng hương xuân, màu xuân và tình xuân.
Một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi là bài thơ bằng chữ Hán: “Bến đò xuân đầu trại’’ trong tập “Ức Trai thi tập”. Qua bài thơ này, chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc: “Thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ẩn chứa nỗi lòng của Nguyễn Trãi”.
Màu xanh thắm rợp trên bến đò là hình ảnh chủ đạo. Màu xanh như khoảng không gian của cỏ xuân. Cuối xuân, sắc cỏ xanh tưng bừng, làm cho thảm cỏ trở nên “xanh như khoảng không mơ màng”:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi”
Nguyễn Trãi sử dụng so sánh tinh tế để tả đặc điểm của cỏ, làm tôn lên vẻ đẹp và sức sống mạnh mẽ của tự nhiên.
Thơ cổ đã từng có những câu tả sắc cỏ mùa xuân rất đẹp. “Cỏ non xanh tận chân trời…” (Truyện Kiều), “Cỏ biếc um, dâu mướt màu xanh” (Chinh phụ ngâm).
“Lại có mưa xuân nước vỗ trời”
Kết thúc xuân, mưa xuân rơi nhẹ, làm tăng độ cao của dòng nước. Mưa như là những hạt ngọc tinh khôi ban xuống đất, nước sông vỗ lên như nấm mở. Hình ảnh “nước vỗ trời” biểu tượng cho sức sống xuân thắm thiết. Mưa xuân là đặc trưng của mùa xuân Việt Nam, phủ lên mọi vật, làm cho mọi người cảm nhận được sự tươi mới của mùa xuân. Nhưng chỉ Nguyễn Trãi mới cảm nhận và diễn đạt được đầy đủ sức sống của mùa xuân, bằng một lối diễn đạt vô cùng thơ mộng.
Câu thứ ba mở rộng phạm vi miêu tả, đề cập đến những con đường trên đồng quê dẫn đến bến đò. Mưa liên tục, không có du khách nào đi qua. Cảnh vật yên bình tràn ngập nỗi buồn “đường đồng vắng khách”.
Câu thứ tư miêu tả chiếc đò, điểm nhấn chính của bức tranh “Bến đò xuân đầu trại”. Câu chữ Hán: (Thuyền cô đơn suốt ngày nằm ngủ, đầu gối dựa lên bãi cát.
Trời mưa, không có du khách qua đò. Chiếc đò này giờ đây cô đơn, đơn độc. Chiếc đò được nhân hóa, nằm ngủ bình yên, gối đầu lên bãi cát. Câu thơ đẹp, thơ mộng:
“Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”.
Thuyền, con đò thường xuyên xuất hiện trong thơ của Nguyễn Trãi. Con đò dưới ánh trăng, con đò kề bãi tuyết, con đò trong cơn mưa… Những hình ảnh ấy luôn khiến người đọc liên tưởng đến tâm tư của nhà thơ trong những ngày sống ẩn dật: nhàn nhã, thư thái, ung dung, với chút buồn lẻo, cô đơn.
“Nước xanh biếc, non xanh cỏ bãi
Đêm thanh nguyệt trải bạc lên lầu”
“Hương xa vẻo vẻo, thu vân lạnh.
Thuyền nằm kề bãi tuyết, nguyệt lung linh”
(Quốc âm thi tập)
“Bến đò xuân đầu trại” không chỉ là một bài thơ miêu tả cảnh vật mà còn là một tác phẩm chứa đựng tâm sự sâu sắc. Cảnh vật được mô tả với những đường nét đặc sắc. Bức tranh xuân thân thuộc, bình dị, đáng yêu. Nguyễn Trãi hòa mình vào thiên nhiên, truyền đạt tâm hồn của mình vào cảnh vật. Qua bài thơ, chúng ta cảm nhận rõ ràng “thiên nhiên không chỉ là nguồn cảm hứng mà còn ổn chứa nỗi lòng của ức Trai”. “Bến đò xuân đầu trại” là một kiệt tác thơ.
