Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Mỗi lần một nghệ sĩ độc đáo hiện hữu, thế giới lại tạo nên một lần. Nghệ sĩ độc đáo mang theo phẩm chất và tài năng đặc biệt, mỗi sự xuất hiện của họ là việc khám phá một thế giới mới, một cách độc đáo nhìn nhận thế giới và con người. Tố Hữu, nhà thơ của lý tưởng và cộng sản, đã đem đến làng thơ Việt Nam một phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông kết hợp trữ tình, chính trị, sử thi và lãng mạn, thấm nhuần tinh thần dân tộc. Bài thơ Việt Bắc, tượng trưng cho tình yêu quê hương, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp.
Việt Bắc, nơi làm nền cho chiến dịch Điện Biên Phủ và là căn cứ chiến lược của cách mạng Việt Nam, đã đánh bại Pháp. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc được giải phóng và bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những chiến sĩ kháng chiến như Tố Hữu từ miền núi về miền xuôi, chia tay quê hương, chia tay căn cứ chiến lược.
Bài thơ Việt Bắc triển khai lối kết cấu đối đáp giữa kẻ, người đi một cách tự nhiên và khéo léo. Câu hỏi của người ở lại gợi lên biết bao ký ức, kết nối kỉ niệm và gọi lại những cảm xúc ngọt ngào. Lời thơ đặt ra câu hỏi với ngữ điệu nghi vấn và cảm thán, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và ám ảnh. Câu 'Nhớ gì như nhớ người yêu' so sánh nỗi nhớ với người yêu, tình tứ và lãng mạn. Nỗi nhớ Việt Bắc trở thành một đoạn nhạc tình ca, là sức hút tuyệt vời của thơ Cách mạng. Xuân Diệu đã đánh giá đúng khi nói rằng Tố Hữu đã nâng thơ chính trị lên đến một tầm cao trữ tình.
Thơ như một bức tranh tượng trưng về cảnh đẹp dịu dàng của Việt Bắc:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa, bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Câu thơ như một bức tranh tuyệt vời về rừng Việt Bắc, với trăng lung linh trên đỉnh núi, nắng chiều ôm trọn lưng cảnh nương, và những hình ảnh gần gũi của người dân Việt Bắc. Hình ảnh bếp lửa và sự trở về của người thương tạo nên những buổi đoàn tụ ấm áp, thể hiện tình quân dân đầy ắp yêu thương và những giai điệu của tình cảm gia đình.
Kết thúc bài thơ, tình cảm lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc:
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi
Bản thơ thể hiện rõ tình cảm nhớ thương sâu sắc của người kháng chiến Việt Bắc, là biểu tượng của tình yêu quê hương và những người dân hi sinh cho cách mạng. Bằng bài thơ lục bát, nhẹ nhàng và uyển chuyển, Tố Hữu đã tạo ra một tấm lòng nhớ mãnh liệt và vô tận.
Hình minh hoạ mới
3. Bài tham khảo mới số 4
Tố Hữu, một nhà thơ của lý tưởng và cộng sản, đặt dấu ấn riêng trong làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông không chỉ trữ tình và lãng mạn mà còn chứa đựng hơi thở của dân tộc, của cách mạng. Bài thơ nổi tiếng của ông, 'Việt Bắc,' là biểu tượng cho tình cảm và tinh thần yêu nước của con người Việt Nam. Trong bài thơ, mối liên kết qua lối kết cấu đối đáp giữa người ở và người đi đã khơi nguồn kí ức đầy xúc cảm. Đoạn thơ 8 câu này đã sử dụng từ 'nhớ' tới bốn lần, tạo nên điệp khúc cuốn hút mọi tâm trí với nỗi nhớ da diết.
Đúng vậy, hiếm có thi sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng sau khi rời khỏi chiến khu Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Nỗi nhớ này không thể kìm nén, được thể hiện với sự đặc biệt qua ngôn ngữ thơ, làm lay động lòng độc giả. Hình ảnh so sánh 'Như nhớ người yêu' tạo nên bức tranh lãng mạn, tình cảm, và ám ảnh. Lời thơ buông ra với ngữ điệu đặc sắc, kết hợp giữa nghi vấn và cảm thán, gửi gắm tới độc giả sức mạnh tưởng tượng và xúc cảm.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa:
'Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương'
Bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được tô điểm bằng những hình ảnh tinh tế và gợi cảm từ bài thơ. Trăng huyền ảo, chiều nắng tắt dần trên cánh đồng, những hơi khói và sương mỏng bay lượn, tất cả như hòa quyện trong bản thơ, tạo nên không khí thơ mộng và đậm chất quê hương.
'Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.'
Hình ảnh những cô gái Việt Bắc nuôi quân với sự chịu khó, tận tụy và lòng thương yêu ấm áp. Bếp lửa không chỉ là nơi nấu ăn mà còn là biểu tượng của tình thương quê hương. Sự gắn bó giữa quân dân và chiến sĩ làm nổi bật tinh thần đoàn kết và yêu thương như một gia đình.
Điều quan trọng là nỗi nhớ không chấm dứt, mà ngược lại, nó ngày càng trở nên mạnh mẽ và đậm sắc mỗi khi kỷ niệm về Việt Bắc hiện về:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Đoạn thơ cuối cùng khắc họa hình ảnh đồi tre, dòng suối, sông Đáy và suối Lê như những dấu vết không thể quên trong trái tim người đi. Những địa danh này không chỉ là nơi, mà còn là biểu tượng của những kỷ niệm da diết, yêu thương và lòng nhớ mãi không phai.
Tố Hữu, nhà thơ cách mạng vĩ đại, là “chim đầu đàn” của thơ ca Cách mạng thế kỷ 20. Cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với những năm kháng chiến đ heroic của dân tộc. Bài thơ nổi tiếng của Tố Hữu như “Việt Bắc” là tác phẩm xuất sắc thể hiện tình yêu quê hương, nhân dân và tình cảm thủy chung với chiến sĩ cách mạng.
Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi vềNhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối lê vơi đầy.Ta đi ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.Nhớ người mẹ nắng cháy lưngĐịu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.Việt Bắc, nơi gắn bó với cuộc chiến cách mạng, là mảnh đất hào hùng đã gìn giữ những kí ức và tình cảm sâu sắc của những chiến sĩ cộng sản, đảng viên và nhà nước trong suốt 15 năm kháng chiến. Bài thơ của Tố Hữu thể hiện lòng biết ơn, tình cảm và sự chia sẻ với những người dân của Việt Bắc, nơi mà tình yêu và ký ức ngọt ngào rơi vào mỗi dòng thơ, mỗi hình ảnh quen thuộc.
Tố Hữu, một ngôi sao sáng trong bản hội ca cách mạng Việt Nam, để lại dấu ấn mãi mãi qua tác phẩm nổi tiếng như Việt Bắc. Bài thơ lưu lại nỗi nhớ, tình yêu thương của nhà thơ với miền đất anh hùng, nơi đã là chứng nhân cho chiến công vẻ vang trong lịch sử cách mạng. Nhớ gì như nhớ người yêu, Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, những hình ảnh tình cảm ấy đọng mãi trong tâm hồn mỗi con người yêu nước.
'Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”Tố Hữu dùng từ ngôn ngữ dân dụ, tình cảm hóa để kể lại câu chuyện của những người con Việt Bắc, bản hòa ca đậm chất nhân dân, nồng thắm như khúc hát thổn thức về quê hương. Việt Bắc - mảnh đất tình yêu, tình quê hương được trải lòng qua từng câu thơ, khiến cho bất kỳ ai đọc cũng như lạc mình giữa không gian tình người, tình đồng bào.'Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùngNhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngôNhớ sao lớp học i tờÐồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoanNhớ sao ngày tháng cơ quanGian nan đời vẫn ca vang núi đèo.Nhớ sao tiếng mõ rừng chiềuChày đêm nện cối đều đều suối xa...”Những dòng thơ đặt ta giữa khung cảnh huyền bí, những ký ức quý báu của Tố Hữu. Người mẹ với đôi bàn tay chân thành, làm nên hạnh phúc giản đơn, và lớp học i tờ, đèn đuốc lung linh trong đêm, là những khoảnh khắc kiến thức và tình thương được truyền đạt qua từng nén hương đất Việt. Điệp khúc nhớ thương giữa những con người gian nan, giữa những nỗi đau thương và niềm vui nhỏ bé, đã làm nên hồn quê hương, hồn Việt Bắc huyền bí và chất chứa.'Đọc đoạn thơ của Tố Hữu, lòng chúng ta không chỉ xao xuyến trước vẻ đẹp của từng dòng văn, mà còn rộn lên trong tim niềm tự hào về mảnh đất Việt Bắc anh hùng, nơi có những con người tuyệt vời và có những câu chuyện đáng nhớ. Việt Bắc đã là nguồn cảm hứng bất tận cho những người con cách mạng, và Tố Hữu là nhà thơ tài năng với bàn tay và tâm hồn nhạy bén, lắng đọng lại tất cả trong những câu thơ đẹp nhất về quê hương yêu dấu.
Tố Hữu, một tên tuổi quen thuộc với những người yêu thơ. Tố Hữu không chỉ là nhà thơ, mà còn là biểu tượng tiêu biểu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Tính cách chính trị và tâm hồn nghệ sĩ hòa quyện trong từng tác phẩm của ông, và Việt Bắc là một minh chứng rõ ràng nhất cho điều này. Bài thơ này ghi chép về những tình cảm sâu sắc, những ký ức đậm đà của một cán bộ với vùng đất Tây Bắc hùng vĩ. Dưới đây là đoạn thơ thể hiện sự nhớ nhung của tác giả với cuộc sống, con người và thiên nhiên Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bàn khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi vềNhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầyTa đi ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cây ngọt bùi”Việt Bắc, với vai trò là căn cứ của Cách mạng, là tâm hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ VIệT BắC, sáng tác vào khoảng tháng 10/1954, lúc Đảng và chính phủ rời khỏi Tây Bắc, là một tác phẩm dài mô tả tình cảm lưu luyến của cán bộ và nhân dân, là sự khẳng định thâm thiết về tình cảm của người cán bộ với Việt Bắc, với cuộc kháng chiến và cách mạng. Đoạn trích này nằm ở khổ ba của phần I bài thơ, nói về kỷ niệm và nỗi nhớ với thiên nhiên và con người Việt Bắc.Một nỗi nhớ sâu sắc, không nguôi được tác giả mô tả lạ:“Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”Chữ “gì” ẩn chứa nhiều ý nghĩa, có lẽ là nỗi nhớ về thiên nhiên, về những con người và thời kỳ kháng chiến đầy kỷ niệm. Nhớ “như nhớ người yêu”, so sánh tinh tế, nỗi nhớ dường như không có điểm dừng, luôn hiện hữu trong tâm trí. Khung cảnh tuyệt vời hiện ra, khẳng định rõ về đối tượng của sự nhớ - Việt Bắc:“Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” và sau đó là mô tả tuyệt vời về không gian núi rừng Việt Bắc:“Nhớ từng bàn khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về”Hình ảnh thiên nhiên được mô tả chi tiết từng điều. Rõ ràng tác giả vẫn giữ trong lòng những ký ức về Việt Bắc. “Người thương”, chỉ hai từ nhưng chứa đựng rất nhiều tình cảm. Đây là những con người ở Việt Bắc, đã chăm sóc và che chở cho cán bộ trong những thời kỳ khó khăn. “Bếp lửa” - biểu tượng của một gia đình ấm cúng, có lẽ đây là gia đình thứ hai của tác giả.Vần chân “sương” và “người thương” tạo nên giọng điệu da diết, mô tả một nỗi nhớ không muốn phai nhạt. “Nhớ” được nhắc lại, khẳng định thêm sự nhớ nhung của tác giả đối với Việt Bắc.“Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”Dù là những nơi nhỏ trong vùng núi rừng Việt Bắc, nhưng đối với tác giả, chúng trở nên quan trọng, không bao giờ có thể quên.“Ta đi ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cây ngọt bùi”Dù có ở đâu, tác giả vẫn giữ mãi trong trái tim những ký ức về “mình”. Từ ngôn từ giản dị nhưng thân thiện. “Mình” và “ta”, những từ này làm nổi bật thêm sự thân thiện và quen thuộc. Không thể quên những thời khắc “đắng cây ngọt bùi” đã trải qua. Từng cảm xúc như là những tia nước trong lòng Tố Hữu, như tình yêu thương đối với “người thương”.Đoạn thơ tràn đầy nét dân tộc, phản ánh rõ hồn thơ của Tố Hữu. “Nhớ” và sự so sánh đặc biệt làm nổi bật nét nhớ, tình cảm chung thủy của người cán bộ với nhân dân, thiên nhiên Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến. Sự sáng tác tài tình của Tố Hữu đã thành công trong việc thể hiện tình cảm của người cán bộ với quê hương thứ hai - Việt Bắc.