- - Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng đọc giả qua nhiều thế hệ, thể hiện tâm trạng của thanh niên trí thức đối diện với cuộc sống.
- - Bài thơ mô tả con hổ, biểu tượng của sức mạnh và tình yêu nước, để thể hiện niềm tự hào và niềm tin vào tự do.
- - Con hổ trong bài thơ không chịu đầu hàng, giữ được niềm kiêu hãnh và khao khát thay đổi.
- - Bài thơ tạo ra sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật và tâm hồn, thể hiện tinh thần từ chối hiện thực và mong muốn tự do vô hạn.
Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ, tác phẩm nổi tiếng thuộc phong trào Thơ mới, đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng đọc giả qua nhiều thế hệ. Thế Lữ, một nhà thơ tài năng, đã sáng tạo bằng cách mô tả con hổ, biểu tượng của sức mạnh và tình yêu nước, để thể hiện tâm trạng của thanh niên trí thức đối diện với những thách thức của cuộc sống.
Bài thơ không chỉ là một diễn đàn cho tình yêu quê hương mà còn là cuộc phiêu lưu tinh thần, khám phá bản ngã và tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Cùng điểm qua những bài văn phân tích tâm trạng con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ để hiểu sâu hơn về sự sáng tạo và tầm ảnh hưởng của tác phẩm này.
Minh họa
Với hình tượng của chú hổ trong khu vườn thú, được mô tả như một linh hồn hung dữ, vĩ đại, đầy mạnh mẽ và lòng ham muốn, Nhớ rừng đã gắn bó với những sáng tác vĩ đại từng tạo nên những kiệt tác văn chương. Điều hiển nhiên, không ai dám sánh bước chú hổ trong bài thơ với những nhân vật vĩ đại như Prometheus bị trói buộc, Hamlet hay Người tù xứ Cacadu. Nhớ rừng chỉ là tiếng kêu than đau đớn của một linh hồn đã mất hết niềm tin vào tự do, mất đi khát vọng chiến thắng. Chú hổ trong bài thơ không thể làm gì khác ngoài việc 'nằm dài' trong lồng sắt, để 'quan sát ngày tháng trôi đi', và kể về thời kỳ quang trọng đã mất đi như những tháng ngày không bao giờ quay lại. Không có khao khát truyền thống trong nó, như nguyên tác anh hùng Nguyễn Hữu cầu diễn đạt trong những dòng thơ tràn ngập hùng vĩ:
Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.
Có lẽ sẽ không là quá mạnh mẽ nếu nói rằng hình ảnh của chú hổ trong Nhớ rừng đã tạo ra tư thế cho những con người không còn ý chí hành động, những người nhiệt tình tham gia vào cuộc cách mạng, những người có ước mơ đóng góp vào một sự thay đổi mà họ không bao giờ thấy. Nhớ rừng chỉ là giọng nói đau lòng của người đã mất hết hy vọng tự do, đã mất hết ước mơ chiến thắng. Chú hổ ở đây không thể làm gì khác ngoài việc 'nằm dài' trong lồng sắt, để 'quan sát ngày tháng trôi đi', và nói về thời kỳ quang trọng đã mất đi như những tháng ngày không bao giờ quay lại. Cũng không có trong nó khát vọng truyền thống mà anh hùng Nguyễn Hữu đã miêu tả trong những dòng thơ hùng vĩ:
'Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.'
Thế nhưng, chú hổ, biểu tượng tâm điểm của bài thơ, mặc dù bị mất tự do, nhưng vẫn giữ được niềm kiêu hãnh. Trong sự đau đớn, trong tình trạng 'bị giam giữ', trong sự 'nhục nhã', chú vẫn biết phân biệt bản thân mình với những người đã hoàn toàn trở nên bình thường đến cả tinh thần. Ở đây, vấn đề không phải là xem xét 'hành động của đám đông' của chú hổ, chỉ trích nó 'không có bất kỳ sự ưu ái nào đối với những con vật như chú gấu, chú báo cùng số phận với nó và nằm ngay gần lồng của nó', như một số người đã phê phán. Ở đây, giống như chim trong lồng, giống cả Prometheus bị trói và Hamlet, sự đối lập giữa hai loại người, hai cách sống là cách mà nghệ thuật thường sử dụng để làm nổi bật chiều cao và làm sâu sắc cảm hứng đầy bi thương của một tâm hồn bị đau đớn, quyết không chấp nhận sự không hạnh phúc.
Thế Lữ, ít nhất một lần trong đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một biểu tượng thơ như vậy. Chú hổ trong Nhớ rừng biết rằng mình đã thất bại trong cuộc chiến, nhưng vẫn không chịu trở thành tôi tớ cho sự 'bình thường, giả dối' của ngục tù. Chú vô dụng, nhưng không hoàn toàn đầu hàng và thoả hiệp. Nó vẫn 'ghét những hình ảnh không bao giờ thay đổi', có nghĩa là vẫn mong muốn sự thay đổi. Bị giam cầm trong lồng sắt chật chội, chú vẫn cố gắng đạt tới những bờ cõi rộng lớn của thế giới với 'giấc mơ càng lớn lao', và của thời gian với 'nỗi oan trái ngàn thu'. Bài thơ, cuối cùng, vẫn thể hiện tinh thần, từ chối hiện thực, thậm chí là từ chối trong giấc mơ.
Sự xung đột, sự đối lập không dung hòa giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật và tâm hồn, giữa thấp kém và cao thượng chính là cơ sở của toàn bộ bài thơ. Cảm giác đối lập được thể hiện trong từng gam màu nghệ thuật, thiên nhiên hùng vĩ trở thành bối cảnh để làm nổi bật sức mạnh tối thượng của vị chúa sơn lâm.
Điều này không chỉ là một tuyên ngôn mạnh mẽ cho Phong trào Thơ mới, Nhớ rừng còn là một đóng góp không thể phủ nhận cho sự tiến triển của thơ ca nước ta.
Đây là hy vọng cuối cùng của người đã cảm thấy tuyệt vọng trước 'nơi thiên đàng đã mất'. Nhớ rừng không chỉ nằm trong phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn thông thường, mà còn là sự phản kháng chặt chẽ, từ chối hiện thực, thậm chí là từ chối trong giấc mơ.
Hình ảnh minh họa
3. Tài liệu tham khảo số 2
Biểu tượng của chú hổ trở nên trung tâm trong bài thơ 'Nhớ Rừng' của Thế Lữ. Nỗi 'Nhớ rừng' của nó được thấm đẫm qua từng câu chữ, từng ý nghĩ, tạo nên một cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc.
Không phải là một kí ức mờ nhạt, nỗi nhớ ở đây trở nên mãnh liệt, thậm chí dữ dội trên nhiều khía cạnh của tình cảm. Đây không chỉ là nỗi nhớ của một kẻ tầm thường, mà là nỗi nhớ của một anh hùng, người đã trải qua số phận đau thương.
Ngay từ đầu bài thơ, nó tỏ ra đau đớn với số phận không công bằng của mình: 'Cảm giác căm hờn nặng trĩu trong chiếc lồng sắt...' vì phải đối diện với sự 'sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm'. Nó chán ghét khi phải trở thành 'đồ chơi cho đám người có 'đôi mắt nhỏ', những người tự phụ và đầy kiêu hãnh. Nó từ chối sống 'bên bờ bầy gấu ngốc nghếch'.
Nó tỏ ra căm hờn! Tâm trạng nhục nhã tràn ngập! Nó căm ghét tất cả! Bởi vì nó bị giam cầm trong chiếc lồng sắt.
Nỗi nhớ rừng của chú hổ trở nên mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn khi nó hồi tưởng về những thời kỳ hoàng kim của mình, với tình trạng tiếc nuối đầy luyến tiếc. Nó nhớ lại những hình ảnh tuyệt vời, những âm thanh vang vọng của núi rừng:
'Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội'.
Giữa cảnh đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, nó hiện lên như một vị thần của núi sơn. Từ 'bước chân' 'dõng dạc' đến 'lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng', từ ' vờn bóng âm thầm' đến 'quắc đôi mắt thần' làm sáng rực cả hang tối, nó là 'chúa tể của muôn loài', khiến mọi thứ phải 'im hơi' lặng lẽ. Nó nhớ những kỷ niệm trong cuộc sống hàng ngày ở khu rừng sâu, nhớ đến niềm khao khát, niềm hứng khởi khi săn mồi dưới ánh trăng:
'Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan'
Những khoảnh khắc ngọt ngào khi bình minh ban mai và tiếng hát của các loài chim rừng rộn ràng. Những lúc chờ đợi mặt trời lặn để nó có cơ hội chiếm đất đai cho mình. Những khoảnh khắc tận hưởng vẻ đẹp của núi non sau cơn mưa rừng dồn dập. Tất cả, đối với nó, là những thời khắc của sự oanh liệt.
Nhưng thời kỳ huy hoàng ấy giờ chỉ còn là quá khứ. Nó chỉ biết thốt lên một tiếng than thảm: Than ôi! Thời kỳ huy hoàng đã ở đâu rồi?!'. Đối diện với số phận bất công, nó càng thể hiện thái độ khinh bạc, coi thường cuộc sống giả tạo đang diễn ra xung quanh:
'Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang, tầm thường giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng…'
Nó thậm chí còn 'học đòi, bắt chước vẻ hoang vu, của chốn ngàn năm cao quý, âm u'. Coi thường hiện tại, nó mong ước trở lại với vùng đất hùng vĩ để chiếm lấy sơn lâm, quay trở lại cuộc sống tự do, phóng khoáng, đắm chìm trong sự tự do vô hạn, thỏa sức tung hoành. Nhưng sự thực, nó đang bị giam giữ trong 'chiếc lồng sắt'. Chúa sơn lâm đành phó thác tâm hồn mình vào 'giấc mơ ngàn' để được sống những khoảnh khắc oanh liệt, để đối mặt với những ngày buồn chán 'ảm đạm' của mình. Con hổ nhớ rừng, nhớ một quá khứ huy hoàng chính là vì sự chán chường trước cuộc sống mà nó đang phải trải qua, nơi mà tự do đã bị tước đoạt.
Tâm trạng của chú hổ cũng là tâm trạng của tác giả, của một tầng lớp trong xã hội thời kỳ đó (1931 -1935) cảm thấy bế tắc trước thực tế, chán chường với hiện thực, mong muốn một cuộc sống tự do, mặc dù họ chưa rõ hướng đi. Điều này là một thái độ đáng trân trọng và quý giá.
Hình minh hoạ mới
Thế Lữ, một bậc thầy trong dòng thơ Mới, hiện hữu như ngôi sao sáng trên bầu trời thơ Việt. Ông không đi vào cuộc tranh luận về thơ Mới, không lạc quan đánh đồng, không giảng giải. Thế Lữ, như ánh sao lấp lánh, điều khiển sự chú ý của cả thi sĩ cũ và mới.
Nhìn vào bài thơ Nhớ rừng, những chữ viết của Thế Lữ như bước chân của con hổ giữa rừng xanh. Đó là thế giới tâm linh của chúa sơn lâm, là cảm xúc biểu đạt một cách không thể chối cãi.
Ngay từ đầu, bức tranh được mở ra:
'Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.'
Con hổ, bị giam cầm, bộc lộ niềm căm kìm lại từng chút, 'gậm' từng mảnh nhỏ khối căm hờn. Câu thơ đơn giản, nhưng chứa đựng cả một thế giới tâm lý sâu sắc của chúa sơn lâm.
Qua những dòng thơ, chúng ta nhìn thấy con hổ hồi tưởng về những khoảnh khắc hoàng kim:
'Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.'
Thế giới thơ của Thế Lữ như một cuộc phiêu lưu, một hành trình trở lại quá khứ đẹp đẽ, với những ký ức rực rỡ như ánh mặt trời đầu tiên.
Chúa sơn lâm, dù bị nhốt trong vườn bách thú, vẫn giữ nguyên vẻ uy nghi, oai phong:
'Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng.'
Đó là hình ảnh của một chúa tể, một vị thần, mặc cho mọi khó khăn, con hổ vẫn giữ vững vị thế của mình.
Nhưng cuộc hành trình về quá khứ cũng là hành trình về hiện tại đau buồn:
'Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?'
Trong những dòng thơ cuối cùng, nỗi buồn chi phối khi chúa sơn lâm nhìn nhận hiện tại, nơi không còn những giây phút huy hoàng ngày xưa.
Thế Lữ, thông qua bài thơ này, không chỉ làm sống lại thế giới của con hổ mà còn làm sống lại những cảm xúc, suy tư của chính nhà thơ. Bức tranh Nhớ rừng không chỉ là hình ảnh của một con hổ, mà là tâm hồn, là trí tưởng tượng, là niềm đam mê của một thế hệ.
Ảnh minh họa
5. Tài liệu tham khảo số 4
Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn “lời con hổ ở vườn bách thú”? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hóa thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.
Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự “không đổi thay” của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ lệch và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất khôn nguôi chạy dọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.
Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hòa, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị “sa cơ”, lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là ngang bầy, là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, với bọn “gấu dở hơi”. Ý thức về sự không thể “ngang bầy” nay đang phải chịu “ngang bầy” tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:
Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phải nói đến âm điệu. Ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn ở đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm. Nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức cộng với bất lực buông xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chói tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những âm thanh bằng xuôi tai, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của nỗi đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói về loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.
Một sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Có lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là “trò lạ mắt, thứ đồ chơi”. Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự thay đổi vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự “học đòi bắt chước vẻ hoang vu”, nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém…
Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn ra sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.
Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực độc khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: “Nơi ta không còn được thấy bao giờ”, “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”. Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng — nguồn cội của niềm tự hào khi “hầm thiêng” đang là bá chủ.
Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao. Cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát “một khối căm hờn” không gian của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc họa, làm nổi bật chủ thể trữ tình là nhân vật tự gọi là “ta” nhưng thực chất là “cái tôi” bừng thức, “cái tôi” trung tâm của một “thời oanh liệt”. Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với “bóng cả”, “cây già”, khi thì bóng tối âm thầm với “lá gai cỏ sắc”, cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu “Ta biết ta chúa tể cả muôn loài”. Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ”. Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho “tình thương nỗi nhớ” ấy dài ra:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…
Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thắt nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những câu “đầu” như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…
Đâu những bình minh…
Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.
Hình tượng con hổ vừa là thi sĩ vừa là bậc đế vương rực rỡ lên trong ánh chiều sắp lặn, chiều kích, tầm cỡ con hổ cứ lớn dần lên. Sự vận động đầy tính bất ngờ và biến ảo tạo được những câu thơ thật hay, với bài thơ nói riêng, với cuộc cách mạng nhằm hiện đại hóa thơ nói chung thời ấy. Nhiều người khen đoạn thơ như một bức tranh tứ bình có cả đêm, ngày, sáng, tối. Nhưng có lẽ cần chú ý nhiều hơn đến hồn chữ, hồn thơ. Đêm vốn là đêm tối (bóng âm thầm, hang tối) trở thành đêm vàng thơ mộng, vẫn là con suối ngàn sâu và ngàn xưa nhưng lộng lẫy hẳn lên. Nó truyền dẫn được vào tâm hồn con hổ, để là con hổ thi nhân (“Ta say mồi đứng uống ánh trăng tàn”). Cũng vậy, “ngày mưa” vốn buồn bã, đìu hiu, đơn điệu biết chừng nào, nhưng với một tâm hồn vừa mới được gột rửa để không còn là trần tục nữa, con hổ có một cái say khác, lặng lẽ thôi mà rạo rực ở bên trong: “Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”. Trong bài thơ có hai câu thật sự mới mẻ trong cách đặt câu thì một dành cho hai đoạn: (“Với khi thét khúc trường ca dữ dội”), còn một cho đoạn ba: “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”. Đây là hai trường hợp dùng đảo ngữ rất đắt, nó tạo được cái hình ảnh kì lạ, lớn lao của loài hổ: Hoặc với nó, thiên nhiên phải nâng tầm lên cho tương xứng, hoặc nó không chỉ là nó, nó đang vươn tới cái chiều kích vũ trụ, cái vô tận vô cùng.
Đoạn năm của bài thơ, như trên đã phân tích, vẫn tràn chảy trong dòng hoài niệm, nhưng cái ảo của quá khứ xa xôi dần dần đã bị cái thực thay vào. Mà đã thực thì đâu còn là thơ nữa. Quá khứ không tồn tại trong dạng hình ảnh chính là vì thế. Chỉ là ý tưởng trong câu “Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ”. Còn câu “Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa” cũng chỉ là lặp lại câu “Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”. Cái thực khi hiện ra chỉ còn sự chật chội, tù túng, còn ước mơ, còn tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng ngậm ngùi đau xót bao nhiêu:
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi…
Bất lực, bế tắc, tất cả chỉ còn là một ước mơ hão huyền. Nhưng con hổ dù mất môi trường sống của loài hổ vẫn giữ được một niềm tin, không thỏa hiệp với hoàn cảnh bị tước đoạt và đổi thay. Cái còn lại ấy vẫn là một cái gì đáng quý.
Hình vẽ minh họa