1. Bài phân tích 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 1
Ngôn ngữ mẹ - nguồn sức mạnh giải phóng cho các dân tộc bị áp bức dưới hệ thống bài viết của Nguyễn An Ninh, nhằm thức tỉnh tinh thần cộng đồng bằng cách kết hợp tinh hoa văn hóa quốc tế và bảo vệ, giữ gìn tiếng mẹ. Bài viết này được xem là bài phê bình xuất sắc của tác giả có bút danh Nguyễn Tịnh trên trang báo Tiếng chuông rè (1925).
Đoạn mở đầu bằng việc phê phán thái độ 'ưa bập bẹ bằng tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng mạch lạc bằng tiếng mẹ '. Đây là loại học thuật gọi là học thuật Pháp bồi, chỉ chú trọng vào 'nhặt nhạnh những điều bình thường ' để tạo ra một hình thức để ép buộc người khác 'tin rằng họ đã theo dạng Tây phương'. Những người học theo phong cách này không chỉ thiếu kiến thức cần thiết mà còn không thể hiểu đúng các nền văn hóa 'ngoại bang ' khác. Nguyễn An Ninh gọi đó là 'Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu'.
Ông chỉ trích cách học đó và chỉ ra sự căng thẳng mà những người học kiểu 'Tây học' cố ý tạo ra: 'Kiến trúc và trang trí căng của những ngôi nhà ở An Nam được mô phỏng theo văn minh Pháp, chứng tỏ người An Nam bị Tây hóa không có văn minh gì'. Hậu quả của việc này là: 'Từ bỏ văn hóa tổ tiên và tiếng mẹ phải khiến người An Nam lo lắng về bản sắc'.
Sau đó, ông phân tích bản chất của tiếng mẹ, ngôn ngữ dân tộc. Ông chỉ ra lợi ích thực tế của việc bảo vệ tiếng mẹ, sử dụng tiếng mẹ: 'Ngôn ngữ là biểu tượng bảo vệ độc lập quý báu của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị áp bức'. 'Vì vậy, đối với người An Nam, từ chối tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối tự do của bản thân'. Tại sao lại như vậy? Bởi vì: 'Nếu người An Nam giữ gìn tiếng nói của mình và làm cho nó phong phú hơn để có khả năng lan truyền tại An Nam các tư tưởng đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ là vấn đề thời gian'. Do đó, học châu Âu không chỉ để đạt được một số từ vựng mà còn để hấp thụ tri thức, các ý thức lớn, hấp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại để tìm ra hướng đi phù hợp cho dân tộc mình, là sử dụng lý thuyết của phương Tây để đối đầu với chính phương Tây.
Ông chỉ trách những người phê phán tiếng Việt nghèo nàn và chỉ ra rằng những lời trách cứ như vậy không có cơ sở. Bởi vì những người đó: 'Chúng chỉ biết những từ thông dụng trong ngôn ngữ và còn nghèo hơn cả phụ nữ và nông dân An Nam. Ngôn ngữ của Nguyễn Du có nghèo hay giàu?' Từ đó, ông đặt ra câu hỏi, buộc những người có tâm hồn yêu nước phải suy nghĩ: 'Nghèo của ngôn ngữ hay vấn đề không tài năng của con người?'. Ông chỉ ra thái độ không chịu trách nhiệm, thái độ phủ nhận một chiều của những người tự nguyện làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân, bởi vì chê bai đất nước một cách thụ động, đơn giản, một chiều, sẽ dẫn đến thái độ khinh rẻ đất nước, dẫn đến tình cảm tự ti của dân tộc.
Từ đó, ông đề xuất học ngoại ngữ để trưởng thành: 'Chúng ta không tránh xa châu Âu, trách nhiệm lãnh đạo của giới trí thức buộc họ phải hiểu ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để đồng cảm với châu Âu. Nhưng kiến thức họ thu thập không thể giữ cho bản thân. Cộng đồng của họ cũng phải được hưởng lợi. Tuy nhiên, việc biết một ngôn ngữ châu Âu không nên dẫn đến việc từ bỏ tiếng mẹ. Ngược lại, ngoại ngữ họ học phải làm phong phú hơn cho ngôn ngữ mẹ của họ'. Thực tế mấy chục năm sau khi đất nước độc lập đã chứng minh mong muốn này của Nguyễn An Ninh. Từ đó, bảo vệ tiếng mẹ và tiếp thu văn hóa quốc tế không phải là mâu thuẫn mà là bổ sung cho nhau.
Nổi bật ở đây là nghệ thuật lập luận sắc bén. Trước hết, cần nói đến khả năng tư duy lý tính theo mô hình tư duy phương Tây, đặc biệt là kiểu tư duy khoa học của người Pháp mà Nguyễn An Ninh học được từ trường Pháp, có đóng góp quan trọng cho cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề về tiếng mẹ. Sau đó, tác giả liệt kê các khía cạnh khác nhau của vấn đề tiếng mẹ và giao trách nhiệm chung cho toàn bộ xã hội, đặc biệt là những người có kiến thức, những người học châu Âu, để phát triển tiếng mẹ, ngôn ngữ chung của dân tộc. Bảo vệ tiếng mẹ không chỉ dừng lại ở việc biết hoặc thường xuyên sử dụng mà còn phải làm cho ngôn ngữ đó phát triển, bằng cách chấp nhận các khái niệm mới, bổ sung và hoàn thiện từ vựng của dân tộc, sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt các ý thức tiến bộ về 'đạo đức và khoa học' để mở đường cho sự phát triển của dân tộc.
Lập luận chặt chẽ này thuyết phục vì đối tượng chính tác giả nhắm tới là đội ngũ trí thức học châu Âu, nhằm đánh thức họ, đặt họ trước trách nhiệm lịch sử của cộng đồng. Do đó, việc bảo vệ tiếng mẹ cũng là hành động yêu nước, lòng yêu nòi.

2. Bài phân tích 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 3
Nội dung chính của bài chính luận về Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức của Nguyễn An Ninh thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực ngôn ngữ nói chung. Tác giả đưa ra nhận xét tinh tế về cách người An Nam sử dụng cả tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (ở đây là tiếng Pháp); giải thích sâu sắc và đề xuất những giải pháp phù hợp cho việc học tiếng nước ngoài của giới trí thức Việt Nam thời điểm đó.
Quan trọng nhất là bài chính luận đã thể hiện quan điểm chính xác của Nguyễn An Ninh về tiếng nói dân tộc từ nhiều khía cạnh. Ông chống lại thái độ Tây phương kiêu căng của một số người An Nam thời điểm đó. Thói quen này làm tổn thương tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Nguyễn An Ninh phê phán quan điểm sai lầm rằng tiếng nước mình nghèo nàn. Mặc dù ông tôn trọng tiếng Việt, nhưng vẫn khuyến khích giới trí thức học tiếng nước ngoài.
Ông có quan điểm hoàn toàn chính xác rằng “Việc biết một ngoại ngữ châu Âu không đồng nghĩa với việc bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, việc học một thứ tiếng nước ngoài phải làm giàu cho ngôn ngữ của chúng ta”. Ông tôn trọng sức mạnh của tiếng nói dân tộc, coi đó là người bảo vệ cho độc lập dân tộc, như là yếu tố quan trọng để giải phóng dân tộc. Những quan điểm này của Nguyễn An Ninh về tiếng mẹ vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt từ góc độ văn hóa.
Ngôn ngữ đặc sắc trong Truyện Kiều, một kiệt tác văn chương được đánh giá đã thể hiện sâu sắc và phong phú nhiều khía cạnh của cuộc sống con người. Tác giả đặt câu hỏi khẳng định: “Tại sao người An Nam có thể dịch tác phẩm Trung Quốc sang tiếng mình, nhưng lại không thể viết ra những tác phẩm tương tự”. Một suy luận logic và hoàn toàn có lý. “Ở An Nam, như ở mọi nơi khác, ai suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng và dễ dàng tìm thấy từ ngữ để diễn đạt ý”
Tuy nhiên, trong bài luận của mình, có những lúc Nguyễn An Ninh đánh giá quá cao vai trò của tiếng mẹ đẻ, đôi khi tỏ ra tuyệt đối hóa: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Hai chữ “nhất” trong đoạn văn rõ ràng làm nổi bật vai trò của tiếng mẹ đẻ trong câu nói chung.
Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí khuyến khích “để đồng bào họ cũng được thông cảm”. Việc biết thêm ngôn ngữ nước ngoài phải làm phong phú cho ngôn ngữ của nước mình. Trong bối cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị, câu nói “Nếu người An Nam tự hào... vấn đề thời gian” là hợp lý, nhưng không hoàn toàn chính xác. Chúng ta cần cuộc cách mạng vũ trang để giải phóng, không chỉ làm phong phú ngôn ngữ
Khi đưa ra bối cảnh cụ thể của nước ta, ông viết: “Nếu người An Nam tự hào giữ gìn tiếng nói của mình và làm cho tiếng nói phong phú hơn để có khả năng lan rộng các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ là vấn đề thời gian”. Nói như vậy là đặt tiếng nói dân tộc ở vị trí quá cao, tách biệt và coi nhẹ các yếu tố khác trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đó chính là hạn chế của bài chính luận này.
Tuy nhiên, xét trong bối cảnh cụ thể đó, bài viết này đã đánh thức lòng tự hào dân tộc, tận dụng sức mạnh tinh thần của dân tộc. Đó là mục đích của tác giả khi viết bài chính luận này.

3. Bài phân tích 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 2
Là một nhà văn, nhà báo, nhà yêu nước nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn An Ninh để lại cho thế hệ sau nhiều bài báo, bài diễn thuyết và chính luận xuất sắc với lối viết khúc chiết, trong sáng và đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước. Tác phẩm 'Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức' trên báo Tiếng chuông rè năm 1925 là một trong những bài chính luận xuất sắc của ông.
Mở đầu bài viết, Nguyễn An Ninh phê phán lối học đòi 'Tây hóa', 'thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng bằng tiếng mẹ đẻ' của nhiều người dân An Nam. Ông lên tiếng chống lại thái độ này, coi đó là biểu hiện của 'thái độ mù tịt về văn hóa châu u'.
Nguyễn An Ninh không chỉ phê phán thói học nói tiếng Tây mà còn chỉ trích lối sống lai căng trong ẩm thực và kiến trúc nhà 'Những kiểu kiến trúc và trang trí làm căng cơ của những ngôi nhà thuộc về người An Nam được sao chép theo văn minh Pháp, chứng minh rằng những người An Nam bị Tây hóa không có văn minh nào'.
Trong phần tiếp theo, Nguyễn An Ninh nêu lên giá trị và vai trò to lớn của tiếng nói đối với vận mệnh dân tộc. Ông đặt tiếng nói làm 'người bảo vệ quý báu nhất cho độc lập dân tộc, yếu tố quan trọng giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị'. Nguyễn An Ninh tôn trọng sức mạnh của tiếng nói dân tộc, xem đó là nhịp cầu tri thức mở rộng dân trí, đưa dân tộc ta tiếp xúc với các văn minh thế giới.
Để minh họa, ông chỉ ra rằng 'nếu người An Nam giữ gìn tiếng nói của mình và làm phong phú hơn để phổ biến học thuyết và khoa học châu u tại An Nam' thì giải phóng dân tộc chỉ là vấn đề thời gian. Ông cũng phê phán những than phiền về sự nghèo nàn của tiếng mẹ đẻ, chứng minh sự giàu có của tiếng Việt và đặt câu hỏi 'Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?'
Cuối cùng, Nguyễn An Ninh khẳng định rằng học một thứ tiếng nước ngoài không có nghĩa là từ bỏ tiếng mẹ đẻ mà ngược lại nó còn bổ sung, làm phong phú cho ngôn ngữ của nước mình.
Tóm lại, bài viết của Nguyễn An Ninh mang đến cho người đọc một cái nhìn quan trọng về giữ gìn tiếng mẹ đẻ, tiếng nói dân tộc. Cũng như làm dấy lên lòng tự hào và ý thức bảo tồn vẻ đẹp của tiếng nước mình.

4. Phân tích 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 5
Nguyễn An Ninh (1899 – 1943) sinh tại quê mẹ – xã Long Thượng, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là tỉnh Long An), lớn lên ở quê cha – xã Mĩ Hoà, Hóc Môn, Gia Định, nay là ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ ông là nhà thơ yêu nước Nguyễn An Khương. Nguyễn An Ninh là một trí thức yêu nước có học vấn. Ông từng theo học đại học trong nước rồi sang Pháp học, đỗ Cử nhân Luật năm 1920. Ông có những chân trời rộng lớn, tìm hiểu nhiều nước châu Âu và quan hệ mật thiết với các nhà yêu nước nổi tiếng như Hồ Chí Minh, Phan Văn Trường.
Từ một trí thức Tây học, ông chuyển hướng đến chủ nghĩa Mác và những người cộng sản. Ông hoạt động cách mạng mạnh mẽ, bị bắt nhiều lần, hành hạ và tù đày, cuối cùng ông ra đi tại Côn Đảo. Sự nghiệp của Nguyễn An Ninh gắn liền với những buổi diễn thuyết sôi động và những bài báo nổi tiếng cuốn hút thanh niên và dư luận trong cả nước. Là một trí thức tiến bộ, ông phê phán mạnh mẽ đạo Khổng và đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu để xây dựng nền văn hoá độc đáo của nước nhà. Văn phong của Nguyễn An Ninh khúc chiết, trong sáng, vừa có độ sâu về tư duy văn hoá vừa tràn đầy nhiệt huyết của con người yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.
Trong bài văn, Nguyễn An Ninh đã mạnh mẽ phê phán những kiểu học đòi theo 'Tây hoá':– Đó là việc: 'Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng bằng tiếng nước mình', vì họ xem đó là 'một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc'. Nhiều người khác lại bắt chước những 'kiểu kiến trúc và trang trí lai căng' của phương Tây. Theo ông: 'Nhiều người An Nam bị Tây hoá hiện nay tưởng rằng khi sao chép những cái tầm thường của phong hoá châu Âu, họ sẽ làm cho đồng bào tin rằng họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương'. Tuy nhiên, thực tế là họ 'chẳng có được một thứ văn minh nào'. Không chỉ thế, 'Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam thiếu những tâm huyết với giống nòi lo lắng'.
Theo ông, tiếng nói vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc. 'Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị'. Nhận định của ông là hoàn toàn có căn cứ vì tiếng nói là tinh thần của dân tộc, là văn hoá của dân tộc và như chính ông đã khẳng định: 'Nếu người An Nam tự hào giữ gìn tiếng nói của mình và nỗ lực làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Mọi người An Nam nào từ bỏ tiếng nói của mình, họ cũng đương nhiên từ bỏ niềm hy vọng giải phóng giống nòi […]. Vì vậy, với người An Nam, từ bỏ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với việc từ chối tự do của bản thân […]'.
Ông đã đưa ra ba bằng chứng để chứng minh rằng tiếng nước mình không nghèo nàn: 'Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?'. Ông đặt ra một câu hỏi mang tính khẳng định. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nổi bật trong Truyện Kiều – một kiệt tác văn chương được đánh giá là thể hiện sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người, đặc biệt là đời sống nội tâm. Truyện Kiều là minh chứng cho khả năng biểu đạt tài tình của ngôn ngữ mà không ai có thể phủ nhận. Đó là một bằng chứng hoàn toàn thuyết phục.
Ông tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: 'Tại sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?'. Một suy luận rất hợp lý và hoàn toàn có lý. Trung Hoa rộng lớn và được coi là một trong những nơi sinh ra văn hoá của thế giới. Tác phẩm văn học của họ phong phú và sâu sắc, nhưng ngôn ngữ của chúng ta vẫn đủ sức chuyển đổi tất cả những điều tưởng như quá lớn lao ấy. Tiếng An Nam đã làm được điều đó, theo ông, không có lý do gì chúng ta không thể viết những tác phẩm tương tự (vì ngôn ngữ của chúng ta có khả năng biểu đạt được những điều đó).
Bằng chứng thứ ba ông đưa ra đơn giản hơn tất cả. Nó dẫn dắt người ta vào hành động và nếu có ai hoài nghi, thậm chí có thể kiểm tra lại ngay lúc này: 'Ở An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể áp dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy từ ngữ để nói ra'.
Ông phê phán những người học Tây hóa, nhưng Nguyễn An Ninh không phủ nhận giá trị của ngôn ngữ nước ngoài. Theo ông: 'Chúng ta không thể tránh khỏi châu Âu, vai trò hướng dẫn của giới trí thức buộc họ phải biết ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu'. Vì vậy, theo ông, để nước mình độc lập, chúng ta cần hiểu rõ đất nước khác, và muốn hiểu rõ họ, chúng ta phải nắm vững ngôn ngữ của họ. Không phủ nhận, ông còn khuyến khích việc để cho 'Đồng bào của họ cũng phải được thông thạo ít nhất một phần'. Sự hòa hợp trong thế giới là điều tất yếu. 'Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không đồng nghĩa với việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, ngôn ngữ nước ngoài mà chúng ta học được sẽ làm phong phú thêm cho ngôn ngữ của chúng ta'.
Trong bài viết, Nguyễn An Ninh khẳng định: 'Nếu người An Nam tự hào giữ gìn tiếng nói của mình và nỗ lực làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian”. Trong bối cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị, câu nói của ông là có lý nhưng không hoàn toàn chính xác. Để giải phóng dân tộc, chúng ta cần một cuộc cách mạng vũ trang với một hướng đi đúng đắn, chứ không thể chỉ làm cho ngôn ngữ phong phú.

5. Phân tích 'Tiếng mẹ đẻ - Động lực giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 4
Nguyễn An Ninh (1900 – 1943) xuất thân từ xã Mĩ Hoà, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1920, ông tốt nghiệp ngành Luật tại Đại học Xoóc-bon (Pa-ri). Sau đó, ông đi du học và thăm một số quốc gia châu Âu. Năm 1922, ông trở về Việt Nam và bắt đầu sự nghiệp viết báo và diễn thuyết chống đế quốc. Năm 1939, bị kết án và đi đày ở Côn Lôn, ông chịu đựng đến khi kiệt sức và qua đời trong tù.
Nguyễn An Ninh để lại nhiều tác phẩm chính luận nổi bật, trong đó có bài 'Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' (1925). Với tâm huyết của một nhà văn, nhà báo, ông viết để thức tỉnh ý thức dân tộc trong mỗi người Việt Nam. Ông sử dụng lý luận sắc bén và thuyết phục về ý nghĩa quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tiếng Việt.
'Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' là một tác phẩm đại diện cho thể loại văn chính luận, trình bày vấn đề xã hội quan trọng. Ngay từ tiêu đề, bài báo làm nổi bật vai trò quan trọng của tiếng Việt, được coi là nguồn giải phóng cho dân tộc. Bài báo có cấu trúc chặt chẽ, khoa học, thể hiện khả năng tư duy logic của một nhà báo hoạt động chính trị, thu hút độc giả và đồng thời thuyết phục như một bài diễn thuyết chính trị.
Trong phần mở đầu, tác giả chỉ trích những người hiểu biết hạn chế, yêu thích khoe khoang và từ bỏ văn hoá và tiếng mẹ đẻ. Tiếp theo, ông thuyết minh ý nghĩa cốt lõi của bài viết: 'Tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức'. Với lối viết ngắn gọn, súc tích, tác giả rõ ràng về ý nghĩa của tiếng mẹ đẻ và chứng minh rằng tiếng Việt là nguồn giàu có...
Phần kết thúc, tác giả đề cập đến vai trò hướng dẫn của giới trí thức trong phát triển ngôn ngữ dân tộc và quan điểm về mối liên kết giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Quan điểm chủ đạo là: học tiếng nước ngoài với tinh thần chọn lọc để làm giàu ngôn ngữ quốc gia.
'Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' là một tác phẩm xuất sắc của báo chí cách mạng Việt Nam. Nhà báo Nguyễn An Ninh, một trí thức yêu nước và trách nhiệm, đã thực hiện tốt vai trò 'hướng dẫn' của một trí thức chân chính.
Trong những năm đầu thế kỷ XX, đa số trí thức Việt Nam được đào tạo theo trường phái Tây học. Dù có ảnh hưởng từ tư tưởng nô dịch, những người này bị Nguyễn An Ninh chỉ trích vì sùng bái phương Tây và coi thường văn hóa dân tộc. Bài viết nhắc nhở những người hiểu biết hạn hẹp về văn hóa và thách thức họ nhìn nhận sai lầm của mình, khuyến khích ý thức trách nhiệm đối với bảo vệ và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tiếng nói là linh hồn, là tinh hoa của văn hóa dân tộc.
Tác giả sử dụng lời lẽ sắc sảo để phê phán những người mù tịt về văn hóa, yêu thích ngoại đạo. Ông không ngần ngại sử dụng các từ ngữ như 'bập bẹ năm ba tiếng Tây' để mô tả sự tầm thường và mù tịt về văn hóa của họ. Thái độ phê phán rõ ràng hơn ở những câu tiếp theo: 'Hình như họ được đào tạo theo kiểu Tây phương'.
Tác giả chọn từ ngữ và chi tiết biểu đạt thái độ mạnh mẽ đối với những người sùng bái Tây, học đòi mà thiếu hiểu biết. Ông không ngần ngại sử dụng các cụm từ như 'cóp nhặt những cái tầm thường' để mô tả văn minh Pháp, không có giá trị so với văn minh Việt Nam. Tác giả thể hiện rõ thái độ phê phán đối với những người quá sùng bái Tây và học đòi Tây mà thiếu học thức.
Để giải quyết tư tưởng, đấu tranh với những lập luận phản dân tộc, tác giả sử dụng lập luận chặt chẽ và lý lẽ sắc bén. Ông bác bỏ quan niệm 'tiếng nước mình nghèo' và cho rằng đó chỉ là 'lời biện minh cho việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ'. Theo ông, ngôn ngữ không nghèo, mà là do thiếu hiểu biết về ngôn ngữ. Tác giả đặt ra những câu hỏi như 'Ngôn ngữ của Nguyễn Du giàu hay nghèo?' để minh chứng cho quan điểm của mình.
Đoạn kết thúc tư duy mở rộng tư tưởng của bài viết. Tác giả không chỉ chỉ trích sự sùng bái Tây mà còn thúc đẩy ý thức về việc bảo vệ và gìn giữ tiếng mẹ đẻ. Ông đề xuất việc học thêm ngôn ngữ nước khác là cần thiết, đặc biệt đối với giới trí thức. 'Sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ', ông nhấn mạnh. Tiếng nước ngoài có thể làm giàu cho tiếng mẹ đẻ của mỗi người.
Chúng ta nên tự hào và học hỏi từ cha ông, những người đã làm cho tiếng Việt trở nên phong phú như ngày nay. Qua hàng ngàn năm Bắc thuộc và thời kỳ phong kiến, cha ông sử dụng tiếng Hán nhưng không làm cho tiếng Việt bị Hán hoá. Ngược lại, quá trình Việt hoá tiếng Hán đạt được thành tựu đáng tự hào. Quan điểm của Nguyễn An Ninh về bảo vệ và gìn giữ tiếng Việt vẫn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.
'Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' là một tác phẩm chính luận xuất sắc, thể hiện rõ chính kiến và tâm huyết của một nhà báo và nhà hoạt động chính trị.
