1. Bài văn về quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên số 1
Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ làm quan tám năm sau đó trở về ẩn mình. Do đó, thơ ca của ông thấm đẫm triết lý sống nhàn. Sự nghiệp sáng tác của ông phản ánh quan niệm sống nhàn đa dạng, phức tạp. Và trong bài thơ Nhàn, phần nào thể hiện được sự phong phú về quan điểm sống ấy. Trước hết, quan điểm sống nhàn ở Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện ở lối sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên:
“Một mai, một cuộc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Trong câu thơ đầu, tác giả sử dụng điệp từ “một”, kết hợp phép lặp cấu trúc: số từ cộng danh từ (mai, cuộc, cần câu) và nhịp thơ nhẹ nhàng 2/2/3 cho thấy nhịp điệu đều đặn, thong thả của cuộc sống. Qua đó, thấy được phong thái sống bình dị, vui vẻ với thú điền viên. Ông đã sử dụng từ láy “thơ thẩn” hết sức tài tình, cho thấy sự an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hai câu thơ đầu đã hé mở lối sống, quan niệm sống nhàn của Trạng Trình, nó được thể hiện ở lối sống giản dị, ung dung, thảnh thơi, lánh xa cuộc sống đua chen vật chất, chức tước tầm thường. Lối sống nhàn đó tiếp tục thể hiện trong cung cách sống của ông:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Câu thơ với nhịp 1/3/1/2 kết hợp với nghệ thuật đối cho thấy nhịp độ sinh hoạt đều đặn, thường xuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã vẽ nên bức tranh tứ bình thật độc đáo: xuân - tắm hồ sen, hạ - tắm ao, thu - măng trúc, đông - giá. Ông không lấy hoa cúc, phong, lựu,… để miêu tả về các mùa như các nhà thơ khác:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”
(Nguyễn Du)
Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy các sự vật hết sức giản dị, gần gũi để làm nổi bật lên nét đặc trưng riêng của từng mùa. Thức ăn là những sản vật có sẵn xung quanh tác giả, mang đậm bản chất thôn dã. Đó là những sản vật do con người làm ra hoặc thiên nhiên ban tặng. Sinh hoạt của ông cũng hết sức nhịp nhàng, tuần hoàn theo dòng chảy của thời gian: tắm hồ sen, tắm ao. Cung cách sống thật khiêm nhường, bình dị của một bậc trí thức đại tài. Mọi nhu cầu của cuộc sống luôn được đáp ứng đủ không thừa cũng không thiếu. Cuộc sống tuy có phần đạm bạc nhưng hết sức thanh nhàn, giải phóng con người khỏi phường danh lợi, đem con người đến gần hơn với tự nhiên, hòa hợp với vạn vật. Với lối sống này, Nguyễn Bỉnh Khiêm có sự gặp gỡ với thi hào Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
thanh, phát cỏ, ươm sen
Cuộc sống tự do, thảnh thơi, ung dung, tự tại mà biết bao bậc Nho sĩ mơ ước hướng đến. Nhàn đối với ông còn là xa rời phương danh lợi, quyền quý để giữ cốt cách thanh cao:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Nơi vắng vẻ và chốn lao xao là hai hình ảnh biểu tượng cho hai không gian sống khác nhau. Nơi vắng vẻ là nơi thiên nhiên tĩnh lặng, xa lánh cuộc đời đầy bon chen, đố kị, khiến cho tâm hồn con người trở nên thanh thản. Ngược lại chốn lao xao là nơi cửa quyền “ra luồn vào cúi” bon chen, con người luôn tìm mọi cách để chèn ép, hãm hại nhau hòng đạt được danh lợi. Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối tài tình, Ta dại tìm nơi vắng vẻ đối với người khôn đến chốn lao xao. Hai vế hướng đến hai cách sống khác nhau: dại tìm về cuộc sống sơn cước, ung dung tự tại, nhàn thân, dại ấy mà lại hóa là dại khôn; khôn tìm đến chốn lao xao đua chen tranh dành, khôn ấy lại thành dại. Nói về dại, khôn cũng được ông thể hiện ở nhiều bài thơ khác:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn
Cách nói ngược đã khẳng định phương châm sống xa lánh nơi quyền quý, tìm nơi sống an nhàn để giữ gìn cốt cách thanh cao vốn có của mình, đồng thời cũng là thái độ không chạy theo lối sống bon chen danh lợi, quyền quý. Nhưng bản chất chữ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có điểm rất khác với nho sĩ ẩn dật khác. Ông nhàn thân mà không hề nhàn tâm. Dù thân nhàn nhưng ông vẫn canh cánh nỗi lòng:
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Câu thơ đã nhắc đến một điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu say mơ thấy mình được đến nước Hòe Nhai và tìm được cây công danh, phú quý. Khi tỉnh giấc, ông chỉ thấy trước mắt là một tổ kiến. Lấy điển tích đó để thể hiện thái độ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: ông tìm đến rượu không phải để uống xong để mơ giấc mộng về công danh mà để tỉnh táo, để nhận ra chân lý: phú quý cũng chỉ như một giấc chiêm bao. Nhận thức đó cho thấy phú quý danh lợi không phải là mục tiêu cuối cùng trong cuộc đời mỗi người, cái tồn tại với con người mãi mãi chính là nhân cách, phẩm chất cao đẹp. Hai câu kết như một lời khẳng định mạnh mẽ về ý nghĩa của triết lí sống nhàn. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn là cách để giữ gìn nhân cách, tu tâm dưỡng tính, có được sự thảnh thơi, thư thái trong tâm hồn. Đồng thời, ta cũng cần phân biệt “nhàn” ở đây là một triết lí, phương châm sống, nhàn là sự thư thái trong tâm hồn.
Bài thơ với thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngắn gọn, hàm súc, ngôn ngữ thơ giản dị đã thể hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đó là lối sống thanh cao, khí tiết, hòa hợp, thuận theo tự nhiên, đồng thời tránh xa phường danh lợi. Lối sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh lúc bấy giờ là lối sống tích cực để giữ gìn nhân cách trong sáng.

2. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ 'Nhàn' số 3
Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ với tư tưởng sống và triết lý sống sâu sắc, đã thể hiện rõ trong bài thơ 'Nhàn', là một trong những tác phẩm tuyệt vời của ông. Qua từng câu thơ, ông mở rộng quan niệm sống nhàn độc đáo, mới mẻ, sâu sắc. Nhàn đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là triết lý sống mà còn là hướng dẫn đến một thế giới chân thiện mỹ.
“Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Nguyễn Bỉnh Khiêm, như một lão nông tri điền, cáo quan về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường, vui thú với thú điền viên, hòa mình với thiên nhiên. Từ “thơ thẩn” toát lên tư thế trữ tình, thoải mái, ung dung mà kiêu ngạo như một thách thức với đời. Ông gắn bó với nông thôn, cuộc sống dân dã, bình dị. 'Nhàn' ở đây là sự ung dung, thảnh thơi trong tâm hồn, vui với thú điền viên. Hai câu luận tiếp theo mở rộng triết lí 'nhàn':
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Nơi vắng vẻ là chốn quê bình yên, tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên. Ngược lại, chốn lao xao là chốn đầy ganh đua, đố kị, là cửa ải của danh lợi ồn ào. Người dại tìm về cuộc sống thanh nhàn, còn người khôn đua chen chốn lao xao, nhưng đều có thể trở nên dại khi hiểu rõ quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh:
“Dưới công danh đeo khổ nhục
Trong dại dột có phong lưu”
Triết lí 'nhàn' lại được mở rộng, coi thường vinh hoa phú quý. Cuộc sống thuận theo tự nhiên được thể hiện qua hai câu luận cuối:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Đây là hình ảnh cuộc sống dân dã, thanh đạm, thuận theo tự nhiên. Câu kết coi thường phú quý, vinh hoa, xem chúng chỉ là những điều phù phiếm thoáng hiện rồi vụt bay. Những vần thơ giản dị của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã truyền đạt một cách uyên bác, sâu sắc về triết lí sống 'Nhàn'.


3. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ 'Nhàn' số 2
Nguyễn Bỉnh Khiêm từ bỏ chốn triều Mạc về quê dạy học và sống nhàn nhã, hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao vượt lên trên danh lợi. Quan niệm sống nhàn của ông được thể hiện qua bài thơ ' Nhàn', một tác phẩm quý giá của ông. Bài thơ là lời tâm sự về cuộc sống, sở thích cá nhân.
Sau khi dâng sớ vạch tội và xin chém đầu 18 lộng thần nhưng vua không chấp nhận, Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan về quê dạy học, sống nhàn nhã như một 'lão nông tri điền thực sự'. Cuộc sống thuần hậu, nhàn nhã diễn ra hàng ngày với:
'Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào'.
Nhịp điệu thơ thong thả như chính nhịp sống giữa thôn quê yên bình với 'mai', 'cuốc', 'cần câu'. Điệp từ 'một' chỉ số đếm cụ thể lần lượt liệt kê ra các công cụ lao động bình dị kết hợp với nhịp thơ 2/2/2 đã tạo ra tâm thế sẵn sàng, chu đáo trong lao động. Từ láy 'thơ thẩn' phác họa cho ta thấy tư thế an nhiên, tự tại và cuộc sống thuần hậu, chất phác của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đại từ phiếm chỉ 'ai' nói về mọi người mải lo 'vui thú nào' trái ngược với ông chỉ thích quanh đi quẩn lại với những thú vui thiên nhiên, cây cỏ không chút bận lòng với công danh, phú quý ở đời. Tâm trạng thanh thản, an nhàn và thú vui tao nhã, thanh cao với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông- mùa nào thức ấy.
'Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'.
Cuộc sống đạm bạc từng ngày trôi qua vô cùng thư thái với những món ăn quê mùa, dân dã 'măng trúc', 'giá' do sức lao động của mình làm ra, cùng với nếp sinh hoạt bình thường, giản dị 'tắm hồ sen', ' tắm ao'. Nghệ thuật liệt kê ở hai câu thơ đã khắc họa bức tranh tứ bình về cuộc sống đạm bạc mà thanh cao với bốn mùa có những đặc trưng riêng. Từ ngữ bình dị, dân dã như lời khẩu ngữ tự nhiên, hệt như cách nói của một lão nông thực sự chứ không phải là của một vị từng làm quan. Thú vui thanh nhàn nhưng không làm mất đi vẻ đẹp nhân cách và trí tuệ sáng ngời.
'Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao'.
Dại - khôn ở đời là cách nhìn của mỗi người, bởi nước luôn chảy xuống thấp còn con người luôn muốn hướng lên cao mà đi. Ở hai câu thơ này, ta thấy được hai cách sống trái ngược giữa 'ta' và 'người'. So sánh tương phản và biện pháp đối: dại- khôn, vắng vẻ- lao xao đã chỉ ra sự đối lập giữa nhân cách - danh lợi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn giữ lại cốt cách thanh cao, theo đuổi quan niệm sống nhàn, nhàn thân và nhàn tâm mặc người chốn quan trường bon chen, tranh giành. Đi ngược với thói đời thông thường, ông lánh đục tìm trong, tìm về 'nơi vắng vẻ', nơi không người cầu cạnh và cũng không cần đi cầu cạnh người.
Quê nhà thanh tịnh và an nhiên giúp ông tìm được sự thư thái, thảnh thơi của tâm hồn và giữ được sự thanh cao của nhân cách. Mặc người chọn 'chốn lao xao' nơi quan trường bon chen, sát phạt, nơi xô bồ chỉ có quyền lực và bạc tiền, không có tình người. Cái 'dại' của 'ta' là cái 'dại' của một bậc đại trí, thấu triệt lẽ thịnh suy, vong tồn của thời cuộc, sống trọn vẹn từng ngày thanh thản, nhàn nhã theo tự nhiên. Cái 'khôn' của 'người' là chấp nhận dấn thân vào 'chốn lao xao' để tìm lợi ích cho bản thân, u mê giữa thời thế nhưng người cứ bon chen, bị cuốn theo vòng danh lợi. 'Người' nhìn cho 'ta' là 'dại' nhưng chắc gì 'ta dại' và 'người khôn'? Vị Trạng Trình của một thời làm quan dưới triều Mạc tự nhận mình là 'dại' nhưng rất tỉnh táo trong lựa chọn cách sống. Cách nói đùa vui, ngược nghĩa làm giọng thơ trở nên hóm hỉnh, sâu cay nhưng chứa đựng một tầm nhìn sáng suốt, nổi bật lên vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ là cách ông nhận ra cái khôn-dại thực sự ở đời.
Sống thanh cao và chan hòa với tự nhiên là quan niệm sống nhàn xuyên suốt bài thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống ngược lại với người đời, ông đứng bên ngoài nhìn thói đời bon chen, ngươi lừa, ta gạt để tranh giành phú quý. Bài thơ ' Nhàn'làm nổi bật nhân cách, trí tuệ sáng ngời, một quan niệm sống phù hợp với hoàn cảnh xã hội có nhiều biểu hiện suy vong thời bấy giờ. Mỗi thời mỗi khác, nhưng quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong hoàn cảnh ấy rất đáng quý, đáng được trân trọng, ngợi ca.


4. Triết lý sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ 'Nhàn' số 5
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một tri thức sâu rộng, từng trải qua sự nghiệp làm quan nhưng chấp nhận ẩn mình vì không chấp nhận được bất công trong chốn quan trường. Ông nổi tiếng với hai tập thơ 'Bạch Vân am thi tập' và 'Bạch Vân quốc ngữ thi'. Bài thơ 'Nhàn' thuộc tập 'Bạch Vân quốc ngữ thi' là một tâm sự nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, khẳng định quan niệm sống hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi phù phiếm. Bài thơ toát lên tư thái ung dung, điềm tĩnh của tác giả, là điểm nhấn chủ đạo. Chỉ với tám câu thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả cuộc sống an nhàn, thảnh thơi tại quê nhà, điểm nhấn sự thanh tịnh và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. Cuộc sống mộc mạc, bình dị của lão nông Bạch Vân được thể hiện qua hình ảnh của 'một mai một cuốc, một cần câu'. Tuy ẩn mình nhưng không đơn độc, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình 'dại' khi tìm đến 'nơi vắng vẻ', nhưng cái 'dại' này lại làm nổi bật sự khôn ngoan và tinh tế của ông. Những câu thơ về 'thu ăn măng trúc, đông ăn giá' phản ánh cuộc sống bình dị, giản đơn nhưng đầy đủ. Cuộc sống tại quê nhà khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm hài lòng với 'xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'. Cuối cùng, ông nhấn mạnh tri giác của mình với 'rượu đến cội cây ta sẽ uống, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao'. Phú quý đối với ông chỉ là một giấc mơ thoáng qua, không đáng để ông mê mải. Bài thơ 'Nhàn' là một tác phẩm đẹp, khiến người đọc không chỉ ngưỡng mộ cốt cách và tinh thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn hiểu sâu về triết lý sống nhàn của ông.
Như vậy, bài thơ đã tạo nên sự khâm phục và ngưỡng mộ đối với cốt cách, tinh thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một bức tranh tinh tế về cuộc sống đẹp, thanh nhàn, và ý nghĩa.


5. Bài văn về quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ cùng tên số 4
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về ở ẩn có nhiều bài viết về lối sống nhàn. Suốt bốn mươi hai năm vừa sống ẩn dật, vừa làm quan tại gia, ông luôn tự hào và kiên định về sự lựa chọn của mình. Nhàn là một bài thơ tiêu biểu cho quan niệm sống của nhà thơ.
Nhàn là một đề tài phổ biến trong văn học trung đại. Nói đến nhàn là nói đến một nét văn hoá tư tưởng sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức phong kiến. Sống nhàn hợp với tự nhiên, hợp với tu dưỡng nhân cách, có điều kiện để sáng tác thơ văn, di dưỡng tinh thần. Sống nhàn đem lại niềm vui thanh cao, lành mạnh cho con người. Biết sống nhàn là biết tìm thú “nhàn”, một triết lí của người xưa.
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài Nhàn thể hiện ở tinh thần tự do lựa chọn cách sống cho mình, tự khẳng định mình. Có như vậy nhà thơ mới có được phong thái ung dung thoải mái trong cuộc sống đời thường:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào.
hơ giản dị, không cần gọt giũa nhưng nhờ sự sắp xếp hợp lý, linh hoạt mà trở nên ý vị. Mai, cuốc, cần câu là những dụng cụ gắn liền với công việc lao động hàng ngày. Cách liệt kê: “Một..., một..., một...” tạo nhịp điệu khoan thai, diễn tả trạng thái ung dung của nhà thơ.
Câu thơ thứ hai nhấn mạnh ý câu một bằng từ “thơ thẩn”. Thơ thẩn là trạng thái thảnh thơi vô sự, trong lòng không gợn chút cơ mưu, tư dục. Cụm từ “dầu ai vui thú nào” nói lên ý thức không chạy theo công danh, phú quý, không chạy theo người khác, kiên định lối sống đã lựa chọn. Hai câu thơ gợi lên hình ảnh của một cư sĩ ẩn dật, an nhàn khiến ta nhớ đến cuộc sống của thi nhân Nguyễn Trãi “Ao cạn vớt bèo cấy muống; Đìa thanh phát cỏ ương sen”. Đó cũng là cuộc sống bình dị, dân dã của Nguyễn Trãi khi ông cáo quan về ở ẩn. Hai câu thực tiếp tục triển khai ý của hai câu đề bằng quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn”:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Nhà thơ tự cho mình là dại, người là khôn. Nhịp thơ 2/5 đều đặn tạo giọng điệu tự tin, pha chút mỉa mai. Các từ láy tượng hình (vắng vẻ), tượng thanh (lao xao) vốn giàu sắc thái biểu cảm, ở đây được dùng với nghĩa biểu trưng. Tìm “nơi vắng vẻ” nghĩa là nơi không phải chốn quan trường, không phải nơi “giành giật tư lợi” mà là nơi thích thú, nơi được sống thoải mái theo ý thích của mình. Đến “chốn lao xao” là đến chốn chợ lợi đường danh huyên náo, nơi con người chen chúc xô đẩy, giành giật hãm hại nhau.
Hai câu thực sử dụng nghệ thuật đối rất chỉnh. Nhà thơ đem đối lập cuộc sống nhàn với cuộc sống đua chen, mưu danh lợi, phú quý ở thành thị để kiên định với lối sống mà ông đã lựa chọn: sống nhàn. Lối sống nhàn đem lại cái thú làm chủ bản thân mình, tự mình yên với mình, không bị ham muốn vật chất nó ràng buộc, lôi cuốn do đó dưỡng được tính tự nhiên, tức là tính ưa làm điều thiện. Nói như nhà thơ “Tâm an, thân rảnh, tay chân thư thái” (Trung tân ngụ hứng). Đó là thú vui thoải mái về tinh thần cũng như về thể xác.
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống nhàn không chỉ là cái thú vui được thoải mái về tinh thần, về thể xác mà còn là thú vui được hoà với nhịp điệu của thiên nhiên bốn mùa: Thú vui ấy, được nhà thơ nói đến trong hai câu luận:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.
Những chuyện sinh hoạt hàng ngày như “ăn”, “tắm” được nhà thơ diễn tả rất tự nhiên: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao. Các chữ xuân, thu, hạ, đông được ngắt thành một nhịp, điệp từ ăn, tắm được lặp lại tới hai lần để nói đây là sinh hoạt quanh năm. Ăn, tắm đều thích thú, tự nhiên. Mùa nào thức ấy, thứ gì cũng có, cũng sẵn. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thú vui của tâm, thân có thể tìm thấy trong thiên nhiên, kho trời chung lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, cũng có thể tìm thấy trong sinh hoạt đời thường. Tuy đơn sơ đạm bạc nhưng cái gì cũng có, cũng sẵn chẳng nhọc lòng tìm kiếm mà lại được thảnh thơi, thoải mái “Giàu ăn thịt, khó ăn rau; Sang đi xe, nghèo đi bộ”. Và nhà thơ luôn tự hào về sự lựa chọn ấy của mình:
Cao khiết thuỳ vi thiên hạ sĩ
An nhàn ngã thị địa trung kiên (Ngụ hứng).
Dịch là:
Cao khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ
An nhàn ta là tiên trong đời.
Một kẻ sĩ mà được sống như tiên, được làm tiên trong đời như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì có mấy ai ?
Kiên trì với lối sống nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đem đối lập lối sống ấy với cuộc sống bon chen giành giật ở chốn thành thị “Thành thị vốn đua tranh giành giật” (thơ Nôm bài 19) và tỏ rõ thái độ coi thường công danh phú quý trong hai câu thơ kết:
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
“Rượu ” là hình ảnh mang ý biểu tượng cho phú quý, công danh. Đến thì dùng, chẳng có gì phải bon chen, xu nịnh. Hơn nữa cái công danh sự giàu sang đó cũng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Hai câu thơ kết tác giả đã vận dụng sáng tạo điển cố, cách ngắt nhịp linh hoạt (1/3/3; 4/3) hình ảnh so sánh làm tính chất bi quan của điển cố mờ đi, nổi lên ý nghĩa coi thường phú quý. Từ đó, nhà thơ khẳng định lần nữa sự lựa chọn lối sống của mình, lối sống tự nhiên không chạy theo danh lợi.
Trong khuôn khổ của một bài thơ Nôm Đường luật thất ngôn bát cú, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khẳng định lối sống mà ông lựa chọn: sống nhàn. Đó là lối sống tự nhiên, coi thường công danh phú quý. Tất nhiên quan niệm “sống nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là lối sống thoát li thực tế đời sống mà vẫn gắn bó với cuộc đời. Lối sống ấy ta đã bắt gặp ở một số nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến. Đặc biệt, đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm sống nhàn không chỉ là một lối sống đẹp mà là một triết lí sống.
Nhàn là một bài thơ hay của Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định niềm tin vào lối sống mà nhà thơ đã lựa chọn “sống nhàn”. Sống nhàn là một quan niệm sống, một triết lí nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua bài thơ tác giả còn thể hiện sự gắn bó với cuộc sống bình dị, tài năng thơ Nôm cũng như những đóng góp của ông đối với ngôn ngữ thơ ca dân tộc: giản dị, tự nhiên, cô đọng, kết cấu và nhịp điệu câu thơ luôn biến đổi phù hợp với yêu cầu và mục đích diễn tả.

