1. Nữ anh hùng Võ Thị Sáu
Chị Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1933 (có tài liệu ghi năm 1935), quê ở xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống cách mạng, chứng kiến cảnh thực dân Pháp đàn áp, bóc lột đồng bào, tàn phá quê hương, chị sớm có lòng căm thù giặc. 12 tuổi, chị được anh trai giác ngộ và theo anh trốn lên chiến khu giúp cách mạng. Qua nhiều lần thử thách, chị được kết nạp vào Đội công an xung phong Đất Đỏ lúc 14 tuổi. Chị đã dũng cảm, hoàn thành xuất sắc nhiều nhiệm vụ được giao như: giao liên, mua hàng tiếp tế cho các tổ chức cách mạng.
Năm 1948, chị tham gia phá tề, trừ gian, giết cai tổng Tòng, rồi cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỷ niệm quốc khánh Pháp do ngụy quyền tổ chức, và trực tiếp tiêu diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tại phiên chợ tết năm 1950, trong khi ném lựu đạn vào tốp lính ngụy tại chợ Đất Đỏ, chị bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, bị giặc tra tấn dã man, chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa. Ngày 21/1/1952, chị bị đày ra Côn Đảo với số tù 6267 và bị giam riêng ở Sở Cò. Chị Sáu là nữ tù nhân đầu tiên và trẻ nhất tại Côn Đảo. Sau những chiến công tiêu diệt kẻ địch, cùng với chí khí kiên cường khi bị bắt, chị Sáu đã làm khiếp vía kẻ địch. Cho dù bị tra tấn dã man, chị cũng không hề khai báo, luôn lớn tiếng chất vấn lại luật sư và cha cố khi đụng chạm tới lý tưởng cách mạng. Ngay tại đêm trước khi lĩnh án tử, chị Sáu đã giơ tay thề trước lá cờ Đảng và trở thành người nữ đảng viên trẻ tuổi nhất vào đầu năm 1952. Và đúng sáng hôm sau, ngày 23/1/1952, chúng bí mật đưa chị ra pháp trường xử bắn.
Anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu, một người con trung hiếu của dân tộc, một chiến sĩ cách mạng kiên cường trong chiến đấu, bất khuất bảo toàn khí tiết trong lao tù, anh dũng lạc quan trước mũi súng quân thù.
2. Nguyễn Thị Minh Khai - Nữ bí thư thành ủy Sài Gòn đầu tiên
Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại xã Vĩnh Yên, thành phố Vinh - Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước lại được theo học quốc ngữ từ nhỏ, năm 16 tuổi chị đã tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1927 chị gia nhập Đảng Tân Việt, lấy bí danh là Minh Khai. Sau đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, tổ chức huấn luyện đào tạo cán bộ cho Đảng, làm nòng cốt cho cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh.
Từ 1930 đến 1935, chị được tổ chức đưa ra nước ngoài học tập và hoạt động trong tổ chức Quốc tế Cộng sản và tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 ở Mát-xcơ-va, chị là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phát biểu tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và bảo vệ hòa bình. Năm 1937 chị trở về nước và được bầu vào Xứ ủy Nam Kỳ làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, lãnh đạo các cơ sở cách mạng và Nhân dân đấu tranh. Năm 1940, giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh mẽ thì chị bị địch bắt giam tù đày tra tấn rất dã man và bị chúng kết án tử hình nhưng chị vẫn giữ vững khí tiết của một chiến sĩ cộng sản. Chị hy sinh lúc mới 31 tuổi nhưng tên tuổi và sự nghiệp cách mạng cao quý của chị vẫn mãi được Nhân dân tưởng nhớ và lịch sử khắc ghi.
3. Nguyễn Thị Bình - Sứ giả hòa bình của Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Bình sinh ra ở Quảng Nam nhưng lớn lên tại Sa Đéc - Đồng Tháp (năm 1927). Bà tham gia vào phong trào đấu tranh cách mạng từ năm 1945 và trở thành một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của phong trào Phụ nữ cứu quốc ở Sài Gòn - Chợ Lớn, cũng như các phong trào học sinh, sinh viên và bảo vệ hòa bình của giới trí thức ở miền Nam. Bà đã trải qua nhiều vị trí như Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam (1960); Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; Trưởng phái đoàn đàm phán tại Hội nghị quốc tế Paris về Việt Nam và kí kết Hiệp định Paris về Việt Nam vào năm 1973. Bà còn từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1976 đến 1987, và là Phó Chủ tịch của Nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1992.
Bà sinh ra trong một gia đình với truyền thống yêu nước và trưởng thành trong phong trào đấu tranh cách mạng, có bản tính thông minh, duyên dáng và khả năng thuyết phục. Nguyễn Thị Bình đã rất thành công trong lĩnh vực ngoại giao.
Bà nổi tiếng là một trong những nhân vật chủ chốt tại Hội nghị Paris. Hội nghị này diễn ra từ năm 1968 đến 1973, được coi là một trong những cuộc thương thảo kéo dài nhất trong lịch sử thế giới. Tại đó, bà đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và tham gia Hội nghị bốn bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn từ 1968 đến 1973. Trong quá trình tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia và bạn bè quốc tế, bà đã để lại ấn tượng tích cực và vận động nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh đòi hòa bình, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước cho Nhân dân Việt Nam. Với vai trò là 'sứ giả hòa bình', bà đã đóng góp quan trọng vào chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc. Hiệp định Paris đã ghi lại những chiến thắng lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cứu nước, đồng thời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cứu nước của nhân dân ta.
4. Nguyễn Thị Chiên - Nữ anh hùng lực lượng vũ trang
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ năm 1946 đến năm 1952, đồng chí đã tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến ở 5 thôn, xây dựng và lãnh đạo Đội du kích xã Tán Thuật đánh địch, chống lại sự áp đặt, phá giao thông trên đường 39, phá tề, diệt và bắt số lượng lớn địch. Đồng chí đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt 15 địch. Tháng 4 năm 1950, trong khi đưa cán bộ về hoạt động tại xã, đồng chí đã bị địch bắt, dụ dỗ và tra tấn suốt 3 tháng rưỡi, nhưng vẫn kiên trung bất khuất. Tháng 10 năm 1951, trong một trận phục kích đánh địch trên đường 39, đồng chí đã bắn trúng và làm bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên địch và thu được 4 khẩu súng. Tháng 12 năm 1951, khi địch lùng sục vào làng, đồng chí đã chỉ huy đội du kích tấn công bất
5. Nguyễn Thị Định - Nữ tướng Việt Nam
Cô Ba Định - người dân gọi với tình yêu và kính trọng. Là người phụ nữ kiên cường, ý chí mạnh mẽ, bước đi trên con đường cách mạng, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Sinh ra và lớn lên trong những năm đầu của thế kỷ 20, bà đã trải qua những gian khổ, thử thách của cuộc đời để trở thành tượng đài vĩ đại của dân tộc.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc, bà không ngừng chiến đấu, không ngừng hy sinh. Từ việc giao liên, rải truyền đơn cho đến việc dẫn đầu các chiến sĩ chiến đấu, bà luôn là tấm gương sáng ngời, là nguồn động viên, khích lệ cho các thế hệ sau này.
Bằng tinh thần quyết tâm và trí tuệ, bà đã vượt qua hàng ngàn khó khăn, nguy hiểm để mang vũ khí, động viên, chi viện cho chiến sĩ trên mọi mặt trận. Không chỉ là người lãnh đạo xuất sắc, bà còn là biểu tượng của sự đoàn kết, sức mạnh vô hình trong cuộc chiến chống giặc.
Với lòng yêu nước sâu đậm, bà đã dẫn dắt những đợt nổi dậy, đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân miền Nam, góp phần lớn vào chiến thắng cuối cùng, thống nhất tổ quốc. Người phụ nữ kiên cường, bất khuất, luôn là nguồn động viên cho những người lính trẻ, là niềm tự hào của dân tộc.
Bằng tài năng và trí tuệ, bà đã từng bước chiến thắng những kẻ thù mạnh mẽ, tạo nên những chiến công vẻ vang, lưu danh mãi trong lòng dân tộc. Là một trong những tượng đài vĩ đại nhất của lịch sử dân tộc, Cô Ba Định đã viết nên những trang sử hào hùng, là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ mai sau.