1. Thanh Huyền
Thanh Huyền (tên thật: Trương Thị Thanh Huyền, sinh năm 1942 tại Hà Nội) là một trong những giọng ca nổi tiếng của nhạc cách mạng. Với giọng hát kết hợp giữa dân ca và kĩ thuật thanh nhạc cổ điển, bà được coi là giọng ca dân ca kế thừa của cố nghệ sĩ Thương Huyền. Thanh Huyền nổi tiếng với nhiều ca khúc như Bèo dạt mây trôi, Xe chỉ luồn kim, Người ở đừng về... và những tác phẩm như Đường cày đảm đang, Lời ca dâng Bác, Khi thành phố lên đèn, Mẹ yêu con, Hát ru. Bà đã đoạt 3 Huy chương Vàng Hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc và được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng III. Năm 1984, Thanh Huyền được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt đầu tiên. Hiện bà sống cùng chồng, NSND Thanh An, và có hai người con, trong đó con gái út là Thanh Hằng nối nghiệp mẹ.

2. Thương Huyền
Bà tên thật là Nguyễn Thị Thường, nghệ danh Thương Huyền, sinh năm 1942 tại xã Thượng Mỗ, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật từ trước Cách mạng tháng Tám, Thương Huyền hát những bài tiền chiến của Văn Cao, Phạm Duy tại quán Tân Nghệ sĩ và Thiên Thai, cùng với nghệ sĩ Mai Khanh. Sau Cách mạng tháng Tám, bà trở thành nữ danh ca ở Hà Nội và tham gia sự nghiệp cách mạng. Bà có đa dạng thể loại từ nhạc trữ tình, tiền chiến đến những sáng tác cách mạng như Suối mơ, Thiên thai, Đàn chim Việt... Thương Huyền cũng tham gia biểu diễn trên các chiến trường và khu sơ tán, thu âm nhiều bài hát nổi tiếng như Người Hà Nội, Cảm tử quân, Mơ đời chiến sĩ... Năm 1957, bà giành Huy chương Bạc tại cuộc thi hát dân ca quốc tế tại Moskva, trở thành ca sĩ Việt Nam đầu tiên đoạt giải thưởng quốc tế. Thương Huyền mất năm 1989 tại Hà Nội.

3. Quốc Hương
Quốc Hương có tên thật là Nguyễn Quốc Hương, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1920 tại xã Kiến Thái, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Ông bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật từ khi còn trẻ, lưu lạc khắp miền Trung và Sài Gòn, làm nhiều công việc đa dạng như công nhân xe lửa, thủy thủ, bốc vác... Năm 1944, Quốc Hương là một trong những người đầu tiên biểu diễn bài Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước tại Sài Gòn. Tham gia Kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập Vệ quốc quân, tham gia ca hát và chiến đấu ở nhiều chiến trường. Năm 1954, Quốc Hương tu nghiệp tại Nhạc viện Budapest, Hungary, sau đó làm việc tại Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam. Năm 1984, được tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt 1. Quốc Hương mất năm 1987 vì bệnh ung thư.

4. Thu Hiền
NSND Thu Hiền (tên thật Nguyễn Thị Thanh Hiền, sinh ngày 3 tháng 5 năm 1952) là một nữ ca sĩ lớn của Việt Nam, nổi tiếng với những ca khúc nhạc cách mạng, trữ tình, dân ca. Năm 1993, bà được Nhà nước Việt Nam phong tặng Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (viết tắt là NSND) vì những cống hiến của mình.
Bà tên thật Nguyễn Thị Thanh Hiền. Bà sinh ra tại Đông Hưng, Thái Bình, nhưng nguyên quán ở Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ. Trong thời gian hoạt động tại chiến trường bà còn có bí danh Thanh Hồng. Hiện bà là Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam.
- Năm 1967 đến 1968, Thu Hiền cùng đoàn quân khu Tây Bắc vào biểu diễn phục vụ động viên tinh thần chiến đấu chống Mỹ của quân và dân tuyến lửa miền Trung.
- Năm 1971, bà về Đoàn Ca nhạc Dân tộc Trung ương.
- Năm 1972, bà cùng đoàn văn công Tây Nguyên vào giải phóng Quảng Trị. Thu Hiền là người được tham dự cuộc trao trả tù binh.
- Năm 1975, Thu Hiền cùng Đoàn ca nhạc dân tộc Trung ương vào giải phóng thành phố Huế.
- Năm 1984, Thu Hiền được trao tặng danh hiệu NSƯT.
- Năm 1993, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSND.
- Hiện nay bà đang làm Trưởng đoàn ca nhạc Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam.
Thu Hiền có giọng nữ cao (soprano), tình cảm phù hợp dân ca. Bài hát thành công để lại dấu ấn: Câu hò bên bờ Hiền Lương (Hoàng Hiệp - thơ Đằng Giao), Bài ca bên cánh võng (Nguyên Nhung), Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh (Nguyễn Văn Tý), Quảng Bình quê ta ơi (Hoàng Vân), Tình thắm duyên quê, Dáng đứng Bến Tre, Hoa cau vườn trầu...

5. Lê Dung
Nghệ sĩ Nhân dân Lê Dung tên thật là Đoàn Lê Dung. Do thời kỳ chiến tranh loạn lạc, bà không biết chính xác ngày và nơi sinh, sau này chọn ngày 5 tháng 6 năm 1951 và Quảng Ninh làm nơi lớn lên. Sống cùng bố mẹ ở khu vực cầu 1, phường Cao Xanh, TX Hòn Gai (thành phố Hạ Long ngày nay).
Theo lời kể của bà Hạnh, người bạn thân ở CLB Thiếu nhi Hạ Long, Lê Dung từ nhỏ đã thể hiện niềm đam mê ca hát. Nhạc sĩ Đức Huyên phát hiện tài năng này và đưa bà vào CLB Thiếu nhi Hạ Long. Bắt đầu sự nghiệp ca hát từ 17 tuổi, bà gia nhập Đoàn Văn công Quân khu Tả Ngạn. Sự nghiệp chuyên nghiệp bắt đầu khi Lê Dung tham gia Đoàn ca múa Tổng cục chính trị và học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội từ 1977.
Thời gian học tại Nhạc viện, Lê Dung được học từ nhiều giảng viên nổi tiếng, thậm chí thụ giáo Nghệ sĩ nhân dân Thương Huyền. Năm 1982, bà tốt nghiệp hạng Thủ khoa và trở thành nghệ sĩ ưu tú, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1984.
Năm 1986, Lê Dung du học cao học thanh nhạc tại Nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô. Trở về nước, bà trở thành nghệ sĩ solo của Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam và là giáo viên thỉnh giảng cao cấp. Năm 1993, Lê Dung được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Năm 1992, Lê Dung tự tổ chức đêm solo âm nhạc tại Nhà hát Lớn Hà Nội, đánh dấu vị trí đặc biệt trong nền opera Việt Nam. Bà là ca sĩ hàng đầu của nhạc đỏ và nhạc tiền chiến, cũng ghi âm nhiều tác phẩm của các nhạc sĩ nổi tiếng.
