Phân tích phần đặc sắc của câu nói Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích, được tuyển chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên toàn quốc, giúp các em có thêm tài liệu tham khảo và biết cách viết văn hiệu quả hơn.
Top 5 Câu châm ngôn Buồn đáng nhớ trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (hấp dẫn, ngắn gọn)
Tổng hợp Phân tích phần đặc sắc của câu châm ngôn Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
1. Giới thiệu
– Thảo luận về truyện Kiều và trích dẫn từ đoạn văn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
– Sự tinh tế trong phong cách miêu tả tâm trạng của Nguyễn Du trong tám câu kết thúc câu châm ngôn “Buồn trông”.
2. Nội dung chính
– Bốn hình ảnh được thể hiện qua tám câu thơ, phản ánh tâm trạng của nàng Kiều.
– Tất cả bắt đầu với từ khóa “buồn trông” → Lan tỏa nỗi buồn, nỗi đau.
+ Sự buồn bã của con người lan tỏa sang cảnh vật
+ Sau những biến cố, Kiều mới có thể ngồi suy tư về nỗi buồn của mình.
– Bức tranh đầu tiên: Thuyền và buồm:
+ Tại Lầu Ngưng Bích, nhìn ra biển, Kiều thấy “cửa bể chiều tàn”
+ “Buổi chiều”: Khi bầu trời bắt đầu tối → Nỗi nhớ nhà, nỗi buồn trỗi dậy.
+ Trong cảnh tượng đó, Kiều bắt gặp hình ảnh của một chiếc thuyền.
+ “Thuyền xa”: Nghe như một giấc mơ, “lướt nhẹ”: chỉ là một hình bóng mơ hồ của cánh buồm.
→ Hình ảnh mơ hồ, xa xăm của chiếc thuyền dần tan biến, chỉ còn lại những vệt sáng mờ nhạt → Nỗi buồn tràn đầy trong trái tim Kiều.
– Bức tranh thứ hai: Dòng nước và bông hoa
+ Dòng nước cuồn cuộn tuôn tràn. Nước đẩy, kéo nhấn chìm mọi vật.
+ Một bông hoa yếu ớt trôi dập dềnh trên sóng nước
+ “Mờ mịt”: Từ từ, biểu hiện sự không rõ ràng, một nỗi buồn sâu xa
→ Cánh hoa có thể thoát ra khỏi dòng nước, hoặc sẽ bị cuốn trôi, chìm nổi → Cuộc sống của Kiều, có lẽ cũng như cánh hoa ấy, sẽ bị cuộc sống đẩy đưa đến cùng.
– Bức tranh thứ ba: Cánh đồng và bầu trời:
+ Một khung cảnh trống trải, lạnh lẽo.
+ “Cánh đồng”: Thảm cỏ xanh mướt, trải dài đến tận bờ trời
+ “Buồn thảm”: Hình ảnh u ám, héo hon, không sức sống → Tâm trạng của Kiều cũng đầy uất hận như vậy.
+ Thảm cỏ héo úa, lan tỏa tới chân trời, hòa quyện với bầu trời thành một dải.
+ “Xanh nhạt”: Màu xanh nhạt, mờ mịt.
+ Hai từ màu sắc liên tiếp nhấn mạnh về sắc thái u ám → Nhấn mạnh về màu sắc → Cuộc đời của Kiều qua góc nhìn của cô ấy.
– Bức tranh thứ tư: Gió và biển
+ Là bức tranh mãnh liệt nhất trong bốn bức.
+ Gió và sóng biển hú vang, cuồng nộ.
+ Kiều cảm thấy như đang ngồi trên đỉnh những con sóng dữ dội, nghe tiếng gió hú vang xung quanh.
+ “Rùng rợn”: từ mô tả âm thanh, tạo ra cảm giác mãnh liệt, hung dữ.
→ Sự tiên đoán về tương lai của Kiều
=> Nỗi buồn đã đạt đến đỉnh cao khiến con người có thể mạo hiểm vượt qua tất cả để thoát khỏi nỗi đau ấy → Điều này giải thích vì sao Kiều sau này đã mạo hiểm nghe lời dụ dỗ của Sở Khanh.
– Tóm lại:
+ Bốn bức tranh đều xuất phát từ cụm từ “buồn trông”
+ Thiên nhiên được nhìn nhận qua góc nhìn của Kiều.
+ Màu sắc của thiên nhiên và phong cảnh cũng là tâm trạng và tương lai của Kiều
3. Kết thúc
– Đảm bảo lại vấn đề
– Nguyễn Du được coi là chuyên gia trong việc mô tả nội tâm của nhân vật.
Phân tích ưu điểm của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1
Trong tác phẩm Truyện Kiều, có nhiều đoạn tả nội tâm, mô tả tâm trạng của Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc xa quê. Tuy nhiên, để nhấn mạnh đoạn thơ tả nội tâm xuất sắc nhất, không thể không nhắc đến đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đây là một trong những đoạn thơ miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất, độc đáo nhất của Nguyễn Du, đặc biệt là tám câu cuối của đoạn thơ. Tất cả vẻ đẹp, điều tốt, và tài năng của Nguyễn Du đều hiện diện trong tám câu thơ này, cùng với từ “buồn trông”:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.
Tám câu thơ trên có vẻ chỉ mô tả cảnh vật bên ngoài lầu Ngưng Bích, nhưng khi suy ngẫm sâu hơn, ta nhận ra rằng thực ra chúng đang mô tả tâm trạng con người, tâm trạng của Kiều.
Bốn bức tranh được tạo ra từ tám câu thơ, mỗi bức là một khung cảnh khác nhau, nhưng mỗi bức tranh đều bắt đầu bằng từ “Buồn trông”. Khi đọc lên, nghe thế nào cảm xúc tận sâu trong lòng, đau đớn và xót xa! Nỗi buồn ấy dường như tồn tại sẵn trong lòng con người, cho nên khi nhìn thấy cảnh vật, Kiều càng cảm thấy buồn bã hơn, buồn đến tận cùng, mỗi lần nhìn lại càng thêm buồn thảm. Tâm trạng đau đớn, buồn rầu của Kiều đã truyền vào cảnh vật, khiến nó cũng trở nên u ám như cô ấy. Cảnh vật đó có vẻ phản ánh tâm trạng của cô ấy hay do tâm hồn của cô ấy tạo ra!
Trước khi đối mặt với biến cố gia đình, Kiều sống trong tình cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che”, nàng dù buồn nhưng buồn chỉ thoáng qua, là nỗi buồn của một thiếu nữ khuê các. Nhưng bây giờ, trải qua bao biến cố, đau khổ, ngồi một mình ở đây, nàng mới cảm nhận được nỗi buồn thấm vào tận tim gan, gieo rắc một nỗi buồn dài lâu, kéo dài suốt cuộc đời.
Biến cố bắt đầu từ khi nàng phải bán mình chuộc cha, rời xa tình yêu Kim Trọng, xa nhà, quê hương, gia đình êm ấm, bị làm nhục, đưa vào lầu xanh, lừa dối, đánh đập, tất cả xảy ra liên tục. Hỏi sao nàng không buồn? Nhưng buồn chỉ thoáng qua, chưa kịp đứng dậy sau biến cố này thì biến cố khác lại đến. Ngồi yên tĩnh, nàng mới cảm nhận được nỗi buồn trong số mệnh của mình.
Thực sự buồn khi từ những dòng thơ đầu tiên, ta thấy Kiều đứng một mình trên hành lang của lầu Ngưng Bích, ngắm cảnh vật xa xăm, bốn bề vắng lặng, quạnh quẽ. Không gian ấy dội vào lòng nàng nỗi buồn khó diễn đạt.
Nàng nhớ Kim Trọng, mẹ cha, nhà. Nỗi nhớ đó hòa quyện với nỗi buồn, thấm thía. Nguyễn Du gợi lên nỗi buồn ấy bằng một từ mộc mạc, chân thật: “Buồn trông”. Buồn nên trông, nhưng càng trông càng buồn. Hai từ ấy thấm vào lòng người, thê lương! Ngắm đâu, nàng thấy cảnh vật buồn bã.
Bức tranh đầu tiên hiện lên:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Nhìn về cửa bể, mong cảnh vật mang niềm vui, nhưng thấy “của bể chiều hôm”. Hai tiếng “chiều hôm” đủ làm ta buồn. Ánh sáng mặt trời suy yếu, chỉ còn chút ánh sáng trên mặt nước biển. Dải biển mênh mông, càng nhìn càng thấy vô tận. Không gì ngoài cảnh trống vắng khi trời chuyển sang đêm. Kiều nhìn thấy “thấp thoáng” một chiếc thuyền “cánh buồm xa xa”, mơ hồ, lẻ loi giữa biển lớn. Thuyền đang dần mất hút về chân trời, “thấp thoáng” như ảo ảnh con người. Tâm trạng trĩu nặng, cảnh vật khiến lòng nàng thấm thía, buồn tủi.
Ngoảnh mặt về phía bên kia của góc lầu, nàng muốn tìm một khung cảnh khác tươi vui hơn nhưng:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Kiều mong muốn tìm niềm vui giữa sự sầu muộn, nhưng nhìn chằm chằm, nàng chỉ thấy những cảnh sầu thảm.
Một dòng nước đang tuôn trào từ trên cao, cuốn cuộn, xô đẩy mọi thứ. Nhìn thấy cảnh tượng đó, Kiều chạnh lòng, càng nhìn càng buồn thương hơn. Nàng bắt gặp một cánh hoa đang lơ lửng trên dòng nước, yếu đuối giữa những xoáy nước dữ. Cánh hoa ấy giống như số phận nàng, rơi vào dòng nước dữ, không biết đi về đâu.
Hai lần nhìn ra không gian vô định, Kiều thấy cảnh vật sầu thảm giống cuộc đời mình. Lần thứ ba, cảnh vật lại bi thương hơn:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”
Như Nguyễn Du đã nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, vì vậy, nhìn quanh, mọi thứ vẫn chỉ mang nỗi buồn. Một khung cảnh u ám, chẳng còn màu xanh tươi mát, mà chỉ là màu xanh u ám của nội cỏ rậm rạp. Cảnh tượng giống như tâm trạng của Kiều, cô đơn và buồn bã.
“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Mặt đất và bầu trời dường như liền vào nhau, tạo thành một màu xanh nhợt. Màu xanh ấy làm cho người ta cảm thấy cô đơn, buồn bã.
Ngoảnh mặt về ba phía, mỗi phía đều mang lại cảm giác thê lương. Chỉ còn phía cuối cùng, Kiều ngoảnh lại nhìn. Nỗi buồn thấm đẫm tim gan nàng:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”
Ba bức tranh trước đó chỉ là phông nền cho nỗi buồn trào dâng ở bức tranh này.
Một vùng biển ăn sâu vào bờ đất, với tiếng sóng ầm ầm, dữ dội vây quanh. Tiếng sóng cuồn cuộn, cuồng nộ như muốn nuốt chửng tất cả. Kiều bị vây quanh bởi những cơn sóng dữ dội, làm nàng lo sợ và bối rối trước tương lai.
Ba bức tranh trước, con người và cảnh vật luôn song hành. Nhưng ở bức tranh này, họ hòa quyện vào nhau. Sự buồn của con người đã lan toả sang cảnh vật, đẩy nó lên tới đỉnh điểm, khiến người ta có thể làm bất cứ điều gì để thoát khỏi nó.
Kết thúc bốn bức tranh, người đọc không thể không ấn tượng bởi từ ngữ “buồn trông”. Khi buồn bã, chán chường đến tận cùng thì mọi thứ đều trở nên u ám và đau lòng. Từ ngữ này luôn đứng ở phía trước câu, tiếp sau là bốn bức tranh tượng trưng cho sự u tối và đau khổ. Có thể nói, từ ngữ này là cách để diễn đạt cảm xúc của Kiều, mở ra những bức tranh về tâm trạng của nàng và dự báo về những thử thách trong tương lai của nàng.
Để tạo ra bức tranh tâm trạng này, không ai có thể làm tốt hơn Nguyễn Du. Những bức tranh về thiên nhiên kết hợp hoàn hảo với tâm trạng của Kiều khiến cho độ đau khổ của nàng trở nên sống động. Đặc biệt là từ ngữ “buồn trông”. Cách mà ông miêu tả sắc thái của thiên nhiên và tâm trạng con người thực sự đáng ngưỡng mộ. Nguyễn Du thật sự là một nhà văn với khả năng diễn đạt nội tâm con người rất đặc biệt.
Phân tích về sự xuất sắc của từ ngữ “Buồn trông” trong tác phẩm Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2
Truyện Kiều là một trong những kiệt tác vĩ đại nhất của Nguyễn Du. Để viết nên tác phẩm này, ông đã thành công trong việc sử dụng các phép tu từ, đặc biệt là cách diễn đạt về cảnh ngụ tình.
Tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình xuất sắc nhất trong tác phẩm, đã thể hiện một cách sống động tâm trạng của Thuý Kiều khi bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn ngắm dòng nước mới sa,
Hoa trôi mãi, không biết về đâu?
Buồn trông cỏ rậm u uất,
Chân mây, mặt đất xanh mịn.
Buồn ngắm gió cuốn đầu duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng vỗ quanh ghế ngồi.
Khung cảnh thiên nhiên của bên cửa biển trước lầu Ngưng Bích hiện ra trước mắt chúng ta: một buổi chiều hoàng hôn đẹp nhưng buồn và hẻo lánh. Có những chiếc thuyền với những bóng buồm trắng nhẹ nhàng trên sóng, những đợt sóng bạc lặng lẽ cuốn trôi từng cánh hoa, rơi rụng trong ánh nắng cuối chiều, bãi cỏ xanh mướt liền kề với bầu trời xanh vô tận. Âm thanh dữ dội của biển cả như một phần không thể thiếu của cảnh vật, tạo nên một bức tranh tự nhiên chứa đựng bao nỗi niềm của con người...
Qua cách miêu tả cảnh vật và sử dụng khéo léo bút pháp tả ngụ tình, Nguyễn Du đã khiến chúng ta đồng cảm và đau thương với tâm trạng của Kiều.
Điệp ngữ 'buồn trông' xuất hiện liên tục trong đoạn trích này, tạo nên một điệu nhạc cho bài thơ và cũng phản ánh tâm trạng của Thuý Kiều. Nỗi buồn trong Kiều như là những đợt sóng dồn dập đổ về biển cả bao la. Nó không ngừng trỗi dậy, không ngừng kéo dài, bao trùm lấy và không cho phép lối thoát, giống như một vòng luẩn quẩn không lối ra. Mỗi cảnh vật đều thể hiện nỗi niềm tâm trạng ấy.
Buồn ngắm dòng nước mới sa,
Hoa trôi mãi, không biết về đâu?
Chiếc thuyền vô chốn, không nơi dừng chân, gợi lên nỗi nhớ nhà, nỗi cô đơn của kẻ đi xa, mong trở về bên gia đình, bên bạn bè thân thương. Tình huống này rất phản ánh tâm trạng của Kiều.
Buồn nhìn dòng nước mới trào,
Hoa trôi lênh đênh, không biết về đâu?
Cuộc sống của Kiều giờ đây như một cánh hoa yếu đuối trước sóng lớn và gió mạnh, không thể tránh khỏi những cơn bão to lớn, những trận mưa dồn dập. Câu thơ này phản ánh sự lo lắng, đau xót và nỗi buồn về tình hình khó khăn, bất ổn của Kiều giữa những biến động không ngừng của cuộc đời.
Buồn ngắm cỏ rậm u uất,
Mây trời, đất đỏ xanh mướt.
Thảm cỏ bạc màu, biển cả với màu xanh vô biên thật đáng buồn và u ám. Liệu có phải cửa tương lai đang đóng lại trước mắt Kiều, hố đen của số phận đang nuốt trọn những ước mơ và khát vọng?
Buồn nhìn gió cuốn mây lượn,
Âm thanh sóng biển ầm ĩ quanh ghế ngồi.
Bên ngoài, biển xanh đang cuồn cuộn sóng. Những âm thanh kinh khủng, kinh hoàng đang lan tỏa, như một dấu hiệu của tai họa, nguy nan đang đe dọa sự tồn vong của Kiều. Các câu hỏi trong tâm trí người đọc như muốn đẩy họ sâu vào suy tư. Chúng ta cảm thông, đồng cảm và thương xót với nỗi lo lắng và sợ hãi không lối thoát của Kiều trước tương lai không biết trước.
Có thể nói, đây là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong toàn bộ tác phẩm. Qua phong cảnh thiên nhiên, chúng ta cảm thấy xót xa, thương cảm với số phận bi đát của một người con gái tài năng, nhưng lại gặp phải nhiều bất hạnh. Đồng thời, điều đó cũng thể hiện sự đồng cảm, tôn trọng của Nguyễn Du đối với số phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Đánh giá về điều hay của điệp ngữ Buồn trông trong Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3
Trong 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du, đoạn mô tả tâm trạng của Thuý Kiều khi ở lầu Ngưng Bích luôn được người đọc đánh giá cao về khả năng tả cảnh và tả tình. Tuy nhiên, điều đặc biệt hay ở đoạn thơ này là những dòng cuối cùng, trong bốn bức tranh sau đây:
'Buồn nhìn cửa biển buổi chiều tà,
Thuyền nào mờ nhạt dưới ánh hoàng hôn?
Buồn ngắm nước mới sa chảy,
Hoa trôi theo dòng không biết đi về đâu?
Thấy nội cỏ buồn rầu rĩ,
Bao xanh mặt đất chân mây.
Dạt dào gió cuốn mặt đồi,
Âm vang sóng biển quanh bàn ngồi.
Tám câu thơ trên không chỉ là miêu tả cảnh vật, mà còn là miêu tả tâm trạng. Nguyễn Du tả cảnh vật nhưng thực ra lại đang tả tình cảm.
Bốn bức tranh đều bắt đầu bằng từ 'buồn trông', đồng nghĩa với việc nỗi buồn đã hiện hữu sẵn trong lòng trước cảnh vật. Khi ngắm nhìn cảnh vật, Kiều cảm thấy buồn rầu, và càng ngắm càng buồn. Điều này phản ánh tâm trạng của Kiều, một nỗi buồn lớn không thể qua đi chỉ trong một thoáng nhưng kéo dài suốt cuộc đời.
Bây giờ, Kiều mới thực sự cảm thấy buồn. Ta có thể tưởng tượng Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích, với bốn phía là sự hoang vắng. Cảnh đó khiến Kiều nhớ về số phận của mình, và nỗi buồn ngày một sâu sắc hơn.
Nàng đau lòng vì nhớ Kim Trọng, người đã hứa bên nàng nhưng giờ đã xa mãi. Nỗi buồn còn vì xa cha mẹ, không còn ai để chăm sóc mỗi ngày khi họ càng ngày càng già yếu. Nỗi buồn ấy lớn dần trong lòng Kiều, từ nỗi buồn ban đầu bắt nguồn từ cảnh vật sang nay trở thành nỗi buồn từ tâm hồn. Hai tiếng 'buồn trông' của Nguyễn Du thấu hiểu tâm trạng con người đến sâu sắc.
Đây là bức tranh đầu tiên:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?'
Nhìn về 'cửa bể chiều hôm', khi mặt trời đã khuất sau núi, chỉ còn ánh sáng cuối cùng trên biển. Cảnh tượng này tạo ra cảm giác hình ảnh của một trống vắng, một bầu trời dần tối. Trong trống vắng đó, chỉ có một chiếc thuyền mờ nhạt đang mất dần trong ánh hoàng hôn, chỉ thấy rõ cánh buồm của nó như một hình ảnh mơ hồ. 'Thuyền ai ...' thuyền của ai đây? Điều này tạo ra một nỗi buồn sâu sắc khi nhìn vào cảnh vật.
Để tìm chút lãng quên, Kiều quay đầu sang hướng khác:
'Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi xa xăm biết về phương nào?'
Trước mắt Kiều, một dòng nước từ trên thác cao đổ xuống, mang theo sự êm đềm của cuộc sống trong lành từ lòng suối, nhưng ngay sau đó là cảnh tượng dữ tợn của dòng nước cuốn trôi mọi thứ. Hoa trôi xa xăm, nhưng vẫn tồn tại giữa cuộc sống biển động của Kiều, giống như Kiều chính mình trôi giữa những sóng gió khó lường của cuộc đời.
Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Hãy nhìn điều khác.
Buồn trông nội cỏ héo hon,
Chân mây mặt đất màu xanh mờ.
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo dài vô tận, không có gì ngoài cỏ xanh héo hon. Từ 'hép hẳn' không chỉ gợi lên ý buồn bã mà còn làm ta nhận ra sự héo hon, chết chóc của những cỏ non trong cảnh vật.
Cỏ non xanh lạnh đến chân trời ... '
Đây là bãi cỏ cuối mùa, cũng buồn bã như lòng người chìm đắm trong cảnh vật. Nhưng bãi cỏ kia, màu xanh ủ ê kéo dài vô tận, giao hòa với bầu trời, tạo nên một gam màu duy nhất: 'xanh xanh'. Nếu Nguyễn Du viết:
'Chân mây mặt đất một màu xanh xanh'
Thì hẳn nàng Kiều đã tìm thấy ở đó chút an ủi, phảng phất lãng quên. Nhưng 'xanh xanh' vẫn chưa phải là màu xanh, chỉ là sắc xanh nhạt nhòa, xa xôi, khơi dậy niềm đau thương. Và màu 'xanh xanh' ấy chính là gam màu của tâm trạng nhìn từ đôi mắt ướt đẫm khổ đau.
Vậy là Thuý Kiều đã quay đầu nhìn cả ba phía. Chỉ còn một phía cuối cùng. Liệu có chút thay đổi không?
'Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'
Điều đáng buồn trong ba cảnh trước đó chỉ là một loại buồn nhẹ nhàng. Chỉ có cảnh này mới thật sự là buồn. Một vùng biển ăn sâu vào bờ, phía xa là biển khơi. Gió biển thổi mạnh, làm mặt biển duềnh lên, sóng lớn dậy sóng trắng xóa. Sóng vỗ 'ầm ầm' không ngừng, âm thanh vang vọng khắp biển cả. Kiều cảm thấy mình không còn ngồi trên lầu Ngưng Bích nữa, mà thay vào đó, nàng ngồi giữa lòng biển mênh mông, bốn phía sóng vỗ. Câu 'Ầm ầm tiếng sóng' vang lên trong tai nàng, đầy ám ảnh, vây quanh nàng.
Trên ba bức tranh trước đó, sự phân biệt giữa con người và nền cảnh vẫn còn rõ ràng, ai là chủ thì ai là khách, nhưng đến bức tranh này, con người đã hoàn toàn hòa nhập vào nền cảnh; nền cảnh bao phủ lấy con người, nỗi buồn đạt đến điểm cao trào. Lúc này, con người sẵn lòng tan biến vào nền cảnh, sẵn sàng mạo hiểm để thoát khỏi nỗi buồn kinh hoàng ấy, hoặc thậm chí là chết đi cũng không tiếc. Tâm trạng này đã làm đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, theo đuổi một cách dại dột rồi bị lừa.
Bốn bức tranh của Nguyễn Du không có gì lạ lùng. Nhưng điều thật sự đặc biệt là cách Nguyễn Du miêu tả những bức tranh đó, phản ánh hoàn cảnh và tâm trạng của Thuý Kiều một cách hài hòa. Bởi Nguyễn Du có cái nhìn sâu sắc về cảnh vật, về tình cảm con người, và cũng bởi tài năng văn chương của ông.