1. Nữ sĩ Anh Thơ (1921 - 2005)
Nữ sĩ Anh Thơ (1921 - 2005), sinh tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, trong một gia đình theo truyền thống Nho học. Bút danh của bà có nhiều tên khác nhau như Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh. Thơ của Anh Thơ thường đa tình và đa đoan, dùng ngôn từ giản dị, mộc mạc, tập trung vào vẻ đẹp của làng quê và thiên nhiên.
Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ rất sớm, nhận giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn khi chỉ mới 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê. Tham gia viết cho báo Đông Tây và một số báo khác, bà là một trong những tác giả tiêu biểu thời kỳ phong trào 'Thơ mới'. Thơ của bà thường nói lên giá trị của người phụ nữ trong xã hội và tái hiện vẻ đẹp của làng quê, cuộc sống mới trong thời kỳ chống Mỹ.
Tham gia hoạt động Việt Minh từ năm 1945, Anh Thơ có công làm Bí thư huyện Hội phụ nữ 4 huyện thuộc tỉnh Bắc Giang, tham gia Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957. Thơ của bà thể hiện tâm tình và hình ảnh người phụ nữ anh dũng, góp phần vào chiến thắng của dân tộc.
Đời sống tình cảm của Anh Thơ không trọn vẹn, trải qua sáu mối tình và cuối cùng kết hôn với bác sĩ Bùi Viên Dinh. Cuộc sống gia đình không hạnh phúc và bà sống cô quạnh đến tuổi già.
Tác phẩm tiêu biểu của bà: Bức tranh quê (thơ, 1939), Xưa (thơ, in chung, 1942), Hương xuân (thơ, in chung, 1944), Theo cánh chim câu (thơ, 1960),...


2. Xuân Quỳnh (1942 - 1988)
Xuân Quỳnh (tên đầy đủ: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh) sinh tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, Hà Nội. Bà lớn lên trong gia đình công chức, mẹ sớm qua đời, và bố thường xuyên đi công tác xa. Bà được bà nội chăm sóc và dạy bảo từ nhỏ đến khi trưởng thành. Tham gia Đoàn Văn công nhân dân Trung ương từ năm 1956, Xuân Quỳnh được đào tạo làm diễn viên múa. Bà biểu diễn ở nước ngoài và tham gia Đại hội thanh niên sinh viên thế giới 1959 tại Vienna (Áo).
Từ 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Làm việc tại báo Văn nghệ, Báo Phụ nữ Việt Nam sau khi học xong. Bà là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ năm 1973. Xuân Quỳnh mất trong tai nạn giao thông năm 1988 cùng chồng và con trai.
Thơ của Xuân Quỳnh đa dạng cảm xúc, từ hạnh phúc đến đau khổ, suy tư, dè dặt của người phụ nữ trong tình yêu. Những tác phẩm nổi tiếng như: Thuyền và biển, Sóng, Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng an... Bà đoạt Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh cho nền văn học Việt Nam với hai tập thơ: Lời ru trên mặt đất và Bầu trời trong quả trứng.


3. Ngân Giang (1916 - 2002)
Nữ thi sĩ Ngân Giang (1916 - 2002), tên thật Đỗ Thị Quế, sinh tại phố Hàng Trống, Hà Nội trong gia đình Nho học. Bà còn có các bút danh khác: Hạnh Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên.
Ông ngoại bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm, ông nội là nho sĩ nổi tiếng Bắc Hà, cha bà cũng là người nổi tiếng. 8 tuổi, bà đã có bài thơ đầu tiên tên 'Vịnh Kiều' đăng trên báo Đông Pháp với bút danh Nguyệt Quyên. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu Giọt lệ xuân, bút danh Hạnh Liên, nhà xuất bản Tân Dân ấn hành.
Năm 20 tuổi, bà viết cho tờ Ngọ báo, Bắc Hà. Năm 21 tuổi, bà có thơ in chung trong cuốn Duyên văn. Khi 22 tuổi, bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho Điện Tín nhật báo, và báo Mai. Sau đó, bà trở về Hà Nội, viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Đàn bà... Năm 1939, thi phẩm 'Trưng nữ vương' ra mắt, gây tiếng vang trên thi đàn. Năm 1945, bà tham gia mặt trận Việt Minh và cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân.
Năm 1946, Ngân Giang phụ trách Ban Lễ tân Bộ Nội vụ. Toàn quốc kháng chiến, bà ra chiến khu công tác tại Sở tuyên truyền liên khu I. Sau đó, bà quay về Hà Nội, làm thơ đăng trên các báo Hồ Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn... ký bút danh Nàng không tên. Năm 1957, bà kết nạp Hội Nhà Văn Việt Nam, làm việc tại Hội. Bà vào Hợp tác xã thêu ren. Bà mở quán bán hàng nước và mất khi không còn đủ sức. Bà là mẹ của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh.
Nữ thi sĩ Ngân Giang là một nhà thơ nữ thời tiền chiến, góp nhiều cho văn hóa nghệ thuật Việt Nam, nhưng lại bị lãng quên. Điều ấy có phải ứng với bốn chữ 'tài hoa bạc mệnh' hay không.
Trong sự nghiệp sáng tác, bà gắn bó với thể thơ Đường luật và thể thơ dân tộc, truyền thống nguyên bản trong khi nhiều nhà thơ khác chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây. Thơ của bà chủ yếu là nỗi buồn man mác của những mối tình dang dở, bất hạnh.
Tác phẩm tiêu biểu như: Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), Nhà xuất bản Tân Dân 1932; Tiếng vọng sông Ngân, Nhà xuất bản Lê Cường 1944; Ba tập Thơ Ngân Giang, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1989 - Nhà xuất bản Trẻ 1991 - Nhà xuất bản Phụ Nữ 1994....


4. Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh năm 1949)
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật vào năm 2007.
Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập viên tạp chí Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế). Bà là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, chồng bà - Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ rất nổi tiếng.
Ở nhà thơ Mỹ Dạ, ta thấy âm hưởng chính trong thơ xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào nhưng lại khỏe mạnh không giống ở những nhà thơ nữ khác. khi triển khai ý thơ, bà thường lấy nội dung làm trọng tâm, làm chủ được ngòi bút, không để ngôn từ trói buộc suy nghĩ.
Tác phẩm tiêu biểu của bà như: Trái tim sinh nở (thơ, 1974), Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983), Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989), Mẹ và con (thơ, 1994),...


5. Phan Thị Thanh Nhàn (sinh năm 1943)
Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Bà làm thơ từ sớm, đầu thập niên 1960 đã có thơ đăng báo. Năm 1969, bài thơ Hương thầm của bà đoạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội trong giai đoạn 2001 - 2005. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi. Phan Thị Thanh Nhàn kết hôn với nhà thơ Thi Nhị (đã mất năm 1979). Hiện nay, bà sống cùng con gái tại Hà Nội.
Ngoài làm việc tại báo Người Hà Nội, bà viết nhiều bài thơ tình và các chủ đề khác. Cùng với năm tháng, thơ tình của bà từ nhẹ nhàng, hồn nhiên chuyển sang giàu trải nghiệm, trăn trở nhưng bao dung và độ lượng hơn. Phong cách nghệ thuật thơ Phan Thị Thanh Nhàn cảm xúc chân thành, ngôn ngữ thơ dung dị, gần gũi, vì thế chiếm được cảm tình của rất đông bạn đọc. Bài thơ Hương thầm của bà đã được nhạc sĩ Vũ Hoàng phổ nhạc năm 1984 và trở nên nổi tiếng, lan toả vang xa hơn. Bà được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm tiêu biểu như: Tháng giêng hai (thơ, 1969), Hương thầm (thơ, 1973), Chân dung người chiến thắng (thơ, 1977), Bông hoa không tặng (thơ, 1987),...

