1. Hãy tự hào với những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng
Theo truyền thuyết, Mẹ Âu Cơ được kể là người mẹ đầu tiên của người Việt, người đã sinh trăm trứng nở ra trăm con. Người con trai đầu lòng của Mẹ Âu Cơ cùng với các chị em đã lập nên Nhà nước Văn Lang:
Mẹ Âu Cơ đưa con lên núi Tản Viên
Sửa sang giữ gìn quy mô, giữ gìn bảo tồn.
Ba đồi núi chồng chất nhưng một tòa lâu
Lũy thành kiên cố, bao bọc cõi xôi...
(Thiên Nam ngữ lục)
Trong câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ, GS. Vũ Đức Vượng (nguyên Giám đốc Chương trình Giáo dục tổng quát tại Đại học Hoa Sen) từng nhận định: “Nó không chỉ giúp chúng ta hiểu về nguồn gốc, mà còn là một câu chuyện tình đẹp, nhân văn và là một phần lịch sử rất rõ ràng về bình đẳng giới của người Việt nguyên thủy”. Theo ông, câu chuyện Mẹ Âu Cơ và Bố Lạc Long Quân có thể coi như viên ngọc quý của văn hóa Việt Nam.
Còn huyền thoại tiếp nối huyền thoại khác, kể về bà mẹ nghèo sinh ra người con trai dũng mãnh, Thánh Gióng, trong hành trình chống lại quân thù. Trong cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, những người mẹ đã hy sinh âm thầm và vô cùng vĩ đại, đóng góp lớn lao cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong bức thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Ngày Quốc tế Phụ nữ ngày 8/3/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Sức sống tràn đầy của non sông Việt Nam là nhờ phụ nữ ta, trẻ và già, đã cống hiến sức lao động mình để đất nước thêm phồn thịnh, rực rỡ”.
Tượng đài Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tại tỉnh Quảng Nam được lấy cảm hứng từ Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Thứ (1904 - 2010), người mẹ có nhiều con cháu hy sinh nhất trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Mẹ Thứ sinh sống tại xóm Rừng, thôn Thanh Quýt 2, xã Điện Thắng Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mẹ có 9 con trai, một con rể và hai cháu ngoại hy sinh trong hai cuộc chiến tranh. Người con gái lớn nhất của Mẹ Thứ, Mẹ Lê Thị Trị, cũng được trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng vì có chồng và hai con gái là liệt sĩ. Vì vậy, Mẹ Thứ có thể xem là biểu tượng của 11.659 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tại tỉnh Quảng Nam và 138.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trên cả nước.
Tại Quảng Trị, “vùng đất thép”, gia đình của Mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Hẹ là một trong những gia đình cách mạng đặc biệt. Họ đã có nhiều đóng góp, hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Gia đình này có 7 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và 17 liệt sĩ. Trong số 17 liệt sĩ, 11 là con đẻ, con dâu, con rể, cháu nội và cháu ngoại của Mẹ Hẹ. Mẹ Hẹ có 1 con gái và 3 con dâu được trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Mẹ Hẹ còn có 2 em dâu và 6 liệt sĩ gọi mẹ là cô ruột.
Có 10 Bà mẹ là cả Bà mẹ Việt Nam Anh hùng lẫn Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Danh sách bao gồm: Bà mẹ Văn Thị Thừa (sinh năm 1915, quê ở Quảng Nam), Bà mẹ Nguyễn Thị Rành (sinh năm 1900, ở TPHCM), Bà mẹ Phạm Thị Ngư (sinh năm 1912, Bình Thuận), Bà mẹ Võ Thị Nhã (sinh năm 1921, Quảng Ngãi), Bà mẹ Đỗ Thị Phúc (sinh năm 1906, Nam Định), Bà mẹ Bùi Thị Thêm (sinh năm 1924, Kiên Giang), Bà mẹ Huỳnh Thị Tân (sinh năm 1906, Sóc Trăng), Bà mẹ Đoàn Thị Nghiệp (sinh năm 1925, Tiền Giang), Bà mẹ Mai Thị Út (sinh năm 1913, Tiền Giang) và Bà mẹ Nguyễn Thị Điểm (sinh năm 1941, TP.HCM).
Cũng có ba chị em ruột đều là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, bao gồm Mẹ Bùi Thị Hải (sinh năm 1908), Mẹ Bùi Thị Tư (sinh năm 1916) và Mẹ Bùi Thị Nhỏ (sinh năm 1922) tại xã Hàm Chính, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
Ngày nay, những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng là tấm gương sáng cho thế hệ con cháu tiếp theo.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước liên tục quan tâm, chăm sóc phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” bằng những hành động thiết thực như phụng sự cho những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống và xây dựng nhà tình nghĩa cho họ. Bởi thời gian có thể trôi qua, nhưng sự hi sinh vô cùng to lớn của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng sẽ sống mãi. Đảng, Nhà nước và nhân dân sẽ mãi mãi ghi nhớ những hy sinh, đóng góp của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đúng như câu đối ca ngợi hình tượng Mẹ Việt Nam Anh hùng của GS. Vũ Khiêu (Viện trưởng đầu tiên của Viện Xã hội học Việt Nam): “Tổ quốc ghi công con liệt sỹ/ Nhân dân nhớ nghĩa mẹ anh hùng”.
Tất cả những tác phẩm nghệ thuật về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đều chân thực, sinh động và cảm động, nhưng phổ biến nhất là bài Hát về Mẹ Việt Nam Anh hùng của nhạc sĩ An Thuyên, một tác phẩm được truyền đạt rộng rãi. Giai điệu của bài hát tái hiện cuộc sống của những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, nhấn mạnh: “Đời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao, vì đất nước hy sinh cả cuộc đời”.
138.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trên toàn quốc xứng đáng với tám chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang”. Dù thanh xuân không trực tiếp trải qua bom đạn, không thấy những nỗi đau, mất mát trong những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhưng họ hiểu rằng giá trị cuộc sống ngày nay là nhờ vào sự hi sinh của nhiều thế hệ trước, là những nỗi đau và sự mất mát lớn lao của những Mẹ Việt Nam Anh hùng như Mẹ Thứ, Mẹ Hẹ, Mẹ Rành...
Nguyễn Văn Toàn


2. Mẹ Việt Nam, truyền thuyết bất tử
Đã 75 năm đã trôi qua, từ ngày 27.7.1947, những nén tâm nhang vẫn sáng lên khắp các nghĩa trang, đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Lòng tri ân của bao thế hệ người Việt hướng về hàng ngàn thương binh, bệnh binh, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tìm về bên Mẹ.
Mẹ là một phần của lịch sử bi tráng, đau thương, là những nốt nhạc trầm - thăng trong bản trường ca bất tử, đầy kiêu hãnh, tự hào. Mẹ thầm lặng mà cao cả, giản dị mà dũng cảm, can trường, là nguồn cảm hứng bất tận để nhiều thế hệ nhạc sĩ đặt trọn tâm huyết và tạo nên một tượng đài sống động bằng âm nhạc.
Lấy cảm hứng từ hình tượng Mẹ Suốt (Bảo Ninh, Đồng Hới) sau chuyến công tác tại Quảng Bình, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết ca khúc để đời “Huyền thoại mẹ” (1984), khái quát hình tượng Mẹ Tổ quốc ngoan cường, đầy bao dung, nhân hậu: “Đêm chong đèn ngồi nhớ lại/ Từng câu chuyện ngày xưa/ Mẹ về đứng dưới mưa/ Che đàn con nằm ngủ/ Canh từng bước chân thù/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa…”. Đó là người mẹ của hàng ngàn đứa con chiến sĩ dũng cảm, mưu lược, là bóng mát che chở cho bao thế hệ đàn con cách mạng chiến đấu và tìm về như một chốn bình an: “Mẹ là nước chứa chan/ Trôi dùm con phiền muộn/ Cho đời mãi trong lành/ Mẹ chìm dưới gian nan…”.
Sẽ không có gì ngạc nhiên khi các thế hệ nhạc sĩ dành cho Mẹ nhiều tình cảm đến vậy, và “trang điểm” một chân dung Mẹ nhiều mất mát, hy sinh mà đẹp lộng lẫy đến như thế. Với “Người mẹ của tôi” (1989), nhạc sĩ Xuân Hồng đã nói thay triệu triệu người con đất Việt niềm thương cảm lớn lao, bởi những cuộc trường chinh của Tổ quốc này đã lấy đi của Mẹ tất cả: “Nước mắt mẹ không còn/ Vì khóc những đứa con/ Lần lượt ra đi, đi mãi mãi/ Thời gian trôi qua/ Vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng/Nhưng vết thương lòng, mẹ vẫn còn nặng mang…”. Từ đó nhắn nhủ các thế hệ lớn lên trong hòa bình biết trải lòng mình ra san sẻ, tri ân, biết sống có ích hơn, xứng đáng hơn với những hy sinh không gì bù đắp nổi của Mẹ.
Nhạc sĩ Phan Long sau này viết ca khúc “Mẹ” (1992, phổ thơ Đoàn Ngọc Thu) với góc nhìn hậu chiến cũng đã xây dựng một hình ảnh Mẹ cụ thể, 20 năm đằng đẵng chờ chồng: “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và những vết thương trên ngực cha/ Khi trở gió lại đau nhức nhối…”. Trong suốt những tháng năm binh biến ấy, mẹ phải chịu bao gian khó, thiệt thòi mà không một lời than vãn: “Hai mươi năm ngày mẹ cưới/ Đến hôm nay sống đời vợ chồng/ Hai mươi năm… mẹ nuôi con một mình”.
Khúc tráng ca tháng 7 hào hùng, đầy tự hào, kiêu hãnh hàng năm vẫn đều đặn được cất lên đã lay động đến tận cùng xúc cảm của thế hệ hôm nay: “Hát về những người mẹ Việt Nam, hát mừng những người mẹ anh hùng/ Đời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao/ Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời…” (“Hát về Mẹ Việt Nam anh hùng”, nhạc sĩ An Thuyên).
Suốt dặm dài lịch sử đấu tranh của dân tộc, hình tượng Mẹ đã tạc vào dáng đứng của Tổ quốc, đã đi vào các tác phẩm âm nhạc một cách tự nhiên, dung dị mà sinh động, sáng ngời. Vượt lên tất cả những tấm huân chương, huy chương, những tấm bằng khen ghi nhận công trạng hậu chiến, Mẹ chính là huyền thoại bất tử, là một phần chứng tích trong trang sử bi - hùng của dân tộc. Mẹ đã sống, đã cống hiến và hy sinh bằng một cuộc đời thầm lặng, giản dị mà cao cả như thế!
NGÔ THẾ LÂM


3. Mẹ Việt Nam anh hùng trong tâm hồn
Trong sử dụng phóng túng và tạo hóa, biểu tượng người mẹ trở thành niềm kiêu hãnh của sự hảo tâm, che chở và lòng hy sinh vô tận. Qua hàng ngàn năm, ở mọi quốc gia trên thế giới, người mẹ được tôn vinh như một biểu tượng của tình mẫu tử và lòng hiếu thảo, đặc biệt là trong gia đình.
Tại thế giới cổ đại, người Hy Lạp đã tổ chức lễ hội Cybelle để tôn vinh người mẹ. Đó là lễ hội tôn kính sự huyền bí và bao dung của người mẹ.
Ở Việt Nam, tình mẫu tử còn nặng nề hơn. Tôn thờ Đạo Mẫu, một tập quán thờ các nữ thần, là một biểu hiện rõ nét của văn hóa dân gian Việt.
Đạo Mẫu thời gian càng trở nên phổ biến và mở rộng để tôn vinh cả những người anh hùng nữ có công đặc biệt trong chiến tranh. Họ trở thành những vị thánh linh, biểu tượng của sự bảo vệ và yêu thương.
Truyền thống thờ Mẫu không chỉ nhắc nhở về cuộc sống sau cái chết, mà còn là khát vọng cho cuộc sống hạnh phúc, an bình và không khổ ưu tư. Mẫu là biểu tượng của sự hy sinh vì tổ quốc, sự dũng cảm của người mẹ bảo vệ con cái và giữ cho cuộc sống thăng trầm.
Chiến tranh đã làm nổi bật lòng hy sinh và đau thương của những bà mẹ Việt Nam. Họ đã thắt lưng buộc bụng, chôn giấu nỗi đau để hy sinh cho độc lập và tự do. Cảnh người mẹ tiễn con đi và khóc thầm trong nỗi đau là hình ảnh không lẫn vào đâu được.
Những người mẹ đã can đảm chiến đấu và gác đầu chống bom để giữ cho quê hương an toàn. Hình ảnh những người mẹ trẻ tuổi bị bắt và xử tử trong cuộc chiến tranh chống Pháp đầu tiên vẫn còn sống mãi trong lịch sử.
Mỗi người mẹ, mỗi người vợ mang theo mình một nỗi đau khác nhau nhưng đều chung một tình cảm, những giọt nước mắt âm thầm truyền cảm. Họ có sức sống phi thường, không gì khuất phục được.
Chúng ta tự hào về những Bà mẹ Việt Nam anh hùng và hứa hẹn tôn vinh họ mỗi ngày. Mỗi người mẹ mong muốn con cháu phát triển, xây dựng đất nước dân chủ, giàu mạnh và thịnh vượng.
TRẦN THÁI PHƯƠNG


4. MẸ VIỆT NAM - NGƯỜI MẸ ANH HÙNG
Tháng Bảy, bước chân vào mùa mưa, nơi hương linh anh hùng tràn ngập không khí. Những tâm hồn liệt sĩ, thương binh đã hy sinh vì tự do, độc lập.
Ở Việt Nam, khái niệm Mẹ Tổ quốc có lẽ trở nên đặc biệt hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Ba tiếng “Mẹ Việt Nam” khiến con tim chúng ta đong đầy cảm xúc… Xin được kể về Mẹ, những người Mẹ Việt Nam anh hùng, với lòng tri ân và tự hào dân tộc.
“Mẹ Việt Nam ơi
Hai chữ hy sinh trọn cả đời
Khổ đau, lận đận mãi không thôi
Xin hãy nạm vàng muôn khổ cực
Đổi lấy phút giây Mẹ mỉm cười”
Chiến tranh và hòa bình, sự chia ly kéo dài hơn sự đoàn tụ, nghèo đói kéo dài hơn sự no ấm. Đời mẹ liên kết với vận mệnh của đất nước như là một định mệnh đầy tự hào và khắc nghiệt.
Chúng ta biết rằng, để có ngày hòa bình, thống nhất như ngày nay, gần hai triệu con người ưu tú đã hi sinh. Cũng như số lượng đó, có những bà mẹ khóc con, những góa phụ khóc chồng… Đi bất cứ nơi đâu, từ phía Bắc đến mũi Cà Mau, ta có thể cảm nhận nỗi đau của những người Mẹ.
Nỗi đau nặng nề và âm thầm ấy tràn ngập lịch sử dân tộc. Những bà Mẹ mảnh mai, giống như hình chữ S của Việt Nam, vai gánh nặng và chân chạm đất.
Những bà Mẹ bé nhỏ, yếu đuối nhưng ẩn sau đó là nỗi đau, nghị lực phi thường và sức mạnh sống mãnh liệt. Vinh quang và đau thương của những bà Mẹ Việt Nam anh hùng làm cho thế giới kinh ngạc và phục sự.
Đúng! Chỉ có ở Việt Nam, có những bà Mẹ chờ đợi chồng suốt 20 năm, làm lụng, nuôi con, đối mặt với thế lực đen tối để sống sót; khóc ba lần khi con ra đi vĩnh viễn; nén đau thương, cầm vũ khí chống địch, đứng trước mặt súng giặc…
Chắc chắn, trên thế giới này, chỉ có những bà Mẹ Việt Nam thôi! Vậy nên, ở Việt Nam, hình ảnh của người Mẹ luôn gắn liền với Tổ quốc. Và tại sao, Tổ quốc lại là Mẹ, không cần hỏi nữa!
Chiến tranh khốc liệt đưa rất nhiều bà Mẹ vào những tình huống khó khăn. Có những bà Mẹ anh hùng nhưng không dám nhận mình là Anh hùng, vì đứng trước sự lựa chọn đau lòng giữa sinh mệnh đứa con và an toàn của đoàn quân.
Hy sinh của những bà Mẹ ấy vô cùng cao cả và đau đớn. Mỗi bà Mẹ có một câu chuyện riêng về nguồn gốc, về hoàn cảnh… nhưng cùng chung một điểm là nước mắt chảy ngược khi hình bóng con mình vĩnh viễn biến mất.
Trong niềm vui của chiến thắng, Mẹ hòa mình vào dòng người hò reo dưới bầu trời cờ hoa, nhưng trong trái tim Mẹ là những cảm xúc đau buồn, nước mắt đổ khi nhìn thấy con mình không trở về.
Hòa bình, những bà Mẹ phải cứng rắn, chấp nhận cuộc sống khó khăn, kiên trì và tỉnh táo trước những khó khăn, khủng hoảng. Những thế hệ lớn lên sau chiến tranh không nên quên nỗi đau không lời của những bà Mẹ, không thể quên những hy sinh im lặng như một khúc hát ru êm đềm dưới những chiến tích vang dội.
Hôm nay, mỗi hương thơm nâng lên trên mộ của Anh hùng liệt sĩ cũng là lời tri ân đến những người Mẹ - “Mẹ Anh hùng của những người Anh hùng”. Có những Mẹ đã về với đất, có những Mẹ còn sống để nhìn thấy đất nước thay đổi, cháu con phát triển theo cách mà tổ tiên để lại.
Với những Mẹ, đây có lẽ là món quà quý giá nhất, vượt xa cả những chiếc chuông vàng, những bảng khánh bạc sau những hy sinh, đau đớn suốt cả cuộc đời. Mỗi đêm, Mẹ lại thắp hương, hát lên bài hát ru dịu dàng, “Hãy ngủ yên con ơi, đất nước đã thanh bình”…
Và, mỗi năm, tháng Bảy, Mẹ đứng trước những mộ liệt sĩ, nơi con của Mẹ nằm nghỉ, với đôi mắt trĩu nước khắc sâu niềm nhớ.
“Tháng Bảy về Mẹ lại đứng trông
Hướng xa xăm nhìn vào cõi nhớ
Khóe mắt khô nặng từng hơi thở
Cơn gió nào lau hộ giọt thương đau.
Tháng Bảy về bao lần Mẹ ước ao
Thấy những đứa con cài hoa hồng trên áo
Chiều nghĩa trang, chiếc lá vàng chao đảo
Giọt mưa thu ngưng đọng tiếng kinh cầu”…
Sưu tầm


5. Truyền thuyết về Mẹ
Không thể tìm thấy dân tộc thứ hai trên thế giới này có danh hiệu 'Mẹ anh hùng' được trao tặng. Không có quốc gia nào tận hưởng một ngày kỷ niệm thiêng liêng và cảm động như vậy, ngày để mọi người nhớ đến Mẹ, dâng lên Mẹ sự kính trọng vì những cống hiến và hy sinh không thể diễn đạt hết bằng lời…
Các thế hệ nhạc sỹ dành cho Mẹ nhiều tình cảm đến vậy và 'trang điểm' một bức tranh về Mẹ với những mất mát, hy sinh, nhưng vẫn tươi đẹp lộng lẫy. Mẹ là một phần của lịch sử bi tráng, đau thương, là những nốt nhạc trầm - thăng trong bản trường ca bất tử, đầy kiêu hãnh, tự hào.
Thu hút từ hình ảnh Mẹ Suốt (Bảo Ninh - Đồng Hới) sau chuyến công tác tại Quảng Bình, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã sáng tác ca khúc độc đáo 'Truyền thuyết về Mẹ' (1984), tóm tắt một cách đầy đủ hình ảnh Mẹ Tổ quốc ngoan cường, bao dung và nhân hậu: 'Đêm chong đèn ngồi nhớ lại/ Từng câu chuyện ngày xưa/ Mẹ về đứng dưới mưa/ Che đàn con nằm ngủ/ Canh từng bước chân thù/ Mẹ ngồi dưới cơn mưa…'. Đó là người mẹ của hàng ngàn đứa con chiến sỹ dũng cảm, mưu lược, là bóng mát chở che cho bao thế hệ đàn con cách mạng chiến đấu và tìm về như một chốn bình an: 'Mẹ là nước chứa chan/ Trôi dùm con phiền muộn/ Cho đời mãi trong lành/ Mẹ chìm dưới gian nan'.
Tiếp tục chuyển động cảm xúc đó, Mẹ bước vào “Đất nước” của nhạc sỹ Phạm Minh Tuấn (1985, phổ thơ Tạ Hữu Yên) vừa lặng thầm mà cao cả, vừa giản dị lại bất khuất, can trường: “Đất nước tôi, thon thả giọt đàn bầu/Nghe dịu nỗi đau của mẹ/ Ba lần tiễn con đi/ Hai lần khóc thầm lặng lẽ/ Các anh không về/ Mình mẹ lặng im…”. Đó là chân dung người mẹ tảo tần, lam lũ mà son sắt thủy chung và sáng ngời chân lý cách mạng: “Hạt thóc chia đều, dẫu no dẫu đói/ Ta vẫn vẹn tình, đắng ngọt cùng vui…”.
Nhạc sỹ Xuân Hồng với “Người mẹ của tôi” (1989) đã diễn đạt tâm tư của triệu triệu người con Việt trước tình yêu thương sâu sắc, bởi cuộc chiến tranh của Tổ quốc đã lấy đi tất cả khỏi Mẹ: “Nước mắt mẹ không còn/ Vì khóc những đứa con/ Lần lượt ra đi, đi mãi mãi/ Thời gian trôi qua/ Vết thương trên thịt da đã lành theo năm tháng/ Nhưng vết thương lòng, mẹ vẫn còn nặng mang…”. Từ đó, họ truyền đạt cho các thế hệ lớn lên trong hòa bình biết trải lòng mình ra san sẻ, tri ân, biết sống có ý nghĩa hơn, xứng đáng với những hy sinh không gì bù đắp nổi của Mẹ: “… Mẹ Việt Nam ơi, mẹ Việt Nam ơi/ Xin cám ơn người, người mẹ của tôi”.
Trong suốt những tháng năm đau thương của chiến tranh, Mẹ phải chịu đựng bao gian khổ, thiệt thòi mà không một lời than vãn. Khi chiến tranh rời xa, ở góc nhìn sau chiến, nhạc sỹ Phan Long bày tỏ lòng trắc ẩn sâu sắc trong ca khúc “Mẹ” (1992, phổ thơ Đoàn Ngọc Thu): “Cả cuộc đời cha đi bộ đội/ Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương/ Và những vết thương trên ngực cha/ Khi trở gió lại đau nhức nhối…”. Mẹ vẫn là biểu tượng cao quý để mỗi đứa con ca ngợi và mong muốn tìm về nơi che chở sau những gian khó, va vấp: “Con chỉ muốn về với mẹ thôi/ Trong lòng mẹ rộng lớn như biển khơi…”.
Với ca khúc “Hát về Mẹ Việt Nam anh hùng” (1994), nhạc sĩ An Thuyên đã dành riêng cho Mẹ, tặng cho tháng 7 một bản hòa nhạc hùng vĩ, đầy tự hào và kiêu hãnh. Lời ca đã làm rung động đến tận cùng tâm hồn của thế hệ ngày nay: “Hát về những người mẹ Việt Nam, hát mừng những người mẹ anh hùng/ Đời dâng hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao/ Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời…”.
Cảm ơn Mẹ với cuộc đời đã sống, đã hi sinh và dành trọn tình mẹ một cách cao cả. Vượt qua tất cả các huy chương và bằng khen, Mẹ đã tượng trưng cho Tổ quốc ngoan cường này, vững vàng như một tượng đài bất tử!
Tản văn: Ngô Thế Lâm

