1. Bài luận 'Một thời đại trong thi ca' số 1
I. Giới thiệu về Hoài Thanh
- Hoài Thanh (1909-1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên
- Xuất thân gia đình nhà nho yêu nước
- Tham gia phong trào yêu nước, bị thực dân Pháp bắt, làm Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc ở Huế
- Hoạt động chủ yếu trong ngành văn hóa-nghệ thuật, giữ nhiều chức vụ quan trọng
- Tác phẩm tiêu biểu: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Có một nền văn hóa Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến,...
- Nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại
II. Tác phẩm Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)
1. Xuất xứ
- Tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết phong trào Thơ mới
- Đoạn trích thuộc phần kết luận bài tiểu luận
2. Bố cục
- Phần 1 (đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần Thơ mới
- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới
- Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới
3. Giá trị nội dung
- Tác phẩm làm nổi bật tinh thần Thơ mới: Chữ tôi với ý nghĩa tuyệt đối, xuất hiện lần đầu trong thi ca; thể hiện bi kịch ngấm ngầm trong tâm hồn thanh niên lúc bấy giờ
4. Giá trị nghệ thuật
- Lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo; văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1: Khó nhận ra ranh giới giữa thơ cũ và mới; so sánh dựa trên đại thế; chấp nhận những thay đổi không rõ ràng
Câu 2: Chủ đề cốt lõi của thơ mới: Quan niệm cá nhân, sự tự ý thức, khát vọng thành thực; thể hiện bi kịch ngấm ngầm trong tâm hồn thanh niên lúc bấy giờ
Câu 3: 'Chữ tôi' mang đến nỗi buồn, bơ vơ, muốn thoát nhưng không thoát được; bi kịch của thi sĩ lãng mạn
Câu 4: Nhà thơ giải tỏa bi kịch bằng cách gửi vào tiếng Việt; dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt; giọng điệu thiết tha, thương nhớ hồn quê
Câu 5: Nghệ thuật bài tiểu luận: Đặt vấn đề rõ, gọn; dẫn dắt khoa học, khéo léo; câu văn giàu chất thơ, gây hứng thú; lập luận chặt chẽ, thấy đáo khoa học; so sánh giữa thơ mới và cũ trong diễn biến lịch sử
LUYỆN TẬP
Bài 1: Chữ “tôi” và “ta” trong thơ mới và cũ: “Tôi” mang ý nghĩa tuyệt đối; “Ta” trong thơ cũ là ý thức cá nhân gắn với cộng đồng, đoàn thể
Bài 2: Lòng yêu nước biểu hiện qua sáng tạo trong thơ ca; tham gia trực tiếp vào phong trào cách mạng; yêu tiếng Việt và giữ gìn giá trị tinh thần, truyền thống dân tộc
Bài 3: Người đọc hiểu thêm về tâm hồn nhà thơ mới: Tấm lòng ưu ái, trí thức tiểu tư sản, gửi tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa dân tộc; biểu hiện lớp thanh niên trí thức đương thời đáng quý, đáng trân trọng

2. Bài viết 'Một thời kỳ trong thơ ca' số 3
1. Người sáng tác
- Tên thật Nguyễn Đức Nguyên: 15/7/1909 – 14/3/1982.
- Sinh ra trong gia đình nho nghèo, tham gia phong trào yêu nước từ rất sớm. Ông bắt đầu viết văn khi chỉ mới 20 tuổi.
- Được biết đến như là một nhà phê bình văn học xuất sắc trong văn học Việt Nam hiện đại.
- Tác phẩm nổi bật nhất: Thi nhân Việt Nam(1942).
- Được vinh danh Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Tác phẩm
Bài tiểu luận nghiên cứu và phê bình về phong trào thơ mới: Một thời kỳ trong thơ ca.
- Đặt ở đầu của tác phẩm Thi nhân Việt Nam.
- Đoạn trích được chọn từ cuối bài tiểu luận.
3. Khám phá bài viết
Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- Thách thức trong việc nhận diện tinh thần thơ mới là sự mơ hồ của đường ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới.
- Tác giả đề xuất cách nhận diện thơ mới: Phương pháp so sánh và đối chiếu
+ So sánh giữa bài thơ xuất sắc với bài thơ xuất sắc.
+ Cần 'nhìn vào tổng thể'
Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Ý chính mà thơ mới mang lại cho đời sống tinh thần Việt Nam:
- 'Chữ tôi” mang đến quan điểm cá nhân, một quan điểm chưa từng có trước đây. Trước kia, 'chữ tôi” phải ẩn mình sau 'chữ ta', nhưng hiện nay nó được thể hiện theo nghĩa tuyệt đối.
- 'Chữ tôi” cũng thể hiện bi kịch trong tâm hồn người thanh niên lúc đó.
- Họ đi tìm lối thoát bằng cách đặt hết tình yêu vào tiếng Việt.
Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* 'Chữ tôi' đáng thương và đáng trách vì:
- Mất cốt cách kiêu hãnh: không có tính kiêu hãnh mạnh mẽ như Lí Bạch, không có lòng tự trọng cao cả như Nguyễn Công Trứ.
- Than khóc, đau đớn, thất bại.
- Thiếu lòng tin đầy đủ vào thực tế, cố gắng thoát khỏi thực tế nhưng cuối cùng lại rơi vào bế tắc.
Câu 4 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Bi kịch của thanh niên thời kỳ ấy: Cô đơn, buồn chán, tìm kiếm lối thoát khỏi thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng lại bế tắc. 'Chữ tôi' bi kịch này 'đại diện đầy đủ nhất cho thời kỳ' nên nó không chỉ có ý nghĩa văn chương mà còn có ý nghĩa xã hội.
Câu 5 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Bài tiểu luận 'Một thời kỳ trong thơ ca' là một công trình phức tạp, phong phú nhưng vẫn dễ hiểu và hấp dẫn bởi:
- Kỹ thuật nghệ thuật hấp dẫn, linh hoạt:
- Tính khoa học.
+ Hệ thống điểm luận chuẩn xác, sâu sắc.
+ Dẫn chứng chọn lọc, lập luận chặt chẽ đầy sức thuyết phục.
+ Sử dụng kỹ thuật đối chiếu, so sánh đạt hiệu suất cao.
+ Nhìn nhận đánh giá vấn đề ở tầm sâu và rộng, chứng cứ và quan điểm đầy đủ và khách quan.
+ Cách tiếp cận vấn đề tự nhiên, linh hoạt và độc đáo, chuyển đổi ý tưởng một cách khéo léo.
- Tính nghệ thuật
+ Ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc, tinh tế, dễ hiểu nhưng vẫn sâu sắc, có giá trị biểu cảm cao.
+ Lời văn tình cảm, chia sẻ, đồng cảm, với nhiều hình ảnh gợi cảm, gợi hình, gợi liên tưởng: “Cuộc sống của chúng ta…với Huy Cận.
+ Tình cảm chân thành, nồng nhiệt.
Luyện tập
Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- 'Chữ tôi': ý nghĩa tuyệt đối
+ Không có cá nhân, chỉ có cộng đồng, lớn là quốc gia, nhỏ là gia đình. Cá nhân, bản sắc cá nhân bị chìm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong đại dương.
+ Không tự xưng hoặc ẩn mình sau 'chữ ta'.
- 'Chữ ta' trong thơ cũ là ý thức cá nhân gắn liền với cộng đồng, đoàn thể (lớn là quốc gia, nhỏ là gia đình).
+ Quan điểm cá nhân, gắn liền với cá nhân, cá thể.
+ Theo chữ anh, chữ bác, chữ ông đã gặp rắc rối. Huống chi bây giờ nó đến một mình.
+ 'Chữ tôi' với ý nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện.
Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Tình yêu nước của các nhà thơ mới được thể hiện ở:
- Bằng cách đặt hết tình yêu vào tiếng Việt: “họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ niềm vui và nỗi buồn với cha ông. Họ gửi tình yêu quê hương vào tình yêu tiếng Việt”
- Vì tiếng Việt là cơ sở của tâm hồn và sự đa dạng của lịch sử văn hóa dân tộc
- Trân trọng tinh thần của tổ tiên, tâm trạng của những vẻ đẹp trong quá khứ của dân tộc.
Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- 'Tôi' của các nhà thơ mới 'đáng thương' và 'đáng tội nghiệp' vì nó đã mang lại cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh lẽo, cô đơn, muốn thoát ra nhưng không thể. Bởi vì họ là những nhà thơ sống trong cuộc sống ước muốn, bất lực của thân phận mất nước, mang theo mình cái cô đơn nhỏ bé.
- Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời đó đã thể hiện tình yêu thương âm thầm đối với quê hương và đất nước. Tất cả tình yêu thương đó được họ đặt hết vào tình yêu tiếng Việt.
Bố cục
Bố cục: 3 phần
- Phần 1 (từ đầu đến tổng thể): đặt vấn đề về tinh thần thơ mới.
- Phần 2 (tiếp theo đến suy nghĩ riêng): phân biệt thơ cũ và thơ mới; cảm xúc chủ đạo của thơ mới.
- Phần 3 (phần còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của thơ mới.
Nội dung chính
Một thời kỳ trong thơ ca đã làm nổi bật nội dung quan trọng của 'tinh thần thơ mới': Lần đầu tiên 'chữ tôi, với ý nghĩa tuyệt đối của nó', xuất hiện trong thơ đồng thời thể hiện 'cái bi kịch ẩn sau tâm hồn của người thanh niên' vào thời kỳ đó.

3. Bài viết 'Thời đại một trong những giai đoạn trong lịch sử thơ ca' số 2
I. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
- Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên, xuất thân từ gia đình nho nghèo yêu nước ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Nhà phê bình văn học hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại, Hoài Thanh để lại nhiều tác phẩm có giá trị như: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Có một nền văn hóa Việt Nam (1946), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du (1949), Nói chuyện thơ kháng chiến (1950), Phê bình và tiểu luận (3 tập- 1960, 1965, 1971).
2. Tác phẩm
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới. Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tiểu luận.
Bố cục: 3 phần
+ Phần 1 (đầu tới “nhìn vào đại thể”): Nguyên tắc xác định tinh thần Thơ mới
+ Phần 2 (tiếp đến “Huy Cận”): tinh thần Thơ mới - sự khẳng định và vận động của “cái tôi”
+ Phần 3 (đoạn cuối): Hướng giải quyết bi kịch
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Cái khó trong việc tìm ra tinh thần Thơ mới:
- Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở, cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng,
- “Tinh thần Thơ mới” khó là không phải ranh giới thơ mới- thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì “Âu là ta cũng đành phải nhận ra rằng tời đất hông phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ...”
Từ đó, tác giả đã nêu ra cách nhận diện:
- “Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải riêng thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hai với bài hay vậy”.
- “... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Điều cốt lõi mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam bấy giờ là “cái tôi”. Theo nhà thơ:
+ “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”.
+ Bản chất chữ tôi: Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (Cái nghĩa tuyệt đối của nó).
+ Hành trình: chập chững, lạ lẫm – được quen biết – được cho là đáng thương và tội nghiệp.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Chữ “tôi, với cái nghĩa của nó” lại “đáng thương” và... “tội nghiệp”:
- Đó là bi kịch của cái tôi nhỏ bé tội nghiệp, “mất hết cốt cách hiên ngang ngày trước”.
- Bi kịch của cái tôi: mất bề rộng (không tìm được tiếng nói chung với cuộc đời), chỉ còn bề sâu (trốn chạy vào ý thức cá nhân).
- Bi kịch của “cái tôi” bàng hoàng và thiếu một lòng tin đầy đủ, không còn có thể nương tựa vào một cái gì bất di bất dịch như cái ta thuở trước.
=> Những bi kịch có tính chất xã hội: Thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm phản chiếu tâm lí một thế hệ, những thất vọng, hi vọng của cả thế hệ.
Câu 4 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách: gửi cả vào tiếng Việt. “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Vì họ nghĩ “Tiếng Việt là tấm lụa xứng đã hứng vong hồn những thế hệ qua” và họ tin vào lời nói triết lí “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.
Câu 5 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng người đọc vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi:
- Cách đặt vấn đề và giải quyết vấ đề một cách thuyết phục, khoa học.
- Những lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó gắn chặt chẽ với những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục.
- Bài viết có tầm nhìn bao quát về “cái tôi”, “cái ta”, có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách đơn giản một chiều.
Luyện tập
Câu 1 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Sự khác biệt cơ bản giữa chữ tôi thơ mới và chữ ta thơ cũ:
- Thơ văn xưa thường nói lên những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. “Cái tôi” nếu có cũng chỉ ẩn mình dưới “cái ta” chung ấy.
- “Cái tôi” trong Thơ mới, nó đã tách bạch, đứng riêng rẽ một mình, bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay trong bản thể của nó.
Câu 2 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Lòng yêu nước của các nhà thơ mới đã gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tiếng Việt “đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua”. Họ tin rằng vận mệnh dân tộc gắn với vận mệnh tiếng Việt đồng thời qua thơ mình, họ muốn làm cho tiếng Việt giàu đẹp hơn.
Câu 3 (trang 104 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Qua bài tiểu luận, chúng ta thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những thi nhân đang sống trong tâm trạng mòn mỏi, tù túng của thân phận mất nước. Họ chưa tìm ra phương hướng, mục tiêu để đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc. Bởi vậy, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt.

5. Bài giảng về 'Một giai đoạn trong lịch sử thi ca' số 4
KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Về Tác giả Hoài Thanh
Hoài Thanh, tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyện (1909-1982), xuất thân từ gia đình nhà nho yêu nước.
Quê quán: xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
Cuộc đời và sự nghiệp:
Viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX. Tháng 8 năm 1945, tham gia khởi nghĩa và làm Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.
Sau cách mạng tháng 8, tham gia ngành văn hóa-nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư kí Hội văn hóa cứu quốc, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật,...
Là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Các công trình có giá trị như: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến,...
2. Tác phẩm 'Một thời đại trong thơ ca'
Tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết phong trào thơ mới. Đoạn trích trong sgk là phần cuối của bài tiểu luận nói trên. Tác phẩm nêu rõ tinh thần thơ mới qua 'cái tôi' và chữ 'ta'.
Viết năm 1941, xuất bản 1943, tác phẩm là tổng hợp độc đáo về phong trào thơ mới và đóng góp tích cực của những cá nhân cho phong trào này.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Theo tác giả, khó khăn trong việc hiểu tinh thần thơ mới là gì? Làm thế nào để nhận diện?
Bài làm:
Khó khăn trong việc hiểu tinh thần thơ mới là vùng biên giới mờ nhạt giữa thơ cũ và thơ mới. Cách nhận diện bằng việc so sánh bài thơ hay với bài thơ hay để phân biệt, và nhìn chung nghiên cứu rộng lớn để hiểu rõ sự khái quát.
Câu 2: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Điều chủ yếu mà thơ mới mang lại cho thi đàn Việt Nam là gì?
Bài làm:
Điều chủ yếu mà thơ mới mang lại cho thi đàn Việt Nam là 'chữ tôi' với quan niệm cá nhân chưa từng có, thể hiện sự tự ý thức về bản thân và khát vọng thành thực. Đồng thời, làm nổi bật sự vận động của 'chữ tôi' và thể hiện bi kịch trong tâm hồn thanh niên.
Câu 3: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Tại sao tác giả nói 'chữ tôi' đáng thương và tội nghiệp?
Bài làm:
Tác giả nói 'chữ tôi' đáng thương và tội nghiệp vì nó mang lại nỗi buồn, sự cô đơn và khó khăn trong việc thoát khỏi. Những thi nhân sống trong cuộc sống đầy khát vọng, tù túng về thân phận mất nước, với 'chữ tôi' cô đơn, bé nhỏ, đáng thương. Sự đối lập giữa khát vọng thoát khỏi và thực tế tù túng là bi kịch của thi sĩ lãng mạn.
Câu 4: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Làm thế nào các nhà thơ lãng mạn và 'người thanh niên' bấy giờ giải tỏa bi kịch của cuộc đời mình?
Bài làm:
Các nhà thơ lãng mạn và 'người thanh niên' bấy giờ giải tỏa bi kịch bằng cách gửi tình yêu vào tiếng Việt, tìm kiếm những thứ bất diệt trong dĩ vãng. Họ thể hiện tình yêu nước một cách thầm kín trước thời đại rối ren, hiện thực phũ phàng, vùi dập cuộc sống và khát vọng của con người.
Câu 5: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Một thời đại trong thi ca có độ phức tạp và phong phú, nhưng tại sao độc giả vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn?
Bài làm:
Một thời đại trong thi ca có độ phức tạp và phong phú, nhưng dễ hiểu và hấp dẫn vì cách đặt vấn đề ngắn gọn, trực tiếp; dẫn dắt vấn đề từ yêu cầu thời đại và thực tế đời sống; ngôn ngữ sử dụng dễ hiểu, giàu hình ảnh, sức hấp dẫn mạnh mẽ; luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ, với cấu trúc và triển khai hệ thống chặt chẽ, logic.
Luyện tập
Bài tập 1: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và chữ ta trong thơ mới và thơ cũ khác nhau như thế nào?
Bài làm:
Theo quan niệm của Hoài Thanh, chữ tôi và chữ ta trong thơ mới và thơ cũ khác nhau: 'Cái tôi' đại diện cho tư tưởng cá nhân, xuất hiện sớm nhưng chưa được đánh giá cao, đến nay mới giành được vị trí xứng đáng. 'Cái ta' xuất hiện từ xưa, giữ vai trò quan trọng, nhưng tạm lắng xuống và nâng niu tư tưởng quốc gia, gia đình, cộng đồng.
Bài tập 2: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Lòng yêu nước của nhà thơ mới được thể hiện như thế nào?
Bài làm:
Lòng yêu nước của nhà thơ mới thể hiện qua sự thiết tha với giá trị văn hóa, sự nỗ lực sáng tạo để làm cho tiếng Việt trở nên giàu đẹp hơn. Họ còn trân trọng tinh thần giống nòi, vẻ đẹp của quá khứ dân tộc. Đặc biệt, họ tìm về quá khứ với những giá trị bất diệt và vin vào đó như một cách trốn tránh thực tại khốn khó, tăm tối của xã hội đương thời.
Bài tập 3: Trang 104 sgk Ngữ Văn 11 tập 2
Bạn hiểu thêm gì về tâm hồn của nhà thơ lãng mạn và thanh niên đương thời thông qua bài tiểu luận này?
Bài làm:
Qua bài tiểu luận 'Một thời đại trong thi ca' của Hoài Thanh, chúng ta hiểu thêm về tâm hồn của nhà thơ lãng mạn và thanh niên đương thời. Họ là những con người nhanh nhạy, sáng tạo, thể hiện 'cái tôi' cá nhân và khát vọng đời thường, nhân văn. Họ yêu tiếng Việt và muốn làm cho nó trở nên giàu đẹp. Lòng yêu nước của họ thể hiện qua sự trân trọng văn hóa bản sắc, truyền thống của người Việt. Dù thời đại của 'cái ta' lắng xuống, những nhà thơ, thanh niên ấy vẫn giữ trong trái tim mình dải đất chữ S hàng nghìn năm văn hiến.
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong 'Một thời đại trong thi ca'
Bài làm:
1. Giá trị nội dung: Tác phẩm rõ nét về tinh thần thơ mới, với 'cái tôi' và 'chữ ta'. Phản ánh bi kịch của 'cái tôi' và tài hoa nghệ thuật của tác giả.
2. Giá trị nghệ thuật: Lập luận khoa học, văn phong tinh tế, sức hấp dẫn mạnh mẽ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứng minh linh hoạt và logic.

5. Bài giảng 'Một thời đại trong thơ ca' số 4
I - HIỂU BIẾT CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Hoài Thanh (1909 - 1982) tên thật là Nguyễn Đức Nguyên. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng, Hoài Thanh đã tham gia phong trào yêu nước và bị bắt.
Hoài Thanh bắt đầu viết văn khi mới 20 tuổi. Ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - nghệ thuật và giữ nhiều chức vụ quan trọng liên quan đến văn nghệ. Hoài Thanh được đánh giá là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là 'Thi nhân Việt Nam'.
2. Một phần quan trọng trong 'Thi nhân Việt Nam' là tiểu luận giới thiệu về phong trào Thơ mới.
II - HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
Câu 1. Theo tác giả, khó khăn chủ yếu trong việc hiểu 'tinh thần thơ mới' là:
- Thơ mỗi thời đều có những điểm mạnh và yếu; kiệt xuất và tầm thường. Theo tác giả, việc so sánh và hiểu rõ 'tinh thần thơ mới' là không dễ dàng do sự đa dạng này.
- Khó khăn thứ hai là sự mập mờ giữa thơ mới và thơ cũ không dễ nhận biết. Vì vậy, để hiểu 'tinh thần thơ mới' đúng đắn, tác giả đề xuất phải so sánh giữa các tác phẩm hay với nhau.
Câu 2. Theo tác giả, 'điểm cốt lõi' tạo nên 'tinh thần thơ mới', điều mà thơ mới mang lại cho văn đàn Việt Nam là 'cái tôi'. Nhà phê bình giải thích:
- 'Trong thời đại trước đây, tất cả tinh thần thời xưa và thời nay đều có thể thu gọn trong hai chữ 'tôi' và 'ta'. Ngày xưa là thời của 'ta', ngày nay là thời của 'tôi'.'
- Trước đây, 'tôi' thường ẩn sau 'ta' - một từ có thể đại diện cho nhiều người. Tuy nhiên, trong thời đại mới, 'tôi' tỏ ra độc lập hơn, tự chủ hơn.
- 'Tôi' ngày nay mang ý nghĩa tuyệt đối. Nó đồng hành với 'quan ụiệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân'.
Câu 3. Tác giả lý giải rằng 'cái tôi với ý nghĩa tuyệt đối của nó' đã thay đổi theo thời gian vì:
- 'Cái tôi' ngày nay không còn đặc sắc và kiêu kỳ như tinh thần mạnh mẽ của Lí Bạch hay sự tự trọng của Nguyễn Công Trứ ngày xưa. Ngày nay, 'cái tôi' phản ánh sự khốn khó, đau đớn, và thảm hại trong cuộc sống.
- 'Cái tôi' bây giờ thể hiện sự rụt rè, khổ sở, và bất hạnh, làm mất đi sự kiêu hãnh của ngày trước: 'Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi, nhưng càng đi sâu càng lạnh.'
Câu 4. Các nhà thơ lãng mạn và thanh niên thời đó giải quyết bi kịch của họ bằng cách thể hiện nó trong tiếng Việt: 'Họ yêu tiếng Việt vô cùng, xem nó như ngôn ngữ kết nối với quá khứ của cha ông. Họ đặt tình yêu quê hương trong tình yêu với tiếng Việt, coi nó như 'tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua'.'
Câu 5. Một thời đại trong thi ca là một tiểu luận phức tạp, nhưng tác giả làm cho nó dễ hiểu và hấp dẫn bằng cách đặt vấn đề khó khăn ngay từ đầu. Tác giả nhấn mạnh rằng khó khăn là sự xuất hiện của cái mới và cái cũ ngay cả trong các nhà thơ mới và cũ. Tác giả đề xuất giải quyết bài toán này bằng cách so sánh trên quy mô lớn hơn, không chỉ từng bài thơ một.
- Khi phân tích đặc điểm của thơ mới, tác giả cũng tập trung vào 'cái tôi' trong nhiều mối quan hệ để làm rõ bản chất của nó.
- Tác giả đặt 'cái tôi' trong mối quan hệ với 'cái ta' để phân tích sự giống nhau và khác biệt.
- Tác giả nhìn vào mối quan hệ với thời đại và tâm lý thanh niên để phân tích sâu sắc 'đáng thương', 'tội nghiệp' và 'bi kịch' trong 'cái tôi'.
- Bài viết có tính khoa học cao với sự chặt chẽ giữa nhận định và ví dụ minh chứng đa dạng và thuyết phục.
- Tầm nhìn bao quát về 'cái tôi', 'cái ta' trong bối cảnh lịch sử là điểm đặc sắc và khoa học của bài tiểu luận.
- Bài viết mang đến sự hiểu biết về tâm lý của nhà thơ mới và thanh niên thời đó thông qua những tình cảm 'đắng thương', 'tội nghiệp', 'bi kịch'.

6. Bài viết 'Một kỳ đại trong thi ca' số 6
ESSENTIAL KNOWLEDGE
Value of content:
The excerpt 'A period in poetry' reveals the core content of the new poetic spirit: the self and expresses the silent tragedy in the souls of the youth at that time. Simultaneously, it evaluates the new poetry in both literary and social aspects.
Artistic value:
The excerpt harmoniously combines scientific and artistic elements. The scientific viewpoint is precise and innovative. The structure and development of the argument system, as well as the artistic argumentation, are tightly logical. Artistic techniques are cleverly and skillfully used, creating great appeal.
ANSWERING GUIDELINES
Question 1: Textbook – 104
The difficulty in finding the new poetic spirit lies in the blurry boundary between old and new poetry, which is not easily recognizable. Both new and old poetry have their merits and demerits.
Recognition:
Compare good poems with good poems to understand the characteristics and ideas of the era.
Look at the general trends: broad research on a large scale to see the overview.
Question 2: Textbook – 104
The central theme that the new poets bring to Vietnamese poetry at that time is the spirit of New Poetry, the word 'self':
What sets apart the words 'self' and 'we': in the past, it was the era of 'we,' now it is the era of 'self.'
The word 'self' used to hide behind the word 'we.' The word 'self' now is the absolute meaning of itself. Moreover, the word 'self' reveals the silent tragedy in the souls of the youth at that time.
Question 3: Textbook – 104
The author explained the 'word self with its absolute meaning' to the poetry community in a surprising way. 'However, day by day, it gradually loses its novelty. Many people get used to it. People even feel sorry for it. It's really too pitiful!' The reason for this strangeness is:
Because 'the self' has brought sadness, loneliness, a desire to escape but cannot.
The 'self' nowadays no longer has the proud appearance as before, like the bold spirit of Li Bach, the self-esteem before the harsh conditions of Nguyen Cong Tru.
The 'self' today moans, suffers, is miserable, adventures in love, escapes to the immortal, goes crazy, is intoxicated, remains lonely, stunned sadly, loses faith: 'Our lives are in the circle of self. Losing the width, we seek the depth. But the deeper we go, the colder it gets. Escaping to the immortal with The Le, adventuring in love with Luu Trong Lu, going crazy with Han Mac Tu, Che Lan Vien, being intoxicated with Xuan Dieu. But the fairyland is closed, love is not lasting, madness turns to sobriety, intoxication remains lonely. We return to our souls with Huy Can. Real and dreamy skies still follow our souls.' 'Reality has never made Vietnamese poetry sad and especially tumultuous like this. Along with self-esteem, we also lose the peace of the past.'
Question 4: Textbook – 104
Falling into tragedy, romantic poets as well as the 'youth' at that time have solved their life tragedies by sending them all into Vietnamese: 'They love immensely the language that for several millennia has shared joys and sorrows with our ancestors.
- They pour their love for the homeland into the love of the Vietnamese language.' Because they think: 'Vietnamese is the silk that has absorbed the soul of generations.' and because they believe in the philosophical saying 'As long as the Tale of Kieu exists, our language exists; as long as our language exists, our country exists.' They believe that the spirit and the race, as well as ancient poetic forms, may change but cannot be destroyed because they have to 'return to the past to find the eternal that is enough to ensure tomorrow.'
Question 5: Textbook – 104
A period in poetry is a complex, rich essay, but why do readers find it easy to understand and appealing:
The way the issue is presented is concise, direct, without circling around, making readers clearly recognize the content of the essay from the beginning.
The author's introduction of the issue is very natural: starting from the demands of the era and the reality of life, bringing the self - the we in new and old poetry out for comparison, making readers perceive it clearly.
The language used in the essay is easy to understand, familiar, rich in evocativeness, and poetic.
Scientific, accurate, innovative viewpoints; the structure and development of the argument system, artistic argumentation are tight, logical.
PRACTICE
Exercise 1: Textbook – 104
According to Hoai Thanh's perspective, the words 'self' and 'we' in new and old poetry are very different:
The self
Personal thoughts
Appeared early but not valued
Now has gained a deserved position
The we
National, family, community thoughts
Appeared since ancient times, holds an important role, core
Now has not disappeared entirely, just temporarily subsided
Exercise 2: Textbook – 104
The love for the country of new poets is expressed in their dedication to values, the effort to create cultural values. New poets love the Vietnamese language; through their poetry, they want to make the Vietnamese language more beautiful. Their love for the country is also shown in the appreciation of the cultural spirit, the mood of the beauties of the nation's past. Especially, they turn to the past with eternal values and immerse in it as a way to escape the current reality of hardship and darkness in contemporary society.
Exercise 3: Textbook – 104
Through the essay, readers can see the compassionate hearts of new poets and contemporary intellectual youth. They are petite bourgeois intellectuals who have not found a revolutionary path or perhaps have not dared to plunge into the fiery and thorny path of armed struggle. Therefore, their deep hearts with the homeland are sent into the love of the Vietnamese language, the love of national cultural values, into the unspoken love for the soul of the homeland. In the current social context, these expressions of new poets and contemporary petite bourgeois intellectuals are also precious and worth cherishing.
