- - Nguyễn An Ninh chỉ trích việc học đòi “Tây hóa” như bập bẹ tiếng Tây, gây tổn hại tiếng mẹ đẻ và làm mất bản sắc văn hóa. Ông cho rằng việc này không những không nâng cao văn hóa mà còn dẫn đến sự mất gốc văn hóa và nguy cơ mất nước. Ông chỉ trích quan niệm sai lầm cho rằng tiếng mẹ đẻ nghèo nàn, đồng thời khuyến khích học ngôn ngữ nước ngoài để làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ. Ông nhấn mạnh vai trò quan trọng của tiếng mẹ đẻ trong việc bảo vệ và phát triển nền độc lập dân tộc.,.
- - Tác giả chứng minh tiếng Việt không nghèo nàn qua ngôn ngữ của Nguyễn Du và khả năng dịch tác phẩm Trung Quốc.
- - Tiếng nước ngoài cần thiết nhưng không làm mất tiếng mẹ đẻ; phải làm phong phú ngôn ngữ quê hương.
- - Quan điểm của tác giả về giải phóng dân tộc dựa vào việc giữ gìn tiếng nói và kết hợp với các yếu tố khác như đường lối của Đảng.,.
- - Nguyễn An Ninh chỉ ra rằng giải phóng dân tộc không chỉ dựa vào việc phát triển ngôn ngữ mà còn cần cách mạng vũ trang và đường lối chính trị đúng đắn.
- - Ông nhấn mạnh sự giàu có của tiếng Việt và sự cần thiết bảo tồn, phát triển ngôn ngữ mẹ đẻ, đồng thời khuyến khích học ngoại ngữ để làm phong phú thêm tiếng mẹ đẻ.
- - Bài viết thể hiện quan điểm khoa học và nhân văn, với giọng văn thuyết phục.
1. Bài luận 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 1
Câu 1 (trang 91 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Nguyễn An Ninh chỉ trích lối học đòi “Tây hóa”:
- Bập bẹ xem vài ba tiếng Tây trong lời nói: làm tổn thương tiếng mẹ đẻ và tự bộc lộ là người kém văn hóa
- Lối sống lai căng từ kiến trúc đến lời tiếng nói, là biểu hiện từ bỏ văn hóa dấu hiệu mất gốc → mất nước
- Ông chỉ trích quan niệm sai lầm rằng tiếng nước mình nghèo nàn nhưng lại khích lệ giới trí thức học tiếng nước ngoài
Câu 2 (trang 91 sgk ngữ văn 11 tập 2):
- Tiếng nói vô cùng quan trọng với vận mệnh dân tộc
+ “tiếng nói... thống trị”
+ “tiếng nói là tinh thần của dân tộc... từ chối quyền tự do”
→ Tiếng nói cần được bảo tồn và phát triển, là cầu nối tri thức giúp tiếp xúc với nền văn minh, khoa học thế giới, mở mang tầm nhìn dân trí
- Dẫn chứng để chứng minh tiếng nước mình không nghèo nàn:
+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du giàu hay nghèo
+ Tại sao tác phẩm Trung Quốc không viết tác phẩm tương tự
→ Ngôn ngữ không nghèo là do người sử dụng có tài
Câu 3 (Trang 91 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Tác giả đưa ra 3 dẫn chứng để khẳng định tiếng nước mình không nghèo:
- “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Tác giả đặt ra câu hỏi để khẳng định, ngôn ngữ của Nguyễn Du
+ Ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều thể hiện đa dạng và phong phú mặt khác nhau của đời sống con người
- Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”. Một suy luận có logic và hoàn toàn hợp lý.
- “Ở An Nam cũng như mọi người khác đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”
Câu 4 (Trang 91 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Nguyễn An Ninh không phủ nhận ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí khuyến khích “để cho đồng bào họ cũng phải được thông phần nữa”. Việc học thêm ngôn ngữ nước ngoài sẽ làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc mình
Câu 5 (trang 91 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Trong bối cảnh đất nước đang bị thực dân thống trị, câu nói “Nếu người An Nam hãnh diện... vấn đề thời gian” có lẽ đúng, nhưng không đầy đủ
Chúng ta cần một cuộc cách mạng vũ trang để thực sự giải phóng, không chỉ làm phong phú tiếng ngôn ngữ
Hình minh họa (Nguồn internet)2. Bài luận 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức' số 3
I. Tác giả
1. Tiểu sử - Cuộc đời
- Nguyễn An Ninh (1899 -1943)
- Quê: Xã Mĩ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Nay là TP HCM).
- Là nhà báo, nhà văn, nhà yêu nước đầu TK XX
- Từ một trí thức Tây học, ông đến với CN Mác và những người cộng sản.
- 1908 bị bắt đày đi Côn Đảo.
=> Là một trí thức tài cao học rộng.
2. Sự nghiệp văn học
a. Phong cách nghệ thuật
- Văn phong khúc chiết, trong sáng, có độ sâu về tư duy văn hoá, tràn đầy nhiệt huyết yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.
- Lên án chính sách bóc lột và ngu dân của thực dân Pháp.
- Phê phán đạo Khổng – đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu.
b. Tác phẩm chính
- Tác phẩm dịch: Khế ước xã hội.
- Vở tuồng: Hai Bà Trưng.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời:
- Văn bản là bài chính luận xuất sắc của Nguyễn An Ninh đăng trên báo Tiếng Chuông rè năm 1925.
2. Bố cục: 3 phần:
- Phần 1 ((Từ đầu đến 'người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng'): Nêu hiện tượng học đòi Tây hóa.
- Phần 2 (Tiếp theo đến 'hay sự bất tài của con người?'): Vai trò của tiếng mẹ đẻ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Phần 3 (còn lại): Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với nước ngoài.
3. Giá trị nội dung
- Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ nó và làm cho nó ngày càng phát triển.
- Tiếng mẹ đẻ còn là nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức.
- Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc.
4. Giá trị nghệ thuật
- Luận điểm rõ ràng, logic.
- Dẫn chứng cụ thể, chân thực.
- Giọng điệu nhẹ nhàng đầy sức thuyết phục.
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Nguyễn An Ninh đã chỉ trích những kiểu học đòi chạy theo 'Tây hoá' trong việc:
'Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình', vì họ coi đó là 'một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc'.
Nhiều người khác lại bắt chước những 'kiểu kiến trúc và trang trí lai căng' của phương Tây.
=> 'Nhiều người An Nam bị Tây hoá tưởng rằng khi sao chép những thứ tầm thường của văn hóa châu Âu, họ sẽ làm cho đồng bào tin rằng họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương'
Câu 2 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Theo tác giả 'Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị' Bởi ngôn ngữ là một trong những bản sắc văn hóa vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia, dân tộc, mất đi tiếng nói tức là mất đi phần bản sắc vô cùng quan trọng ấy, mất đi dân tộc, giống nòi.
Câu 3 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Để khẳng định rằng tiếng “nước mình” không nghèo nàn, tác giả dựa vào:
Vốn ngôn ngữ được thể hiện trong tác phẩm “Truyện Kiều” – Nguyễn Du vô cùng phong phú cả về phần hình thức lẫn nội dung, từ số lượng từ đến sự biểu đạt của một từ.
Đặt ra câu hỏi: 'Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự?' khi mà Trung Hoa là một quốc gia có nền văn hóa, văn học và cả ngôn ngữ vô cùng phong phú nhưng người Việt vẫn có thể dịch những tác phẩm nổi tiếng của Trung Hoa ra ta mà vẫn truyền đạt đầy đủ ý nghĩa của bản gốc. Tiếng An Nam đã làm được như vậy, nên theo tác giả, không có lý do gì chúng ta không thể viết được những tác phẩm tương tự.
Kiên quyết rằng: 'Ở An Nam cũng như ở mọi nơi khác, ai cũng có thể áp dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy từ ngữ để diễn đạt'.
Câu 4 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Quan điểm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ nước mình:
Nguyễn An Ninh phê phán những người học đòi Tây hóa nhưng không từ chối ngôn ngữ nước ngoài.
Theo ông, muốn nước mình độc lập, chúng ta cần hiểu biết về nước ngoài, và để hiểu được họ, trước hết phải nắm vững ngôn ngữ của họ.
Sự hòa hợp là rất quan trọng: “Việc biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không có nghĩa là từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, việc học thêm một ngôn ngữ nước ngoài sẽ làm phong phú thêm ngôn ngữ của chúng ta'.
Câu 5 trang 91 SGK văn 11 tập 2
Khẳng định: 'Nếu người An Nam giữ gìn tự hào về tiếng nói của mình và đưa ra nỗ lực làm cho tiếng nói ấy trở nên phong phú hơn, từ đó có khả năng lan tỏa tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam sẽ chỉ là vấn đề thời gian' trong bối cảnh đất nước đang bị thực dân thống trị là có ý đúng, nhưng không đầy đủ vì:
Vì để giải phóng một quốc gia đang bị áp bức, chúng ta cần không chỉ giữ gìn và làm phong phú văn hóa và tiếng nói mà còn cần những cuộc cách mạng, cuộc chiến đấu vũ trang để triệt hạ kẻ thù, đưa họ ra khỏi quê hương.
Hình minh họa (Nguồn internet)
3. Bài soạn 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn độc lập cho các dân tộc bị áp bức' số 2
I. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
1. Về Tác giả
Nguyễn An Ninh (1900 – 1943) không chỉ là một nhà báo, nhà văn mà còn là nhà yêu nước tiên tiến của thế kỉ XX.
Tên tuổi của ông gắn liền với những buổi diễn thuyết sôi động và những bài viết nổi tiếng đã từng cuốn hút giới trẻ và dư luận. Ông dũng cảm lên án chính sách bóc lột và ngu dân của thực dân Pháp. Là một trí thức tân tiến, ông chỉ trích đạo Khổng và tôn vinh tinh thần học hỏi văn hóa châu Âu nhưng vẫn khẳng định văn phong của mình với sự khúc chiết, trong sáng và nhiệt huyết yêu nước.
2. Về Tác phẩm
'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn độc lập cho các dân tộc bị áp bức' là bài chính luận xuất sắc của Nguyễn An Ninh, bút danh Nguyễn Tịnh, được đăng trên báo Tiếng chuông rè năm 1925.
Bố cục: 3 phần
- Phần 1: Từ đầu đến “lo lắng”- chỉ trích những hành vi học đòi “Tây hóa”
- Phần 2: Từ tiếp đến “để nói ra”- Thảo luận về giá trị và vai trò của tiếng mẹ đẻ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
- Phần 3: Còn lại- quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 91 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Trong bài văn, Nguyễn An Ninh chỉ trích những hành vi của thói học đòi “Tây hóa”:
- Điều này thể hiện qua việc: “Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình”, vì họ coi đó là “một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc”.
- Nhiều người khác lại mô phỏng những “kiểu kiến trúc và trang trí lai căng” của phương Tây.
- Ông phê phán quan niệm sai lầm cho rằng tiếng nước mình nghèo nàn nhưng vẫn khuyến khích giới tri thức học tiếng nước ngoài.
Câu 2 (trang 91 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Theo tác giả, tiếng nói vô cùng quan trọng đối với vận mệnh của dân tộc: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”. Do đó, tiếng nói có tầm quan trọng đặc biệt đối với vận mệnh dân tộc:
- Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất của nền văn học dân tộc.
- Tiếng nói là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc thống trị.
Câu 3 (trang 91 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Tác giả đưa ra dẫn chứng để khẳng định rằng tiếng nước mình không nghèo nàn:
- Ngôn ngữ giàu có của Nguyễn Du: “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu”.
- Người Việt có thể dịch những tác phẩm lớn của Trung Quốc sang tiếng Việt: “Vì sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”.
- Ngôn từ thông dụng (sinh hoạt, khẩu ngữ...) của tiếng Việt rất phong phú: “Ở An Nam cũng như mọi nơi khác, đều có thể ứng dụng nguyên tắc này: Điều này người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”.
Câu 4 (trang 91 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài với ngôn ngữ “nước mình”:
- Tiếng nước ngoài là cần thiết đối với mỗi người. Tuy nhiên, sự cần thiết biết một ngôn ngữ Châu Âu không hoàn toàn kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
- Tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình.
Câu 5 (trang 91 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Quan niệm của tác giả đưa ra: “Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng mói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian” là đúng đắn trong hoàn cảnh đất nước đang bị thực dân thống trị. Tuy nhiên, nếu muốn giải phóng dân tộc, quan niệm của Nguyễn An Ninh đưa ra cần phải biết kết hợp các yếu tố khác như Đường lối của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng...
Hình minh họa (Nguồn internet)
4. Bài viết 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn độc lập cho các dân tộc bị áp bức' số 5
Câu 1 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Nguyễn An Ninh chỉ trích nhiều hành vi trong thói học đòi “Tây hóa”:
- Thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn diễn đạt ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình, tạo ra những ngôi nhà có kiến trúc và trang trí lai căng, và từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ.
Câu 2 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Theo tác giả, tiếng nói có vai trò quan trọng lớn lao đối với vận mệnh dân tộc: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”.
Câu 3 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Nhận định rằng tiếng “nước mình” không nghèo nàn, tác giả dựa vào các dẫn chứng và lí lẽ.
- Lí lẽ: Khiến rõ nhiều người An Nam chỉ biết từ thông dụng, thậm chí có vẻ nghèo vốn hơn cả phụ nữ và nông dân An Nam; và do sự bất tài của con người.
- Dẫn chứng: Sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du để chứng minh sự giàu có của tiếng Việt và khả năng dịch tác phẩm Trung Quốc.
Câu 4 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ “nước mình”:
- Học tiếng nước ngoài để làm phong phú cho ngôn ngữ nước mình.
- Ngôn ngữ là kênh để giúp giới trí thức nước ta hiểu châu Âu, tiếp cận tri thức châu Âu và truyền bá cho đồng bào mình.
Câu 5 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
- Trong bối cảnh đất nước đang bị thực dân thống trị, câu nói “Nếu người An Nam tự hào… vấn đề thời gian” là đúng, nhưng còn chưa đủ vì cần một cách mạng toàn diện, đặc biệt là đấu tranh vũ trang để đánh đuổi kẻ thù khỏi bờ cõi.
Tóm tắt
Bài luận “Tiếng mẹ đẻ – Nguồn độc lập cho các dân tộc bị áp bức” của Nguyễn An Ninh thể hiện lòng tự hào dân tộc và sự nhiệt huyết xây dựng văn hóa Việt Nam.
Mở đầu, tác giả chỉ trích những người học đòi “Tây hóa”, nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói và giới thiệu về vai trò của tiếng mẹ đẻ trong giải phóng dân tộc.
Phần cuối, tác giả khuyến khích việc học tiếng nước ngoài, nhưng đồng thời nhấn mạnh sự quan trọng của tiếng mẹ đẻ.
Bố cục
- Phần 1 ((Từ đầu đến 'người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng'): Phê phán hiện tượng học đòi Tây hóa.
- Phần 2 (Tiếp theo đến 'hay sự bất tài của con người?'): Vai trò của tiếng mẹ đẻ trong giải phóng dân tộc.
- Phần 3 (còn lại): Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với nước ngoài.
Nội dung chính
- Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ và phát triển nó.
- Tiếng mẹ đẻ là nguồn độc lập quan trọng cho các dân tộc bị áp bức.
- Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc.
Nghệ thuật
Lập luận rõ ràng, sử dụng ngôn ngữ chính luận sắc sảo.
Hình ảnh minh họa (Nguồn internet)
5. Bài viết 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng cho các dân tộc bị áp bức' số 4
1.Tác giả: Nguyễn An Ninh (1899 -1943).
Là một nhà báo, nhà văn và người yêu nước hàng đầu thế kỉ XX.
Bắt đầu với lối tư duy Tây học, ông chuyển hướng đến chủ nghĩa Mác và cộng sản.
Trải qua những ngày bị giam giữ tại Côn Đảo từ năm 1908.
Sự nghiệp và danh tiếng của ông liên quan mật thiết với những bài diễn thuyết đầy ảnh hưởng.
Tự phê phán triết lý của Khổng, Nguyễn An Ninh đề cao tinh thần học hỏi và văn hóa châu Âu.
Phong cách viết súc tích, sáng tạo, lôgíc sâu sắc, và tràn đầy nhiệt huyết yêu nước, gần gũi với đời sống và con người lao động.
2. Tác phẩm
Bài viết 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng cho các dân tộc bị áp bức' là một biểu tượng của văn chính luận, thể loại văn đặc trưng bởi sự logic, trình bày các vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ngay từ nhan đề, bài viết làm nổi bật vai trò quan trọng và thiêng liêng của tiếng Việt: Nguồn giải phóng của dân tộc.
Bài viết có bố cục chặt chẽ, mang đặc điểm của một nhà báo hoạt động chính trị, vừa hấp dẫn như báo chí, vừa thuyết phục như diễn thuyết chính trị.
Mở đầu, tác giả chỉ trích những người khoe khoang học đòi theo 'Tây hoá' mà không hiểu biết. Tiếp theo, ông tường thuật ý nghĩa cốt lõi của bài viết: Tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng cho các dân tộc bị áp bức. Với viết ngắn gọn, súc tích, ông làm rõ ý nghĩa của tiếng mẹ đẻ và chứng minh: Tiếng Việt rất giàu có...
Kết thúc, tác giả thảo luận về vai trò của giới trí thức trong phát triển ngôn ngữ dân tộc, quan điểm về mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài. Ông khuyến khích học ngoại ngữ để bổ sung cho ngôn ngữ quê hương.
3. Tìm hiểu bài
Câu 1: Nguyễn An Ninh chỉ trích những hành vi nào của thói học đòi 'Tây hóa' ?
Trả lời:
Trong bài, Nguyễn An Ninh chỉ trích mạnh mẽ những hành vi theo đuổi 'Tây hoá':
- Việc: 'Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình', vì họ tin rằng đó là 'biểu hiện của tầng lớp quý tộc'.
- Nhiều người khác lại bắt chước 'kiểu kiến trúc và trang trí lai căng' của phương Tây.
Tác giả cảnh báo rằng việc này không chỉ làm tổn thương tiếng mẹ đẻ mà còn đồng nghĩa với việc từ bỏ văn hoá cha ông, khiến người An Nam mất gốc văn hóa.
Câu 2: Theo tác giả, tiếng nói có tầm quan trọng như thế nào đối với vận mệnh dân tộc ?
Trả lời:
Theo Nguyễn An Ninh, 'Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị'. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói, xem đó như tinh thần sống của dân tộc, là bảo vệ văn hoá của họ. Tác giả quả quyết khẳng định rằng bảo vệ tiếng nói đồng nghĩa với việc bảo vệ tự do của dân tộc.
Câu 3: Dựa vào cái gì tác giả đánh giá tiếng 'nước mình' không nghèo nàn ?
Trả lời:
Tác giả sử dụng ba lập luận để chứng minh rằng tiếng nước mình không nghèo nàn:
- 'Ngôn ngữ của Nguyễn Du có nghèo hay giàu?'. Tác giả đặt câu hỏi này để khẳng định sức sống và sự phong phú của ngôn ngữ Việt. Ông nhấn mạnh Nguyễn Du với Truyện Kiều đã chứng minh sự sâu sắc và phong phú của ngôn ngữ Việt. Ví dụ này là lập luận thuyết phục về sức sống của ngôn ngữ.
- Tác giả tiếp tục đặt câu hỏi: 'Tại sao người An Nam có thể dịch tác phẩm Trung Quốc sang ngôn ngữ của mình, nhưng không thể viết tác phẩm tương tự?'. Ông suy luận logic rằng nếu tiếng Việt có thể chuyển dịch thành công từ ngôn ngữ khác, thì cũng có khả năng sáng tạo ra những tác phẩm tương tự. Lập luận này làm cho độc giả cảm thấy tiếng Việt có khả năng biểu đạt tất cả những ý tưởng lớn lao.
- Dẫn chứng thứ ba của tác giả đơn giản nhưng hiệu quả: 'Ở An Nam, điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy từ ngôn ngữ để nói ra'. Đây là một lập luận thực tế, nhấn mạnh tính linh hoạt và phong phú của tiếng Việt trong biểu đạt ý nghĩa.
Câu 4: Tác giả quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ 'nước mình' ?
Trả lời:
Nguyễn An Ninh không phủ nhận tầm quan trọng của việc hiểu biết văn hóa nước ngoài. Theo ông, 'Chúng ta không thể né tránh châu Âu'. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng để duy trì độc lập, chúng ta cần giữ vững tiếng mẹ đẻ. Việc học ngôn ngữ châu Âu không nên là lý do để từ bỏ tiếng Việt, ngược lại, nó có thể làm phong phú cho ngôn ngữ quê hương. Tác giả khuyến khích giới trí thức học ngoại ngữ để giúp đất nước phát triển, nhưng cũng nhấn mạnh rằng điều này không nên dẫn đến việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
Câu 5:
Nguyễn An Ninh khẳng định: 'Nếu người An Nam giữ gìn tiếng nói của mình và làm cho nó phong phú hơn để có khả năng lan tỏa các giáo lý và kiến thức châu Âu, thì việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ là vấn đề thời gian'. Tuy nhiên, trong bối cảnh đang bị thực dân thống trị, ông chưa nhận ra rằng giải phóng dân tộc đòi hỏi một cách mạng vũ trang và đường lối đúng đắn, không chỉ dựa vào sự phát triển của ngôn ngữ mà còn vào hành động quả cảm và quyết liệt.
Tổng kết
Nguyễn An Ninh bàn về hiện tượng lai căng về ngoại ngữ và khẳng định sự giàu có của tiếng Việt, cần được bảo tồn và phát triển. Bài viết thể hiện quan điểm khoa học, khách quan, và mang tính nhân văn, đậm chất dân tộc. - Giọng văn nhẹ nhàng, thuyết phục.
Hình minh họa (Nguồn trên internet)
6. Bài giảng 'Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng cho các dân tộc bị áp bức' số 6
THÔNG TIN QUAN TRỌNG
Nội dung:
Tiếng Việt là di sản văn hóa tinh thần quý giá của người Việt Nam. Do đó, chúng ta cần bảo tồn và phát triển tiếng Việt để làm cho nó ngày càng phong phú và tinh tế. Đây là quan điểm chính xác và có giá trị thực tế của nhà cách mạng yêu nước Nguyễn An Ninh.
Nghệ thuật:
Bài luận có lập luận rất kín đáo và thuyết phục cao.
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI CÂU HỎI
Câu 1: SGK – 91
Trong bài văn, Nguyễn An Ninh đã chỉ trích mạnh mẽ những dạng học theo 'Tây hoá':
- Đó là việc: 'Nhiều người An Nam thích lạc quan năm ba tiếng Tây hơn là diễn đạt ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình', vì họ tin rằng đó là 'biểu hiện của tầng lớp quý tộc'.
- Nhiều người khác lại bắt chước những 'kiểu kiến trúc và trang trí lai căng' của phương Tây. Theo tác giả: 'Nhiều người An Nam bị Tây hoá hiện nay tưởng rằng khi sao chép những thứ tầm thường của văn hoá châu Âu, họ sẽ làm cho đồng bào tin rằng họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương'. Tuy nhiên, thực tế là họ 'chẳng có được bất kỳ nền văn minh nào'. Không chỉ vậy, 'Việc từ bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ phải khiến mọi người An Nam mất gốc văn hóa'.
Câu 2: SGK – 91
Theo tác giả, tiếng nói cực kỳ quan trọng đối với số phận của dân tộc. 'Tiếng nói là người bảo vệ quý giá nhất cho sự độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị áp bức'.
Quan điểm của tác giả là hoàn toàn hợp lý bởi:
+ Tiếng nói là tinh thần sống của dân tộc, là văn hóa của dân tộc và như chính tác giả đã khẳng định: 'Nếu người An Nam tự hào giữ gìn tiếng nói của mình và nỗ lực làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng truyền bá ở An Nam những lý thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào từ bỏ tiếng nói của mình, đồng nghĩa với việc họ từ chối hy vọng giải phóng cho giống nòi... Vì vậy, với người An Nam, từ chối tiếng mẹ đẻ cũng là từ chối sự tự do của chính mình.
Câu 3: SGK – 91
Tác giả đưa ra các ví dụ để khẳng định rằng tiếng nước mình không hề nghèo nàn:
- “Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?” Tác giả đặt ra câu hỏi để khẳng định, ngôn ngữ của Nguyễn Du
+ Ngôn ngữ nổi bật trong Truyện Kiều một kiệt tác văn chương được đánh giá đã thể hiện một cách sâu sắc và phong phú nhiều mặt của đời sống con người.
- Tác giả tiếp tục đưa ra câu hỏi mang tính khẳng định: “Tại sao người An Nam có thể dịch những tác phẩm Trung Quốc sang nước mình, mà lại không thể viết những tác phẩm tương tự”. Một sự suy luận logic và hoàn toàn có lí.
- “Ở An Nam cũng như mọi người khác đều có thể áp dụng nguyên tắc này: Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để diễn đạt”.
Câu 4: SGK – 91
Nguyễn An Ninh không phủ nhận giá trị của ngôn ngữ nước ngoài, thậm chí khuyến khích việc “cho phép đồng bào họ cũng phải được thông cảm”. Việc hiểu thêm ngôn ngữ nước ngoài là quan trọng đối với mỗi người. Vai trò lãnh đạo của giới trí thức đòi hỏi phải biết ít nhất một ngôn ngữ châu Âu để hiểu rõ về châu Âu. Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không có nghĩa là từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
Ngôn ngữ nước ngoài mà chúng ta học phải làm phong phú thêm cho tiếng mẹ đẻ.
Câu 5: SGK – 91
Quan điểm của tác giả là: “Nếu người An Nam giữ gìn tự hào tiếng nói của mình và nỗ lực để tiếng nói ấy trở nên phong phú hơn, để có khả năng lan truyền ở An Nam những ý thức đạo đức và kiến thức của châu Âu, thì việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian” là chính xác trong bối cảnh đất nước đang bị thống trị bởi thực dân. Tuy nhiên, để giải phóng dân tộc, quan điểm của Nguyễn An Ninh đưa ra cần kết hợp với các yếu tố khác như Đường lối của Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng.