1. Mẫu bài phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - phiên bản 4
Hai cảm xúc sâu sắc nhất của Bà Huyện Thanh Quan là “nhớ nước” và “thương nhà”. Trong khi bà thể hiện lòng “nhớ nước” qua bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, thì nỗi “thương nhà” được gửi gắm qua bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều đại Tự Đức, bà được bổ nhiệm về kinh đô làm Cung trung giáo tập để dạy dỗ các công chúa và cung phi. Dù sống trong cung đình, bà vẫn cảm thấy mình như một “lữ thứ”, luôn hướng về quê hương “Chương Đài”. Nỗi lòng “thương nhà” của bà được thể hiện tài tình qua bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
…..
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.
Bà Huyện Thanh Quan đã chọn vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (trong khi bài “Thăng Long thành hoài cổ” sử dụng luật trắc vần bằng), phù hợp với cảm xúc hoài cổ của tâm hồn thi nhân. Bài thơ mở đầu với hình ảnh hoàng hôn và âm điệu nhạc chiều mềm mại, thổn thức:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa dưa vẳng trống dồn”
Trong ba bài thơ nổi tiếng, Bà Huyện Thanh Quan đều miêu tả khoảnh khắc chiều tà:
“Bước tới đèo Ngang bóng xé tà”
(Qua đèo Ngang)
“Nền củ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng Long thành hoài cổ)
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”
Từ “bảng lảng” mô tả ánh sáng hoàng hôn một cách tinh tế. Cảm nhận ánh sáng như vậy là đặc trưng của thi sĩ. “Bảng lảng” chỉ ánh nắng nhạt nhòa, yếu ớt của chiều tà. Khi ánh nắng giảm dần, nhạc chiều trở nên nổi bật với âm thanh trầm buồn từ xa. Âm thanh của tiếng ốc và tiếng trống vang vọng, nhưng lại lạc lõng và thổn thức. Cái tôi trữ tình của thi nhân ẩn sau hình ảnh và âm thanh. Những gì nữ sĩ thấy gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe và đón nhận âm vang từ xa, vì thế khúc nhạc chiều trầm buồn cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân. Nhà thơ mở rộng không gian hoàng hôn bằng hình ảnh gần gũi của người lao động:
“Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”
Bà Huyện Thanh Quan vẫn giữ những chủ đề “ngư, tiều, canh, mục” truyền thống trong thơ cổ điển nhưng bà đã tạo ra sự sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai hình ảnh cho buổi “chiều hôm”: “ngư ông” và “mục tử”. Sự linh hoạt của câu thơ thể hiện qua cử chỉ của các nhân vật. Hai hành động trái ngược nhưng lại diễn tả cùng một ý tưởng. “Gác mái” của ngư ông nhấn mạnh sự nghỉ ngơi, còn “Gõ sừng” của mục tử nhấn mạnh hành động trở về và nghỉ ngơi. Dù cả ngư ông và mục tử đều đang trở về, họ vẫn có khoảng cách: “ngư ông về viễn phố” tức về nơi xa, và “mục tử lại cô thôn” tức về nơi xóm làng lẻ loi.
Khoảng cách này cũng phản ánh sự xa cách trong lòng thi nhân đối với quê hương xứ sở của mình. Ba nhân vật: ngư ông, mục tử và nữ sĩ đều không gắn bó với nhau nhưng đều cùng chia sẻ một điểm chung là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tóm lại, hai câu thực thể hiện một cách tinh tế chủ đề chiều hôm nhớ nhà. Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ mở rộng với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi chiều:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
Hình ảnh thật đẹp và gợi cảm. Nhà thơ đã chọn những tín hiệu thẩm mỹ diễn tả tâm trạng thi nhân. “Ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn vừa động, rừng mai bạt ngàn làm nổi bật sự đơn độc của thi nhân, hình ảnh “gió cuốn” thể hiện sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh “chim bay mỏi” gợi tâm trạng của thi nhân, cần có con mắt nhạy bén và tấm lòng để nhận ra “chim bay mỏi” giữa không gian rộng lớn. “Dặm liễu sương sa” vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo, cái lạnh của sương chiều thúc đẩy bước chân của khách hành hương “bước dồn”.
Sự thú vị của hai câu luận là không gian mở rộng với những hình ảnh đẹp, thơ mộng và chủ đề “Chiều hôm nhớ nhà” được mở rộng đến chiều sâu. Tuy nhiên, từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận lặp lại từ “dồn” (trông dồn) trong câu thừa đề làm cho bài thơ kém phong phú một chút. Dòng cảm xúc ẩn chứa trong các hình ảnh và âm điệu trở nên tha thiết và nồng nàn:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”
Nữ sĩ sử dụng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” phù hợp với thi pháp “phi ngã” (không có cái tôi) của thời bấy giờ, đồng thời phản ánh tâm trạng của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị, nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ chốn Chương Đài” là điển cố, có nguồn gốc từ câu hỏi của một người gửi thư về cho vợ hỏi về cây liễu ở Chương Đài, từ đó “Chương Đài” trở thành biểu tượng của quê hương trong văn học. “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ” là hình ảnh của người ở quê nhà và người ở nơi xa lạ. Việc nữ sĩ sử dụng từ “lữ thứ” rất bất ngờ, vì bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, một môi trường sang trọng. Dù vậy, bà vẫn xem đó chỉ là một quán trọ.
Sử dụng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào làm giảm bớt sự kiêu ngạo của bà. Trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình yêu nước. Bà không gắn bó với triều đại hiện tại và cảm thấy như bị lưu đày. Câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng nhấn mạnh nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”. Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” được viết theo phong cách tả cảnh gợi tình trong thơ cổ điển. Mỗi hình ảnh và âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ, thể hiện nỗi nhớ nhà sâu sắc và nhân bản.
Trong xã hội, bà không được chia sẻ, sống trong một triều đại mà bà chỉ nhớ về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang). Vì vậy, bà dồn hết tình cảm nhớ thương vào gia đình và những người thân yêu. Trong bối cảnh các mối quan hệ gia đình hiện nay đang lỏng lẻo, thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn giữ giá trị tinh thần nhân bản và quý giá của gia đình.
2. Phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - mẫu số 5
Trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, số lượng nữ sĩ nổi bật không nhiều. Ba gương mặt tiêu biểu thường được nhắc đến là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Mỗi người đều có phong cách riêng và những đóng góp đặc sắc cho thơ văn nước nhà.
Trong ba nữ sĩ này, Bà huyện Thanh Quan nổi bật với một số bài thơ Đường luật Nôm, trong đó bài thơ Chiều hôm nhớ nhà là tác phẩm nổi bật nhất, mặc dù có một vài bài còn tranh cãi về tác giả. Bài thơ này thể hiện nỗi nhớ quê của người nữ sĩ khi phải một mình bôn ba xa quê.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
….
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Bài thơ đưa chúng ta vào một không gian và thời gian vừa cụ thể vừa mơ hồ. “Trời chiều” và “bóng hoàng hôn” tạo ra một buổi chiều quen thuộc nhưng đầy nỗi nhớ của người xa quê:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
(Ca dao)
Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Truyện Kiều)
Câu mở đầu gợi cảm giác mệt mỏi và chậm rãi của buổi chiều, một thời điểm đầy ám ảnh trong thơ cổ. “Trời chiều” và “bóng hoàng hôn” như rải ánh vàng của hoàng hôn lên cảnh vật và con người. Thường thì chiều là thời điểm sum họp gia đình, nhưng nhân vật trong thơ vẫn tiếp tục hành trình lẻ loi. Trong không gian ấy, những âm thanh quen thuộc như “tiếng ốc xa đưa” và “tiếng trống vẳng” trở nên đầy bâng khuâng khi ở đất khách quê người.
Hai âm thanh hòa quyện như muốn báo hiệu sự vội vã của thời gian khi chiều đang dần buông xuống. Chúng sẽ làm nền cho hai câu thơ tiếp theo:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Hai câu thơ này làm nổi bật các hình tượng nghệ thuật của thơ Nho giáo xưa. Mặc dù Nguyễn Thị Hinh là nữ sĩ, nhưng bà vẫn chịu ảnh hưởng của văn học Nho gia. Xuân Diệu đã gọi bà là “Bà chúa hoàng hôn”. Hai câu thơ này làm rõ lời khen ngợi của Xuân Diệu, với các hình tượng quen thuộc như ngư ông và mục tử trong thơ xưa. Các động tác “gác mái” và “gõ sừng” nhắc nhở chúng ta về những hình ảnh như:
Ngư lão buông câu ngồi mép bến
Mục đồng té nước tắm đầu sông
hay:
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ
Mục đồng xung địch dẫn ngưu qui
Nhà nho xưa đều coi trọng một cuộc sống thanh bình gắn bó với nông thôn và thiên nhiên qua các nghề ngư – tiều – canh – mục. Đây là những hình ảnh đẹp và cuốn hút trong thơ xưa, có ảnh hưởng từ thơ Đường của Trung Quốc như:
Cô chu soa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Liễu Tông Nguyên)
hay:
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn
(Đỗ Mục)
Nhưng giữa mạng lưới hình tượng văn hóa đó, điều còn lại của Thanh Quan là gì? Có phải chỉ là cách sử dụng từ Hán Việt như “ngư ông”, “viễn phố”, “mục đồng”, “cô thôn” để tạo nên vẻ trang trọng và cổ kính? Điều này chỉ đúng một phần. Dấu ấn thực sự của Thanh Quan là ở hai từ “cô” và “viễn” mà bà đã đặt vào vị trí đăng đối trong hai câu thơ thực. Nhân vật trữ tình không biết “ngư ông” và “mục tử” nghĩ gì, họ đi về đâu, mà chỉ cảm nhận cảm xúc của mình qua hai hình tượng đó. Con người lẻ loi trong hành trình dài lại thấy cảnh vật quanh mình như phản chiếu nỗi cô đơn của chính mình, khiến chúng trở nên “cô”, “viễn”. Chúng ta có thể liên tưởng đến cảm xúc của người chinh phụ cô đơn trong đêm vắng với trăng và hoa:
Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Dấu ấn chủ quan của nhân vật trữ tình hiện lên rồi lại lẩn khuất giữa thiên nhiên mịt mù:
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Sự tương phản trong bức tranh thơ gợi lên vẻ nhỏ bé và yếu đuối của cánh chim và hình ảnh người khách trong chiều tà. Hình ảnh “ngàn mai” gợi sự rộng lớn của không gian, như muốn nuốt chửng cánh chim nhỏ bé, tương tự như hình ảnh “chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều và xa hơn là:
Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Trong thơ Lí Bạch. Con người luôn cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên. Trước thiên nhiên, người xưa muốn hòa hợp và hòa tan vào đại vũ trụ bao la. Người “khách” đang “bước dồn” qua “dặm liễu” có còn ám ảnh về:
Tóc ai trao chửa bạc màu
Liễu ai bẻ tặng bên cầu còn tươi
(Nguyễn Bính)
Ở quê nhà, nơi xa cách và lưu luyến người thân, như “Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình” (Truyện Kiều). Nhân vật trữ tình, hay hình tượng “khách” muốn giấu mình, là đặc trưng phi ngã trong thơ trung đại. Con người không hiện lên cá nhân, mà chỉ thể hiện trong mối quan hệ cộng đồng, gia đình, hoặc trở thành “Càn khôn nhất hủ nho” hay “Giang Hán tư quy khách” trong thơ Đỗ Phủ. Sự đơn chiếc, cô lẻ mang nỗi buồn khó tả. Nhịp “bước dồn” chỉ là vẻ bề ngoài che giấu nỗi lòng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Cảm xúc dồn nén bật ra thành câu hỏi:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Thơ Nho giáo thường chú trọng thế sự, đạo lý và ít đề cập đến tình cảm cá nhân. Tuy nhiên, thơ nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX có sắc thái chủ tình rõ rệt, thể hiện những cảm xúc bị đạo đức Nho giáo kìm nén. Có lẽ tiếng nói tiên phong của Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã mở đường cho hai câu kết này. Qua điển tích “Chương Đài” và cặp đại từ “người – kẻ”, nhân vật trữ tình hướng tới nửa kia của mình.
Câu chuyện về bài thơ “Chương Đài liễu, Chương Đài liễu – Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? – Túng sử trường điều tự cựu thuỳ – Giả ưng phan chiết tha nhân thủ” chứng minh cho khao khát đoàn viên và sống trong hạnh phúc lứa đôi của người lữ thứ. Cảnh lữ thứ càng làm tăng sự khao khát chia sẻ và “kể nỗi hàn ôn”. Nhu cầu sẻ chia này luôn hiện hữu trong mỗi con người từ xưa đến nay.
Bài thơ, dù gói gọn trong thể Đường luật thất ngôn bát cú, nhưng đã bộc lộ tiếng lòng của người nữ sĩ. Cảm giác nhớ quê khi “Lòng còn gửi áng mây vàng” (Truyện Kiều) là điều dễ hiểu. Trong không gian tha hương của thời trung đại, sự cô đơn khi bị tách ra khỏi quê nhà quen thuộc là điều dễ cảm nhận. Điều này không chỉ là một mã nghệ thuật mà còn phản ánh phần nào thực trạng tâm trạng con người.
3. Phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - mẫu 6
Những ai đã đọc “Truyện Kiều” chắc chắn không thể quên câu thơ của Nguyễn Du về cảnh hoàng hôn:
“Bài hát của cát và võ thuật trên bầu trời,
Hoàng hôn bây giờ lại là hoàng hôn.”
Về hoàng hôn và nỗi buồn của người lữ khách, bài thơ “Chiều nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm xuất sắc của thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX:
“Chiều có bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa xa vọng tiếng đồn.
Gác mái, người đánh cá về phố,
Gõ tù và, người chăn cừu rời làng.
Buổi sáng gió thổi đàn chim bay,
Dặm liễu mù sương từng bước.”
Câu thơ đầu miêu tả cảnh hoàng hôn vào một buổi chiều xa. Hai từ “bóng hoàng hôn” mang ý nghĩa tạo hình đặc biệt: ánh chiều tà mờ ảo, xa gần mơ hồ, tạo nên một bức tranh chiều buồn:
“Chiều tà bóng hoàng hôn.”
Hai từ “bóng hoàng hôn” giống như đôi mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng đã từng viết: ‘Trời tây bóng vàng’ (Truyện Kiều). Chỉ qua một câu thơ, một chữ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế trong ngòi bút của Bà Huyện Thanh Quan. Đối với những người xa quê, khoảnh khắc hoàng hôn sao mà buồn đến thế! Nỗi buồn càng thêm nặng nề khi tiếng ốc (còi và) và tiếng trống “đã xa”. Độ dài (tiếng ốc), độ cao (tiếng trống trên chòi cao) của không gian thể hiện qua những âm thanh ấy đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn vương vấn, một nỗi niềm tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bóng hoàng hôn) vừa có âm thanh (tiếng ốc, tiếng trống) tạo nên cảnh hoàng hôn nơi xứ lạ với màu sắc dân dã:
“Chiều có bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc sên vang xa.”
Phần thực và phần luận, các chất liệu thơ làm nên cốt lõi bài thơ đều được chọn lọc kỹ lưỡng, thể hiện một tâm hồn thơ đầy cảm xúc. Người đánh cá, người chăn cừu, du khách… thế giới con người được miêu tả. Phong cảnh là những buổi sáng, gió sương, “chim bay mỏi cánh”… Những hình ảnh này mang tính chất ước lệ của thơ cổ (người có: cá, tiêu, phong cảnh, cỏ cây, hoa lá, … Có: phong, sương , mai, liễu, chim chiều…) nhưng với sự sáng tạo vô song: lựa chọn từ ngữ, tạo hình ảnh, câu đối, đối từ, đối âm, ở khía cạnh nào, nữ sĩ cũng thể hiện một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang trọng. Vì vậy, cảnh vật trở nên có hồn, gần gũi và đậm đà bản sắc dân tộc.
Buổi chiều, người đánh cá cùng con thuyền nhẹ nhàng trôi về bến xa với tâm trạng thư thái. Động từ “gác mái” miêu tả tâm trạng bình yên của một người dân chài sống ở một vùng quê thanh bình, không bị vòng danh lợi trói buộc:
“Gác mái, người đánh cá về phố xa.”
Cùng lúc, lũ trẻ đánh trâu về chuồng, về với “cô thôn nữ”. Động tác “gõ cửa” của chú mục đồng thể hiện sự hồn nhiên, vô tư, yêu đời:
“Gõ cửa, mục đồng bỏ làng.”
Đó là hai nét vẽ của con người tạo nên hai bức tranh tuyệt đẹp về một vùng đất hoang vu rất quen thuộc và đáng yêu. Hai bài thơ tiếp theo mượn cảnh để miêu tả người lữ khách lạnh lẽo, cô đơn, bơ vơ trên đường tha hương. Trời tối dần. Rau muống xào xạc trong “gió”: gió càng lúc càng mạnh. Con chim mệt mỏi vội bay về rừng tìm tổ. Sương mờ liễu dặm. Và trên con đường gió lạnh ấy, chỉ có một mình lữ khách, một mình “dạo chơi” tìm chốn dung thân. Hai hình ảnh “chim bay mỏi” và “khách bước lên” là hai nét tương phản, diễn tả sự mệt mỏi, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa “gió” và “sương”, sống trong giây phút buồn tủi đến rợn người. Bài thơ để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự thênh thang của con đường xa xứ:
“Nghìn buổi sáng, gió cuốn đàn chim đi,
Hàng dặm liễu, sương bước vào.”
Với những trải nghiệm cuộc sống, từng sống những phút hoàng hôn nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới có thể viết nên những vần thơ diễn tả cảnh ngộ cô đơn của một người con xa xứ như vậy! Hai câu kết dồn nén niềm thương nhớ da diết. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai đoạn, lời ca cân đối đẹp: “Người ở Chương Đài // người đi chuyến thứ hai”. Chương Đài là câu chuyện kinh điển về chia ly, tình yêu rồi hợp tan của cặp đôi Hành Hoành và Liễu. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng sáng tạo truyền thuyết đó.
“Chàng đại” và “lữ thu” trong văn cảnh gợi một trường liên tưởng về nỗi buồn chia ly của người khách phương xa. Quê hương, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là lời than thở bộc lộ tâm sự được thể hiện qua hình thức câu hỏi tu từ. “Ai” là đại từ tầm thường nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, người thân của nữ sĩ. “Hàn ôn” nghĩa là nóng và lạnh; “Cầm tính” là lòng nổi. Người lữ khách trong buổi chiều tha hương ấy thấy mình lẻ loi nơi phương xa, lòng bùi ngùi khôn tả:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”
“Chiều Nhớ Nhà” là kiệt tác thơ thất ngôn bát cú của Đường Luật. Đây là tập thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những ngày nữ sĩ trên đường vào kinh thành Huế nhận chức cung nữ trong triều Nguyễn. Đây có thể coi là những áng văn thơ rất độc đáo.
Thơ Bà Huyện Thanh Quan thấm đượm một nỗi buồn chia ly hay hoài niệm, thường nhắc đến hoàng hôn, ca từ trang nhã, dùng nhiều từ Hán Việt (bóng hoàng hôn, ngư phủ, phố xa…) trang nghiêm, cổ phong, du dương hấp dẫn giai điệu. “Chiều nhớ nhà” là một bông hoa nghệ thuật chan chứa tình thương, nỗi nhớ….
4. Phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - mẫu 1
Trong nền thơ ca Việt Nam, có những nữ sĩ để lại những dấu ấn đáng nhớ. Trong khi thơ Hồ Xuân Hương mang vẻ tài hoa và ngạo nghễ, thì thơ Bà Huyện Thanh Quan lại nổi bật với sự thanh nhã, lãng mạn và duyên dáng. Khi đọc thơ của bà, chúng ta cảm nhận được nỗi buồn mênh mông, tâm trạng hoài cổ đượm vẻ thanh cao và sự cô đơn tĩnh lặng. Một trong những tác phẩm nổi bật đó chính là bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Khám phá bài thơ, ta sẽ thấy tài năng thơ ca tinh tế của bà:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ ra thời gian, nhưng người đọc như cảm nhận được cả không gian rộng lớn của một vùng quê. Trước thiên nhiên rộng lớn ấy, giữa trời và đất, dường như có một sự thấm đẫm cảm xúc của con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời điểm dễ buồn nhất, và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan. Trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào, con người đôi khi trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên và chính nội tâm của mình. Đây chính là khoảnh khắc của nữ sĩ.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa văng vẳng như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng, báo hiệu cho mọi người biết rằng ngày đang dần kết thúc. Ta như gặp một nét quen thuộc của câu ca dao:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu qua việc chọn thời gian, không khí và âm thanh. Trong cảnh chiều, giữa tiếng gọi của ngày tàn, con người hiện ra:
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 tạo cảm giác hoạt động của con người đang giảm dần, tiến đến kết thúc. Phép đối chính xác cùng với các từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã và cổ kính của hai câu thơ này. Trước cảnh thiên nhiên bao la, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây, ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong “Qua đèo Ngang” của cùng tác giả, cảnh và người cũng vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta cảm nhận rằng nhà thơ đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao? Hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Con đường trước mắt dường như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang kéo dài? Phép đối giữa các hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn – sương sa, chim bay mỏi – khách bước dồn làm nổi bật ý tưởng. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi thể hiện tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng này dẫn đến hai câu kết thúc:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Không có ai để chia sẻ, trời đất bao la, vắng lặng, khiến tác giả quay về với nội tâm, với nỗi buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối vừa như một câu cảm thán, vừa như một câu hỏi. Chúng ta đã gặp những câu thơ tài hoa như vậy trong thơ của bà:
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Và
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỉ 18 – 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc. Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của chế độ phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như vậy, ta càng hiểu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.
Thơ của bà buồn, nhưng không vì thế mà mất đi vẻ đẹp gợi cảm. Ngược lại, chính nhờ vậy mà càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.
“Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi mang đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, mở ra những suy nghĩ sâu sắc hơn về con người và xã hội. Một bài thơ khép lại nhưng vẫn mở ra, tạo nên dư âm trong lòng người đọc.
5. Phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - mẫu 2
Trong làng văn học Việt Nam, chúng ta gặp một nữ sĩ với những vần thơ trang nhã và cổ điển, đó chính là Bà Huyện Thanh Quan với các tác phẩm nổi bật như “Qua Đèo Ngang” và “Chiều hôm nhớ nhà”. Cả hai bài thơ đều theo thể Đường luật, mang phong cách cổ điển với ngôn từ tinh tế và súc tích. Chính nhờ sự kết hợp này, hai bài thơ vẫn giữ được sức hấp dẫn qua thời gian.
Thi pháp cổ điển trong thơ bà thể hiện qua việc sử dụng nhiều điển cố và điển tích, với ngôn ngữ thơ ca chắt lọc và tinh tế. Trong hai bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, điều này rất rõ ràng. Đặc điểm nổi bật trong thơ bà là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, với ngôn ngữ buồn mà sâu lắng. Cả hai bài thơ đều mang đến một không gian gợi cảm giác buồn và nhớ nhung trong một ngày. Cảnh Đèo Ngang lúc chiều tà là một ví dụ:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
(Qua Đèo Ngang)
Còn trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”, cảnh chiều được miêu tả như sau:
Trời chiều băng lảng bóng hoàng hôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Trước khung cảnh này, những ai không cảm xúc cũng phải cảm thấy buồn, chứ không nói gì đến người nhạy cảm như nữ sĩ. Trong bài “Qua Đèo Ngang”, hình ảnh nghệ thuật đầu tiên là bóng xế tà, thì trong “Chiều hôm nhớ nhà”, đó cũng là bóng hoàng hôn. Trong thơ cổ, hình ảnh bóng chiều thường được dùng để diễn tả tâm trạng và nỗi buồn. Buổi chiều gợi nhớ về quê hương và gia đình, đặc biệt là khi là người lữ thứ xa quê, trên đỉnh Đèo Ngang chỉ có:
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa thì ở
Trong “Chiều hôm nhớ nhà”, không khí cũng vắng vẻ và lạnh lùng:
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Đây là âm thanh làm ta cảm nhận rõ nhất nỗi buồn. Tiếng ốc xa xăm, lúc đều lúc nhặt, càng làm nổi bật nỗi buồn của nhà thơ. Cả hai bài thơ đều phản ánh nỗi buồn sâu thẳm. Từ cuộc sống náo nhiệt ở kinh đô Thăng Long, chuyển đến Đèo Ngang, nữ sĩ cảm thấy nỗi buồn chất chứa. Hình ảnh con người trong cả hai bài thơ chỉ là những bóng dáng mờ nhạt của những người lao động nghèo khổ, cuộc sống đơn sơ và tẻ nhạt:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Qua Đèo Ngang)
Và
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Thủ pháp đảo ngữ trong thơ tạo nên hình ảnh cuộc sống thưa thớt và vắng vẻ. Vì vậy, Bà Huyện Thanh Quan không thể vui vẻ, càng không thể thờ ơ trước cảnh buồn man mác. Nỗi niềm u hoài là nỗi lòng của nữ sĩ, nhớ về một thời vàng son đã qua. Trước cảnh vật hiện tại, lòng bà cháy bỏng với nỗi nhớ quê và thương nước, hòa cùng âm thanh của tiếng cuốc và gia gia.
Nghệ thuật chơi chữ quốc (nước) và gia (nhà) làm nổi bật nỗi nhớ nước, nhớ quê của nhà thơ. Tiếng cuốc kêu như một tiếng gọi thiết tha trong tâm tư bà, gửi gắm nỗi nhớ quê hương và đất nước:
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Răm liễu sương sa khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Chiều tà, mặt trời sắp tắt, bóng đêm bao phủ, chim tìm nơi ngủ, lữ khách tìm chốn nghỉ. Bà Huyện Thanh Quan rất nhớ quê, muốn trở về nhưng lại bất lực:
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Ở đây, tác giả sử dụng điển cổ “Chương Đài” để thể hiện sự xa cách giữa bà và quê hương. Bà tìm kiếm ai để chia sẻ nỗi buồn, nỗi cô đơn. Đối diện với cảnh Đèo Ngang, nữ sĩ như gặp lại chính mình:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
Mảnh tình riêng đó là tâm sự cô đơn trước mây trời và sông nước. Bà và cảnh hòa quyện trong một tâm trạng chung. Dù cảnh vật bao la, rộng lớn, nhưng tâm trạng của nhà thơ lại u hoài. Cảnh và tình hòa quyện trong những vần thơ buồn bã, cô đơn.
Hai bài thơ trên là minh chứng rõ ràng cho phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan. Sự kết hợp giữa chất cổ điển và trữ tình tạo nên thành công nổi bật cho hai bài thơ. Dù đã gấp sách lại, chúng ta vẫn không thể quên những vần thơ tuyệt vời như vậy.
6. Phân tích bài thơ 'Chiều hôm nhớ nhà' - phiên bản 3
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm đượm nỗi buồn chia ly hoặc hoài niệm, thường gợi nhớ về hoàng hôn, với những câu chữ trang nhã và nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…), tạo nên một phong cách trang trọng và cổ kính, âm điệu trầm bổng lôi cuốn. Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” là một tác phẩm nghệ thuật đậm tình thương nhớ và sự bâng khuâng.
Người từng đọc “Truyện Kiều” không thể quên câu thơ của Nguyễn Du về hoàng hôn:
“Sông sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”.
Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” của Bà Huyện Thanh Quan, một kiệt tác của thơ Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của người lữ khách:
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.
Câu thơ đầu tiên mô tả ánh hoàng hôn của một buổi chiều nơi đất khách. Hai chữ “bảng lảng” mang giá trị tạo hình đặc biệt: ánh sáng mờ nhạt lúc chiều tà, tạo nên bức tranh chiều buồn:
“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”.
Chữ “bảng lảng” như một nhãn tự, giúp người đọc hình dung rõ ràng. Nguyễn Du cũng có câu:
“Trời tây bảng lảng bóng vàng” (Truyện Kiều)
Chỉ qua một câu thơ, người đọc cảm nhận được sự tinh tế trong ngòi bút của Bà Huyện Thanh Quan. Đối với người đi xa, hoàng hôn là một khoảnh khắc đầy nỗi buồn. Tiếng ốc (tù và) và tiếng trống đồn “xa đưa vẳng” càng làm tăng nỗi buồn, khiến không gian trở nên rộng lớn và buồn tẻ. Câu thơ không chỉ có ánh sáng (bảng lảng) mà còn có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn), tạo nên một cảnh hoàng hôn đậm màu sắc dân dã:
Phần thực và phần luận của bài thơ, với các thi liệu được chọn lựa tinh tế, thể hiện một tâm hồn thơ phong phú. Ngư ông, mục tử, lữ khách… đều được mô tả. Cảnh vật có ngàn mai, gió, sương, chim bay… Những thi liệu này mang tính ước lệ của thi pháp cổ (người có ngư, tiều; cảnh vật có phong, sương, mai, liễu, chim chiều…) nhưng với tài năng sáng tạo đặc biệt, từ ngữ, hình ảnh, câu đối, thanh đối đều tỏ rõ một hồn thơ tài ba. Cảnh vật trở nên gần gũi và đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.
Chiều tà, ngư ông với con thuyền nhẹ trôi về viễn phố, mang tâm trạng nhàn nhã, thoải mái. Động từ “gác mái” diễn tả sự thoát khỏi vòng danh lợi của ngư ông sống ở miền quê:
“Gác mái, ngư ông về viễn phố”.
Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại “cô thôn”, cử chỉ “gõ sừng” của mục đồng hồn nhiên, vô tư:
“Gõ sừng mục tử lại cô thôn”.
Hai hình ảnh này vẽ nên hai bức tranh tuyệt đẹp về cuộc sống thôn quê. Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để diễn tả sự lạnh lẽo, cô đơn của người lữ khách trên con đường tha hương. Trời sắp tối, gió thổi mạnh làm xào xạc ngàn mái, chim bay mỏi về tổ, sương mù dày đặc. Trên con đường sương gió, chỉ có một lữ khách cô đơn đang “bước dồn” tìm nơi nghỉ.
Hai hình ảnh “chim bay mỏi” và “khách bước dồn” đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như lạc lõng giữa gió và sương, đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương. Câu thơ để lại ám ảnh sâu sắc. Đảo ngữ làm nổi bật sự bao la của con đường xa:
“Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn”.
Nhờ trải nghiệm cuộc sống, Bà Huyện Thanh Quan đã viết những câu thơ chân thực mô tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương. Hai câu kết tóm gọn nỗi thương nhớ. Câu thứ bảy gồm hai vế đối xứng, thể hiện rõ nỗi nhớ của tác giả. “Chương Đài” là điển tích nói về sự chia ly và nhớ thương trong lịch sử. Bà Huyện Thanh Quan đã sáng tạo vận dụng điển tích này để gợi nỗi buồn của người lữ khách nhớ quê:
“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.
“Chiều hôm nhớ nhà” và “Qua Đèo Ngang” là hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đây là những tác phẩm Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong thời gian trên đường tới kinh đô Huế nhận chức nữ quan. Chúng ta có thể coi đây là những bút ký – thơ độc đáo.
Thơ của Bà Huyện Thanh Quan đậm nỗi buồn chia ly và hoài niệm, gợi nhớ hoàng hôn, với lời thơ trang nhã và nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố…). “Chiều hôm nhớ nhà” là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng tình thương nhớ sâu sắc.