- - Bài tham khảo số 1: Truyện Kiều của Nguyễn Du là tinh hoa văn hóa, phản ánh xã hội thối nát. Đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' tập trung vào nỗi cô đơn và tình cảm hiếu thảo của Kiều.
- - Bài tham khảo số 3: Tám câu thơ giữa thể hiện tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình của Kiều. Câu hỏi 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' thể hiện tâm trạng hoang mang và nỗi đau trong tình yêu của Kiều.
- - Tham khảo số 2: Kiều đau đớn nhớ về Kim Trọng và lo lắng cho cha mẹ. Tâm lý của Kiều hiện hình qua những cung bậc tình cảm.
- - Tham khảo số 5: Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là bức tranh tâm huyết về nỗi nhớ về Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.
- - Tham khảo số 6: Kiều cảm thấy cô đơn buồn tủi ở lầu Ngưng Bích, nhớ về Kim Trọng và lo lắng cho cha mẹ. Nỗi nhớ và tình thương được diễn đạt qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật.
Nguyễn Du, một tinh hoa văn hóa trong thời kỳ biến động lịch sử. Truyện Kiều của ông không chỉ là kiệt tác nghệ thuật mà còn là phản ánh sâu sắc về xã hội thối nát. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' tập trung vào nỗi cô đơn và tình cảm hiếu thảo của Thúy Kiều. Kiều đau đớn nhớ về người yêu và lo lắng cho cha mẹ già yếu. Sự khéo léo trong cách Nguyễn Du xây dựng tâm lý nhân vật khiến đoạn trích trở nên đặc sắc.
Nỗi nhớ của Kiều chia thành hai phần: nhớ người yêu và nhớ cha mẹ. Khi gia đình gặp biến cố, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha. Tưởng sẽ gặp nhà tử tế, nhưng lại bị đẩy vào lầu xanh. Trong hoàn cảnh này, nàng nhớ đến người yêu trước, cha mẹ sau. Nguyễn Du tinh tế khi làm nổi bật nỗi nhớ về Kim Trọng trước, thể hiện sự phù hợp với tâm lý thanh xuân của Kiều.
Đoạn thơ về tình cảm giữa Kiều và Kim Trọng là hình ảnh của sự chung thủy và nỗi đau đớn. Kiều tưởng người yêu vẫn nhớ về mình dù đã chia cắt. Câu hỏi 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' làm nổi bật tâm trạng hoang mang và nỗi đau trong tình yêu của Kiều. Còn với cha mẹ già, Kiều xót xa khi nghĩ đến họ tựa cửa chờ con và lo lắng trong nỗi nhớ. Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ đẹp, điển cố hình ảnh, và thành ngữ để diễn đạt sự xót xa và quan tâm của Kiều đối với cha mẹ già yếu.
Đoạn thơ là bức tranh tinh tế về tâm hồn và tình cảm của nhân vật Kiều, không chỉ là một cô gái xinh đẹp mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo và tình yêu chân thành.
Hình minh hoạTrong bài thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', tám câu thơ giữa thể hiện tâm trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình cùng hoàn cảnh tội nghiệp đáng thương của Kiều ở nơi đất khách quê người.
Hai câu thơ: 'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ' tái hiện kỷ niệm đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc. Đó là nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh trăng. Câu hỏi 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' làm nổi bật tâm trạng hoang mang và nỗi đau trong tình yêu của Kiều. Còn với cha mẹ già, Kiều xót xa khi nghĩ đến họ tựa cửa chờ con và lo lắng trong nỗi nhớ. Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ đẹp, điển cố hình ảnh, và thành ngữ để diễn đạt sự xót xa và quan tâm của Kiều đối với cha mẹ già yếu.
Đoạn thơ là bức tranh tinh tế về tâm hồn và tình cảm của nhân vật Kiều, không chỉ là một cô gái xinh đẹp mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo và tình yêu chân thành.
Minh họa bằng hình ảnhTrái tim Kiều đau đớn giữa lầu Ngưng Bích, nhớ về Kim Trọng và lo lắng cho cha mẹ. Cảnh đêm cô đơn buồn tủi, với những nỗi nhớ và xót xa chẳng bao giờ phai nhạt. Tâm lý của Kiều hiện hình qua những cung bậc tình cảm, từ nỗi nhớ ngọt ngào đến đau đớn thương tâm. Nguyễn Du đã vẽ nên hình ảnh một Kiều đẹp về cả văn hóa và tâm hồn, giữa bối cảnh khắc nghiệt của cuộc sống.
Hình minh hoạNguyễn Du, vị thi hào to lớn của dân tộc, để lại dấu ấn bền vững trong văn hóa Việt Nam với tác phẩm kỳ diệu “Truyện Kiều”. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm huyết với nghệ thuật độc đáo.
Không chỉ làm nổi bật nỗi đau thương cá nhân, đoạn trích còn là bức chân dung tâm hồn, nỗi nhớ về Kim Trọng và cha mẹ của Thúy Kiều.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Chữ “tưởng” làm nổi bật nỗi đau hồi tưởng, nhớ lại những khoảnh khắc hạnh phúc với Kim Trọng. Thúy Kiều như đắm chìm trong quá khứ ngọt ngào, nhưng thức tỉnh với nỗi đau hiện tại.
“Bến trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nỗi nhớ Kim Trọng trở nên đau đớn hơn, khi Kiều nhận thức về tấm son bị hoen ố, danh dự tan vỡ. Đoạn thơ diễn đạt sự tuyệt vọng và tủi phận của Kiều.
Ngoài ra, tác giả còn khéo léo tạo nên hình ảnh nỗi nhớ và tình cảm với cha mẹ.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
“Xót” là từ thể hiện sự đau xót, tình cảm thương yêu Kiều dành cho cha mẹ già yếu. Tình hiếu thảo của nàng hiện lên qua hình ảnh “Sân Lai” và “gốc tử”, thể hiện sự quan tâm và lo lắng tận cùng.
Với ngôn ngữ tinh tế, đoạn trích là biểu tượng của tình yêu và hiếu thảo, tạo nên tác phẩm văn học trường tồn qua thời gian.
Minh họa
Nguyễn Du, một huyền thoại văn hóa toàn cầu và đồng thời là thi sĩ vĩ đại của Việt Nam. Tác phẩm nghệ thuật lớn nhất mà ông để lại cho thế giới chính là 'Truyện Kiều'. Không chỉ là kiệt tác về nội dung, tác phẩm còn thành công về mặt nghệ thuật, đặc biệt là trong việc miêu tả tâm hồn phong phú của Nhân vật chính - Thuý Kiều. Trích đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', đặc biệt là tám câu thơ giữa, thực sự chân thực và đầy xúc động, là nơi Kiều thể hiện tình cảm nhớ thương đối với người yêu và cha mẹ.
Trong những dòng thơ giữa đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', chúng ta được chứng kiến sự nhớ nhung về người yêu và tình cảm hiếu thảo đối với cha mẹ của Kiều. Những kỷ niệm về Kim Trọng, mối tình đầu đẹp đẽ, được thể hiện qua từng dòng thơ:
'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.'
Chữ 'tưởng' là mở đầu cho những hồi tưởng, những kí ức về Kim Trọng. Dưới ánh trăng lãng đãng, Kiều và Kim Trọng đã thề ước, nâng ly chén đồng, hứa hẹn mối tình đôi lứa. Trong khi vầng trăng vẫn sáng rực, tình yêu của họ lại bị đặt vào bờ vực đau đớn. Câu thơ chuyển động như trái tim yêu đang trải qua niềm đau nhớ về tình yêu đẹp đẽ. Nhớ về Kim Trọng, Kiều đau đớn hơn khi nghĩ về sự xa cách, với Kim Trọng vẫn trung thành, đợi chờ thông điệp từ Kiều nhưng không hề biết về số phận 'bán mình' của nàng.
Khám phá tình yêu đích thực, Kiều vẫn giữ cho mình một tấm lòng vững chãi, không phai nhòa giữa những khó khăn. Dù cô đơn, lạc lõng, nhưng tình yêu của Kiều với Kim Trọng không hề phai nhạt, vẫn tỏa sáng giữa bối cảnh lầu Ngưng Bích. Câu thơ nhẹ nhàng như những kể chuyện của trái tim đang đau đớn khi nhớ về những kỷ niệm đẹp đẽ. Nhớ về người yêu, nhưng trong lòng Kiều còn rơi vào nỗi nhớ thương cha mẹ:
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?'
Trong cô đơn, Kiều vẫn nhớ đến cha mẹ già yếu, 'tựa cửa' mong chờ tin tức từ con. Lạc lõng giữa thế giới mới, nỗi xót xa tăng lên khi nghĩ về việc không thể chăm sóc cha mẹ khi họ già yếu. 'Cách mấy nắng mưa' là thời gian xa cách, biểu hiện sự tàn phá của thời gian đối với con người và cảnh vật. Nhớ cha mẹ, Kiều xót xa vì không thể ở bên chăm sóc họ, cảm thấy ân hận về việc phụ công ơn của cha mẹ. Tất cả được thể hiện một cách chân thành và sâu sắc qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Trong 8 câu thơ của đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', Nguyễn Du đã tài tình miêu tả nỗi nhớ thương về người yêu và cha mẹ của Kiều. Tác giả không chỉ tập trung vào khía cạnh tình yêu lãng mạn mà còn thể hiện tâm trạng hiếu thảo, lòng trung thành của Kiều. Ông cũng thông qua đoạn thơ này để thể hiện lòng nhân đạo và ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của phụ nữ trong xã hội xưa.
Minh họa
6. Tài liệu tham khảo số 6
Nguyễn Du, vị đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, để lại dấu ấn vĩ đại với tác phẩm 'Truyện Kiều' - kiệt tác văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn thành công về mặt nghệ thuật. Đặc biệt, đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' và tám câu thơ giữa đã chân thực khắc họa về nỗi nhớ người yêu và tình thương cha mẹ của Thúy Kiều, thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật.
Sau khi bị lừa vào lầu xanh, Kiều quyết định tự vẫn do uất ức. Tú Bà hứa sẽ gả nàng vào nơi tử tế khi Kiều bình phục, nhưng thực tế là giam lỏng nàng.
Ở lầu Ngưng Bích, Kiều sống một mình giữa đất khách quê người, cảm thấy cô đơn buồn tủi. Trước mắt là không gian mênh mông với non xa trăng gần, cùng những cồn cát bụi bay mù mịt. Thời gian tuần hoàn khép kín không gian và thời gian đó như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi, tan nát cõi lòng.
Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng.
'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.'
Chữ 'tưởng' ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu, nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. 'Chén đồng' là chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:
'Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh linh hai miệng một lời song song.'
Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo, nhưng tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.
Nhớ về Kim Trọng đau đớn, hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:
'Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.'
Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. Câu thơ 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' có thể hiểu tấm son của Kiều đã bị hoen ố, nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để tấm lòng lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.
Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ. Nhớ tới Kim Trọng nàng 'tưởng' thì nhớ tới cha mẹ nàng 'xót'.
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm?'
Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa vì mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ 'Quạt nồng ấp lạnh' và điển cố 'Sân Lai gốc tử' nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là 'Có khi gốc tử đã vừa người ôm,' nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, nàng chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ 'cách mấy nắng mưa' vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng, vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật. Mỗi khi nhớ về cha mẹ, Kiều cũng 'nhớ ơn chín chữ cao sâu' và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.
Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian, càng thêm sâu xa. Điều đáng lưu ý là dù trong cô đơn ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn là người đáng thương nhất, trái tim nàng đầy yêu thương nhân hậu và vị tha. Nàng là người tình thủy chung, người con hiếu nghĩa, đáng trân trọng biết bao.
Tóm lại, thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế, Nguyễn Du đã khắc họa thành công và cảm động nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích.' Điều này thể hiện vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
Ảnh minh họa