1. Bài soạn 'Lính đảo ngân khúc tình ca' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh Diều) - mẫu 4
I. Tác giả
- Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Dương, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam.
- Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là "Thần đồng thơ trẻ". Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.
- Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sơm, năm 8 tuổi ông đã có một số sáng tác được in trên báo. Năm 10 tuổi, ông đã cho xuất bản tập thơ đầu tiên với nhan đề "Từ góc sân nhà em "(1968). Cũng trong năm 1968, ông đã cho ra mắt tập thơ thứ hai là "Góc sân và khoảng trời" do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. Trong đó, bài thơ "Hạt gạo làng ta" sáng tác năm 1968, là bài thơ phổ biến nhất của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Bài Thơ này đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm 1971, bài hát được rất nhiều người yêu thích, nhất là lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.
- Năm 10 tuổi, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" trong bài thơ "Ta đi tới" của nhà thơ Tố Hữu , thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" . Điều này đã làm cho giới văn học Việt Nam một phen ngỡ ngàng.
- Thành tích:
+ Giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong các năm 1968, 1969, 19711
+ Giải nhất báo Văn nghệ năm 1982
+ Giải thưởng Nhà nước năm 2000
- Trần Đăng Khoa sáng tác không nhiều, những tác phẩm nổi bật của ông như:
+ Từ góc sân nhà em, 1968.
+ Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới
+ Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
+ Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
II. Tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
- Thể loại: Thể thơ Tự do
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm, miêu tả
- Nội dung chính tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
Tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người lính hải đảo nơi Trường Sa khắc nghiệt cùng tinh thần yêu nước, hướng về tổ quốc của họ
Bố cục tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa): Chia văn bản thành 2 đoạn
- Đoạn 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo.
- Đoạn 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.
Giá trị nội dung tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
- Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sự lạc quan vui tươi niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của những người lính trên đảo.
- Tình cảm xót thương trước hiện thực khó khăn, thiếu thốn của những người lính ngoài đảo xa
Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
- Thể thơ tự do vui tươi, rộn ràng, tạo không khí trẻ trung sôi nổi
- Giọng thơ hào hứng, say mê
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)
Giới thiệu về những người lính trên đảo
* Hoàn cảnh
- Sự đặc biệt của sân khấu: đá san hô kê lên thành sân khấu; Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
=> Sự thiếu thốn, khó khăn đặc biệt về vật chất nơi đây.
* Ngoại hình
- Chi tiết thể hiện ngoại hình của người lính đảo:
+Mấy chàng đầu trọc, lính trọc đầu, lính già lính trẻ đều trọc tếu giống những sư cụ là bà con xa với bụt ốc
=> Ngoại hình ấn tượng với đầu trọc lốc không tóc, càng làm nổi bật sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất nơi đây, điều kiện sống nguy hiểm.
* Phẩm chất, tính cách
- Sân khấu biểu diễn sơ sài, đơn giản.
- Diễn viên, khán giả của màn biểu diễn là một – những người lính đảo
=> Họ tự tạo cho nhau việc làm, tạo niềm vui giải trí với nhau để vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
- Khung cảnh biểu đảo, gió cát, sóng to dữ dội vài giờ xuất hiện nơi đây khiến người ta chỉ muốn chạy trốn
- Nhưng những người lính đảo lại lạc quan đương đầu với nó, tự tạo niềm vui cho mình.
=> Họ là những con người không đẹp về ngoại hình nhưng nội tâm của họ lại phong phú, tươi đẹp. Tâm hồn họ tràn đầy sự lạc quan, niềm vui, tinh thần bất khuất.
Bản tình ca của những người lính đảo
- Điều đặc biệt ở bản tình ca của lính đảo:
+ Có giai điệu ngang tàn như gió biển, lời ca toàn những nhớ nhung và yêu thương.
+ Lời hát của họ rì rào trong không gian, như những tiếng vỏ ốc vang vọng ngoài biển khơi.
+Lời hát của họ giống như một câu chuyện kể dịu êm với những điều lãng mạn: đêm trang, hàng cây xanh, tay nắm tay.
- Nghệ thuật:
+ Biện pháp so sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn
+ Biện pháp nhân hóa: Vỏ ốc cất thành lời
+ Điệp cấu trúc: Nào hát lên/ Rằng...
=> Thể hiện hình tượng người lính đảo: Họ là những con người lạc quan và đầy mơ mộng với cuộc sống.
Chuẩn bị
Yêu cầu (trang 73 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là "Thần đồng thơ trẻ". Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.
- Bài thơ “Lính đảo hát tình ca trên đảo” được sáng tác tại Đảo Sơn Ca, tháng 5 năm 1982, được trích trong tập “Bên cửa sổ máy bay” (1985) của Trần Đăng Khoa.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
Bài thơ “Lính đảo hát tình ca trên đảo” của Trần Đăng Khoa đã vẽ nên bức tranh hiện thực cuộc sống của người lính nơi đảo xa, để từ đó bày tỏ tình yêu, nỗi nhớ và lòng biết ơn, trân trọng đối với người lính hải đảo.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 73 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Nhân vật trữ tình tự xưng là “bọn chúng anh”, gọi “em”
- Sân khấu do lính đảo tự tạo: Đá san hô kê lên thành sân khấu, vài tấm tôn chôn mấy cánh gà, chẳng phông màn.
=> Cuộc sống khó khăn, thiếu thốn
Câu 2 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Người lính tự hoạ về ngoại hình của họ qua các hình ảnh “mấy chàng đầu trọc”, “lính trọc đầu”, “trọc tếu như nhau”, “sư cụ”
Câu 3 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Bản tình ca của lính đảo đặc biệt: “ngang tàng như gió biển”, “lời ca toàn nhớ với thương”.
=> Bản tình ca mang theo tình yêu quê hương, đất nước khiến người đọc xúc động, tự hào.
Câu 4 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Phép điệp: Nào hát lên cho.... biết... rằng
=> Nhằm khẳng định tình cảm thuỷ chung, nghĩa tình của những người lính biển.
Câu 5 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Kết thúc bài thơ, tác giả thấy “biển người đâu lên đông thế” nhưng phát hiện đó là “những đá trọc đầu” (khi nước thuỷ triều rút, những mỏm đá hiện ra khiến tác giả có những liên tưởng bất ngờ, thú vị).
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Nhân vật trữ tình trong bài thơ là những người lính đảo
- Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: (4 khổ đầu): Hoàn cảnh sống và tinh thần lạc quan của người lính đảo
+ Phần 2: (còn lại): Tấm lòng thuỷ chung, nghĩa tình của người lính
Câu 2 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Sân khấu do lính đảo tự tạo: Đá san hô kê lên thành sân khấu, vài tấm tôn chôn mấy cánh gà, chẳng phông màn.
- Diễn viên: những người lính đảo
- Khán giả: những người lính đảo
- Lí do tạo ra sự đặc biệt: cuộc sống trên đảo vô cùng khó khăn, thiếu thốn vì vậy, sân khấu của người lính chỉ có thể làm một cách tạm bợ và chính họ làm khán giả cho nhau.
- Qua đó, em thấy hình tượng người lính hiện lên thật cao đẹp: họ luôn bình tĩnh, lạc quan, giàu ý chí trong mọi hoàn cảnh.
Câu 3 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
“Yêu em thuỷ chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai”
=> Nghệ thuật so sánh “thuỷ chung hơn muối mặn” cho thấy tâm hồn lạc quan, trẻ trung, hóm hỉnh của những người lính và sự thuỷ chung, nghĩa tình của họ.
Câu 4 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Bài thơ được viết theo mạch cảm hứng của một buổi trình diễn âm nhạc, từ khâu chuẩn bị cho đến lúc trình diễn và lời ca được cất lên cao trào.
- Ngôn ngữ bài thơ trong sáng, giản dị, những hình ảnh gợi hình, gợi cảm đem đến cho bạn đọc những ấn tượng độc đáo.
- Giọng điệu bài thơ vừa thiết tha, sâu lắng vừa vui tươi, hóm hỉnh thể hiện tính cách trẻ trung của người lính.
Câu 5 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
- Người lính hải đảo có một cuộc sống vô cùng khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Họ chịu một điều kiện sống thiếu thốn, những thú vui đôi khi chỉ có thể chuẩn bị sơ sài và không có sự giao lưu với những người dân khác, không có người yêu. Thế nhưng, tâm hồn người lính vẫn luôn lạc quan, tự tin, yêu đời với một tinh thần trách nhiệm và tình yêu nước cao đẹp.
Câu 6 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2 – Cánh diều):
Tôi vẫn nhớ, ngày hôm ấy, tôi có cơ hội được đến thăm Côn Đảo và vô tình được tham gia một buổi diễn văn nghệ của những người lính đảo. Họ xuất hiện trong hình ảnh thật giản dị với bộ quân phục màu trắng kẻ xanh. Sân khấu biểu diễn nơi hải đảo không được trang bị ánh sáng hiện đại như trên thành phố mà được dựng một cách đơn sơ, mộc mạc. Thế nhưng, khi người lính cất tiếng hát, dường như sân khấu trở nên bừng sáng. Tiếng hát của những người lính mang theo niềm vui, niềm tự hào và tình yêu nước tha thiết. Tôi thật cảm phục biết bao trước hình ảnh những anh lính trẻ tuổi sẵn sàng rời xa gia đình để cống hiến cho đất nước. Họ chính là tấm gương vĩ đại mà chúng ta cần noi theo.
2. Bài soạn 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 5
1. Chuẩn bị
- Tác giả:
- Trần Đăng Khoa, sinh năm 1958, quê quán tại Nam Sách, Hải Dương.
- Năm 1968, khi mới 10 tuổi, ông đã có tập thơ được đăng báo.
- Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Từ góc sân nhà em (thơ, 1968); Góc sân và khoảng trời (thơ, 1968); Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1974); Chân dung và đối thoại (tiểu luận phê bình, 1998)...
- Trường Sa là quần đảo thuộc tỉnh Khánh Hòa. Cuộc sống của các chiến sĩ tại đây gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn.
2. Đọc hiểu
Câu 1. Bản tình ca của lính đảo có điểm gì nổi bật?
Giai điệu của nó ngang tàng như gió biển, với lời ca đầy ắp nhớ nhung và yêu thương.
Câu 2. Kết thúc bài thơ có điều gì gây bất ngờ?
Hình ảnh “những đá trọc đầu” gây ấn tượng mạnh và ám ảnh, phản ánh những người lính đảo không ngại khó khăn, ngày đêm bảo vệ tổ quốc.
3. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là ai? Bài thơ có thể chia thành mấy phần? Đặt tên cho từng phần.
- Nhân vật trữ tình: Những người lính đảo (xưng “chúng tôi”)
- Bài thơ có thể chia thành 2 phần:
- Phần 1: Bốn khổ đầu giới thiệu về người lính đảo.
- Phần 2: Phần còn lại là bản tình ca của người lính đảo.
Câu 2. Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn có điểm gì đặc biệt? Điều gì tạo nên sự đặc biệt này? Qua đó, hình tượng người lính đảo hiện lên như thế nào?
- Sân khấu: Được tạo từ đá san hô và vài tấm tôn.
- Diễn viên và khán giả: Những người lính đảo với ngoại hình độc đáo, tất cả đều có đầu trọc.
- Lý do tạo ra sự đặc biệt: Thiên nhiên khắc nghiệt của Trường Sa và sự lạc quan của người lính đảo.
- Hình tượng người lính đảo: Hài hước và lạc quan.
Câu 3. Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện hình tượng người lính đảo và khúc tình ca của họ trong đoạn thơ cuối.
- So sánh: Giai điệu của người lính ngang tàng như gió biển; Yêu em thủy chung hơn muối mặn.
- Nhân hóa: Vỏ ốc cất thành lời.
- Điệp ngữ: Nào hát lên.
- Ẩn dụ: Những đá trọc đầu.
=> Tác dụng: Góp phần thể hiện vẻ đẹp của người lính Trường Sa với tâm hồn lạc quan, mơ mộng, và khúc tình ca đầy cảm xúc.
Câu 4. Nêu mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo. Nhận xét về ngôn ngữ và giọng điệu của bài thơ.
- Mạch cảm hứng: Một buổi biểu diễn âm nhạc.
- Nhận xét: Ngôn ngữ giản dị, giọng điệu du dương như một bản nhạc.
Câu 5. Bài thơ viết về cuộc sống của những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Cuộc sống vật chất và tâm hồn của họ trong bài thơ gợi cho bạn suy nghĩ gì?
Cuộc sống vật chất và tâm hồn của người lính đảo trong bài thơ gợi cho tôi cảm nhận sự yêu mến tinh thần lạc quan, cảm phục sự kiên cường và ý chí quyết tâm của họ trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.
Câu 6. Tưởng tượng bạn là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận và suy nghĩ của bạn bằng một đoạn văn (khoảng 8 - 10 dòng).
Gợi ý:
Giai điệu khúc ca của những người lính đảo gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Dưới sự khắc nghiệt của Trường Sa, họ vẫn giữ tinh thần lạc quan và yêu đời. Buổi văn nghệ đặc biệt với sân khấu đá san hô, cánh gà là vài tấm tôn, và gió cát ngoài kia không làm giảm đi niềm vui của họ. Hình ảnh những người lính trọc đầu thật hài hước, tự ví mình như “sư cụ” hát tình ca. Bản nhạc vang lên lúc say đắm, lúc tự hào. Lắng nghe bản nhạc, tôi cảm thấy tự hào và cảm phục những người lính đảo Trường Sa.
3. Bài soạn 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - phiên bản 6
I. Tác giả văn bản Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Trần Đăng Khoa (sinh năm 1958)
- Quê quán: Hải Dương
- Phong cách nghệ thuật: Giản dị, gần gũi, giàu chất nhạc,
- Tác phẩm chính: Góc sân và khoảng trời, từ góc sân nhà em, khúc hát người anh hùng,...
II. Tìm hiểu tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Thể loại: Thơ tự do
- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ sáng tác vào năm 1982 trong một lần đi thăm những người chiến sĩ nơi đảo xa của nhà thơ Trần Đăng Khoa.
- Bài thơ được trích từ tập “Tuyển thơ” của nhà xuất bản Văn học
- Phương thức biểu đạt : Biểu cảm
- Bố cục:
- Đoạn 1,2,3: Khâu chuẩn bị biểu diễn của những người lính đảo
- Đoạn 4,5,6: Buổi biểu diễn của những người lính đảo
- Đoạn 7,8,9,10: Buổi biểu diễn đến cao trào
- Tóm tắt:
Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sân khấu xếp bằng đá san hô, cánh gà chôn bằng mấy tấm tôn, ca sĩ toàn là những anh chàng đầu trọc (họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước ngọt vệ sinh)... nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời ca tiếng hát, những tiếng hát ngang tàng, toàn nhớ với thương. Dù chưa biết "người thương" ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết "bóng dáng nào sẽ đến" với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
- Giá trị nội dung:
- Nêu hiện thực cuộc sống khốn khổ, khó khăn của những người lính nơi đảo xa
- Ca ngợi tinh thần lạc quan, yêu tổ quốc, vượt lên trên khó khăn của những mình lính đảo
- Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật so sánh, nhân hóa sinh động, linh hoạt
- Ngôn ngữ thơ mềm mại, uyển chuyển
- Hình ảnh thơ mới mẻ, sáng tạo
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Khâu chuẩn bị biểu diễn của những người lính đảo
- Không gian sân khấu thiếu thốn, tạm bợ
- Đá san hô làm sân khấu
- Vài tấm tôn làm cánh gà
=> Không gian biểu diễn chỉ cần có sân khấu và cánh gà
- Hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt
- Gió rát mặt, đảo liên tục thay đổi hình dáng => Địa hình nơi đảo xa khó khăn, hiểm trở
- Hình ảnh so sánh “sỏi cát bay - lũ chim hoang” => thể hiện số lượng sỏi cát bay mịt mù trong gió trời
- Cả người hát lẫn người xem toàn là lính trọc đầu => Đặc điểm của những người lính trên đảo
- Buổi biểu diễn của những người lính đảo
- Tiết mục biểu diễn có sự góp sức của cả thiên nhiên
- Mây nước đã mở màn là biện pháp nhân hóa => Khúc ca có sự góp mặt của mây và nước
- Giai điệu của những người lính đảo phóng khoáng, tự do nhưng tràn đầy tình yêu
- Biện pháp so sánh: Giai điệu ngang tàng như gió biển => Giọng ca mát lành, phóng khoáng tự do
- Lời ca chỉ toàn tình yêu gửi đến nơi hậu phương
=> Tâm hồn lãng mạn của những người lính đảo
- Buổi biểu diễn đến cao trào
- Lời hát nhắc lại những kỉ niệm nơi hậu phương
- Kỉ niệm đi dạo dưới đêm trăng
- Những bức thư tình chưa biết gửi cho ai
=> Nỗi nhớ nhung của những người lính đảo nơi chiến tuyến
- Lời hát là lời khẳng định lòng chung thủy nơi biển đảo
- Đứng vững giữa muôn trùng sóng vì tổ quốc yêu thương
=> Dù trăm bề khốn khổ nhưng những người lính không quên nhiệm vụ của mình, rắn rỏi, ngang tàng
CHUẨN BỊ
Câu 1: Nhân vật trữ tình là ai và bộc lộ cảm xúc về điều gì?
Trả lời:
Những thông tin về nhà thơ Trần Đăng Khoa: được biết đến là cây bút nổi bật trong giới thi ca Việt Nam, ông là nhà thơ có nét riêng xuất sắc trong số những nhà thơ đương đại trước năm 1975. Ông luôn luôn có cái nhìn bao quát về cuộc sống, các chất liệu được dệt trong từng tác phẩm đa phần là sự vật quen thuộc xung quanh.
Xuất xứ của bài Lính đảo hát tình ca trên đảo: được ông viết trong những năm 80 của thế kỉ trước, khi là lính hải quân cùng đồng đội ở ngoài Trường Sa sóng nước. Những ảnh hình, chi tiết, nhân vật trong bài thơ chính là một phần hiện thực cuộc sống của người lính đảo.
Câu 2: Em có hiểu biết gì về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên các đảo ấy?
Trả lời:
Quần đảo Trường Sa là một trong hai quần đảo san hô của Việt Nam nằm ở giữa biển Đông. Trong nhiều thế kỷ trước đây quần đảo Trường Sa thường được gọi dưới tên chung với quần đảo Trường Sa là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn lý Trường Sa v.v...
Cuộc sống của những người chiến sĩ ở huyện đảo Trường Sa gắn liền với biển đảo, nơi đầu sóng ngọn gió giữa trùng khơi, góp phần giữ gìn sự yên bình cho Tổ quốc.
ĐỌC HIỂU
Câu 1: Khổ 1, 2: Chú ý từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng và sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo.
Trả lời:
Từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng: Em - chúng anh, ta.
Sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo: đá san hô kê lên thành sân khấu, vài tấm tôn chôn thành cánh gà, phông màn là gió Trường Sa.
Câu 2: Khổ 3,4: Chú ý chi tiết những người lính đảo tự họa về ngoại hình của họ.
Trả lời:
Chi tiết những người lính đảo tự họa về ngoại hình của họ: lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau, gọi đùa nhau là sư cụ, là bà con xa với bụt ốc.
Câu 3: Bản tình ca của lính đảo có gì đặc biệt?
Trả lời:
Bản tình ca của lính đảo đặc biệt ở chỗ những giai điệu đầy ngang tàng, được ví như gió biển nơi đây, lời ca thì chứa đựng những nỗi nhớ với thương.
Câu 4: Chú ý đến biện pháp điệp trong các khổ thơ 8,9.
Trả lời:
Biện pháp điệp trong các khổ thơ 8,9: nào hát lên...
Câu 5: Kết thúc bài thơ có điều gì bất ngờ?
Trả lời:
Thông tin về thời gian sáng tác: Bài thơ là sự tổng hợp của những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949) và Đất nước (1955).
B. Bài tập và hướng dẫn giải
Câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là ai? Có thể chia bài thơ làm mấy phần? Hãy đặt tên cho mỗi phần đó?
=> Xem hướng dẫn giải
Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là những người lính trên đảo.
Bố cục bài thơ gồm 2 phần:
- Phần 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo.
- Phần 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.
Câu 2: Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn có gì đặc biệt? Đâu là lí do tạo ra sự đặc biệt này? Qua đó, em thấy hình tượng người lính đảo hiện lên như thế nào?
=> Xem hướng dẫn giải
- Sân khấu của buổi biểu diễn: đơn sơ, là không gian của biển cả, có đá san hô, vài tấm tôn. Diên viên, khán giả của buổi biểu diễn: những người lính đảo.
- Lí do tạo ra sự đặc biệt này: khung cảnh biển đảo, sóng to giữ dội, những người lính đảo vẫn giữ được tinh thần lạc quan, tươi trẻ nơi Trường Sa khắc nghiệt cùng tinh thần yêu nước, hướng về tổ quốc của họ.
- Qua đó, em thấy hình tượng người lính đảo hiện lên: cuộc sống khó khăn, gian khổ; tâm hồn giàu cảm xúc, lạc quan yêu đời; vẻ đẹp rắn rỏi, ngang tàng
Câu 3: Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo và khúc tình ca của họ trong sau khổ thơ cuối.
=> Xem hướng dẫn giải
Một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo và khúc tình ca của họ trong sau khổ thơ cuối:
- Biện pháp so sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn.
- Biện pháp nhân hóa: Vỏ ốc cất thành lời.
- Điệp cấu trúc: Nào hát lên.
=> Tác dụng: thể hiện được hình tượng của người lính đảo nơi Trường Sa.
Câu 4: Hãy chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo. Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ.
=> Xem hướng dẫn giải
Mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo theo mạch của một buổi diễn về âm nhạc trên biển đảo, bắt đầu từ những khâu chuẩn bị sân khâu -> lúc trình diễn.
- Về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ: ngôn ngữ trong bài được sử dụng gần gũi, thân thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ nhưng vẫn đầy sự độc đáo, thú vị. Kết hợp với giọng điệu du dương, lúc thăng lúc trầm.
Câu 5: Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Cuộc sống vật chất và tâm hồn của người lính đảo trong bài thơ gợi cho em suy nghĩ gì?
=> Xem hướng dẫn giải
Cuộc sống vật chất và tâm hồn của người lính đảo trong bài thơ gợi cho em suy nghĩ về một cuộc sống trên đảo Trường Sa đầy gian khổ, khắc nghiệt: gió rát mặt, đảo thay đổi hình dạng, sỏi cát bay như lũ chim hoang. Ở nơi biển đảo hẻo lánh ấy, những người lính hải quân vẫn hiên ngang và cất lên bài hát của tuổi trẻ. Không những có phẩm chất kiên cường mà ta còn thấy được tinh thần tươi trẻ và yêu đời của những người lính ấy. Ngoài ra, ta thấy được họ là những người lính khát khao cống hiến cho tổ quốc. Tình yêu của họ được gửi gắm vào lời hát và tiếng lòng của trái tim "Nào hát lên". Tình yêu ấy là động lực để họ "đứng vững" trước những khó khăn và họ còn muốn hát lên cho trời đất, mây nước biết.
Câu 6: Tưởng tượng em là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ,..của em khi đó bằng một đoạn văn (khoảng 8 - 10 dòng).
=> Xem hướng dẫn giải
Giai điệu về những ca khúc của các chiễn sĩ lính đảo ở Trường Sa cứ ngân nga mãi trong đầu em. Giữa khung cảnh gió biển lồng lộng, cùng với lớp sỏi cát bay như lũ chim hoang, một sân khấu ca hát được dựng lên giữa những tảng đá san hô và vài tấm tôn làm cánh gà. Các ca sĩ nơi đây nổi tiếng với những đầu "trọc lốc" cùng với biệt danh siêu ngộ "sư cụ". Có lẽ vậy, khi mà họ cất tiếng hát ngang tàng của mình lên giữa những khó khăn, ác liệt nơi đây, hình ảnh người lính lại càng được tô đậm thêm nét duyên dáng. Những lời ca tiếng hát cứ thế được vang lên, lúc say đắm, lúc lại ngân vang những nốt cao chót vót đầy tự hào, khiến cho không chỉ em mà những khán giả lắng nghe đều cảm thấy thổn thức. Nhờ những lời bài trong bài hát được thể hiện bởi những ca sĩ "sư cụ" nơi đây, em càng cảm thấy hình tượng người lính giữa đất trời bao la một lần nữa hiện lên sự thiêng liêng, đó là những trách nhiệm lớn lao, như vùng trời biển cả nơi đây, một sự thiêng liêng không gì sánh bằng.
4. Bài soạn 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 1
Nội dung chính
Bài thơ khắc họa hiện thực về cuộc sống khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của những người lính trên quần đảo Trường Sa. Đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lãng mạn hào hoa của những người lính trẻ.
Chuẩn bị
Câu 1 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Tìm hiểu thông tin từ các nguồn khác nhau về nhà thơ Trần Đăng Khoa và xuất xứ của bài Lính đảo hát tình ca trên đảo. Lựa chọn và ghi chép lại một số thông tin cần thiết giúp đọc, hiểu bài thơ; chú ý năm ra đời của bài thơ ( 1982)
Phương pháp giải:
- Tìm tại liệu về nhà thơ Trần Đăng Khoa và bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo.
- Tìm câu trả lời cho câu hỏi năm 1982 có gì đặc biệt
- Rút ra những gì cần thiết nhất trong lượng thông tin đã tìm hiểu.
Lời giải chi tiết:
a) Nhà thơ Trần Đăng Khoa:
- Trần Ðăng Khoa, sinh ngày 26-4-1958 tại thôn Ðiền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, Hải Dương. Hiện ở Hà Nội.
- Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1977).
- Ông tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du, tốt nghiệp Học viện Văn học Thế giới mang tên M. Gorki (CHLB Nga), từng là lính Hải quân, học viên trường Sĩ quan Lục quân.
- Hiện là biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội.
- Ông nổi tiếng là “thần đồng” thơ từ khi mới 7, 8 tuổi. Tập thơ Từ góc sân nhà em in ở NXB Kim Ðồng lúc vừa tròn 10 tuổi. Ngoài thơ ông còn viết phê bình văn học.
b) Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo:
Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn về vật chất, sân khấu xếp bằng đá san hô, cánh gà chôn bằng mấy tấm tôn, ca sĩ toàn là những anh chàng đầu trọc (họ phải cạo trọc đầu để tiết kiệm nước ngọt vệ sinh)... nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ cất cao lời ca tiếng hát, những tiếng hát ngang tàng, toàn nhớ với thương. Dù chưa biết "người thương" ở phương nào, họ vẫn khát khao và mộng tưởng, họ khẳng định tình yêu thủy chung như muối mặn của mình dẫu chưa hề biết "bóng dáng nào sẽ đến" với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
Câu 2 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10, tập 1)
Đề bài: Em có hiểu biết gì về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên các đảo ấy?
Phương pháp giải:
- Tìm hiểu về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên đảo qua các trang mạng xã hội, phương tiện truyền thông.
- Rút ra hiểu biết ngắn gọn, dễ nhớ của bản thân về vấn đề.
Lời giải chi tiết:
Những hiểu biết của bản thân về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên các đảo:
- Về quần đảo Trường Sa: Quần đảo Trường Sa là một trong hai quần đảo san hô của Việt Nam nằm ở giữa biển Đông. Trong nhiều thế kỷ trước đây quần đảo Trường Sa thường được gọi dưới tên chung với quần đảo Trường Sa là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Đại Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn lý Trường Sa... Trên các bản đồ đầu tiên của các nhà hàng hải phương Tây, quần đảo Hoàng Sa cùng Trường Sa thường được vẽ thành một dải liền nhau hình lá cờ đuôi nheo nằm dọc bờ biển nước ta từ khoảng ngang Đà Nẵng tới cuối đồng bằng Nam bộ. Đầu thế kỷ 20, nhờ sự phát triển của ngành đo đạc bản đồ biển, người ta mới tách hai quần đảo riêng biệt mang tên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Hiện nay, trong các bản đồ nước ngoài, quần đảo Trường Sa thường gọi là quần đảo Spratly.
- Về cuộc sống của những người lính trên đảo: Điều kiện sống của những người làm nhiệm vụ ở Trường Sa còn có quá nhiều thiếu thốn, gian khổ, đến mức khắc nghiệt. Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ ở đây còn nhiều khó khăn: thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh, thiếu văn công và các hoạt động nghệ thuật. Nhưng, ở nơi đầu sóng ngọn gió, hàng ngày, thậm chí hàng giờ, những người lính canh biển luôn trong tư thế sẵn sàng. Không có sự yếu lòng trước những thử thách của cuộc sống.
Trong khi đọc
Câu 1 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Khổ 1, 2: Chú ý từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng và sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ khổ 1, 2
- Liệt kê những từ ngữ xưng hô, sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo.
Lời giải chi tiết:
Từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng trong 2 khổ đầu bài thơ: bọn chúng anh, hỡi các chiến hữu, ta.
Sự đặc biệt của sân khấu: đá san hô kê lên thành sân khấu; Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà => Sự thiếu thốn, khó khăn đặc biệt về vật chất nơi đây.
Câu 2 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Khổ 3, 4: Chú ý chi tiết người lính đảo tự họa về ngoại hình của họ.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ khổ 1,2
- Liệt kê những chi tiết thể hiện ngoại hình của người lính đảo.
Lời giải chi tiết:
Chi tiết thể hiện ngoại hình của người lính đảo: mấy chàng đầu trọc, lính trọc đầu, lính già lính trẻ đều trọc tếu giống những sư cụ là bà con xa với bụt ốc => Ngoại hình ấn tượng với đầu trọc lốc không tóc, càng làm nổi bật sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất nơi đây, điều kiện sống nguy hiểm.
Câu 3 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Bản tình ca của lính đảo có gì đặc biệt?
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ khổ 5,6.
- Chỉ ra điều đặc biệt ở bản tình ca của lính đảo.
Lời giải chi tiết:
Điều đặc biệt ở bản tình ca của lính đảo: Có giai điệu ngang tàn như gió biển, lời ca toàn những nhớ nhung và yêu thương. Lời hát của họ rì rào trong không gian, như những tiếng vỏ ốc vang vọng ngoài biển khơi. Lời hát của họ giống như một câu chuyện kể dịu êm với những điều lãng mạn: đêm trang, hàng cây xanh, tay nắm tay.
Câu 4 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Chú ý đến phép điệp trong các khổ thơ 8, 9.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ khổ 8, 9.
- Chỉ ra phép điệp được sử dụng.
Lời giải chi tiết:
Phép điệp được sử dụng trong hai khổ thơ 8 và 9: Điệp lại cấu trúc thơ: Nào hát lên; Rằng chúng ta/ Rằng tình yêu. Phép điệp cấu trúc giúp hai khổ thơ liên kết gần gũi, dễ đọc dễ nhớ giống đoạn điệp khúc của một bài hát.
Câu 5 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Kết thúc bài thơ có điều gì bất ngờ?
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ câu thơ cuối cùng
- Chỉ ra điều đặc biệt ở kết bài thơ.
Lời giải chi tiết:
Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán mang ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ô, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc.
Trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là ai? Có thể chia bài thơ làm mấy phần? Hãy đặt tên cho mỗi phần đó.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ để tìm hiểu nhân vật trữ tình
- Chỉ ra bố cục của bài thơ.
Lời giải chi tiết:
- Nhân vật trữ tình trong bài thơ: Là những người lính trên đảo.
- Bố cục bài thơ: 2 phần.
+ Phần 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo.
+ Phần 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.
Câu 2 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biển diễn có gì đặc biệt? Đâu là lí do tạo ra sự đặc biệt này? Qua đó, em thấy hình tượng người lính đảo hiện lên như thế nào?
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ những khổ nói về buổi biểu diễn của những người lính đảo.
- Chỉ ra điều đặc biệt ở buổi biểu diễn của những người lính đảo. Rút ra nhận xét về hình tượng người lính đảo.
Lời giải chi tiết:
Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn: Sân khấu biểu diễn sơ sài, đơn giản. Đó là không gian của biển cả, có đá san hô và vài tấm tôn. Diễn viên, khán giả của màn biểu diễn là một – những người lính đảo. Họ tự tạo cho nhau việc làm, tạo niềm vui giải trí với nhau để vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
Lí do để tạo nên sự đặc biệt này, đó chính là: Khung cảnh biểu đảo, gió cát, sóng to dữ dội vài giờ xuất hiện nơi đây khiến người ta chỉ muốn chạy trốn. Nhưng những người lính đảo lại lạc quan đương đầu với nó, tự tạo niềm vui cho mình.
Hình tượng người lính đảo hiện lên: Là những con người không đẹp về ngoại hình nhưng nội tâm của họ lại phong phú, tươi đẹp. Tâm hồn họ tràn đầy sự lạc quan, niềm vui, tinh thần bất khuất.
Câu 3 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo trong năm khổ thơ cuối.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chú ý đọc kĩ 5 khổ thơ cuối bài.
- Chỉ ra biện pháp nghệ thuật và phân tích tác dụng của chúng.
Lời giải chi tiết:
Một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo trong năm khổ thơ cuối:
- Biện pháp so sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn
- Biện pháp nhân hóa: Vỏ ốc cất thành lời
- Điệp cấu trúc: Nào hát lên/ Rằng...
=> Thể hiện hình tượng người lính đảo: Họ là những con người lạc quan và đầy mơ mộng với cuộc sống.
Câu 4 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Hãy chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
- Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ
Lời giải chi tiết:
Mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ: Bài thơ được viết theo mạch cảm hứng của một buổi trình diễn âm nhạc, từ khâu chuẩn bị cho đến lúc trình diễn và lời ca được cất lên cao trào.
Nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ: Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ gần gũi, giản dị, vô cùng dễ hiểu nhưng cũng không kém phần độc đáo. Giọng điệu bài thơ lúc thì du dương trầm bổng, lúc lại rộn rã vui tươi đầy tự hào.
Câu 5 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Em có suy nghĩ gì về cuộc sống vật chất và tâm hồn của những người lính đảo.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Nêu cảm nhận của bản thân về cuộc sống vật chất và tâm hồn những người lính đảo.
Lời giải chi tiết:
Suy nghĩ của bản thân về cuộc sống vật chất và tâm hồn của những người lính đảo: Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghi với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hóa thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: khát khao một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thủy thiết tha. Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kỳ lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”.
Câu 6 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10, tập một)
Đề bài: Tưởng tượng em là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ của em khi đó bằng một đoạn văn (khoảng 6 – 8 dòng)
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
- Tưởng tượng và chia sẻ cảm nhận của bản thân.
Lời giải chi tiết:
Lời ca của những người lính đảo xa cất lên sao mà mê đắm! Giữa mây trời lồng lộng, giữa gió và cát mang theo hơi mặn của biển khơi, giữa những tảng đá san hô, một sân khấu nhỏ được dựng lên. Đó là sân khấu của những ca sĩ vô cùng đặc biệt – mệnh danh là những ông sư của biển cả. Họ cất lên tiếng hát giữa những khó khăn, ác liệt nơi đây. Điệu hát của họ, khi thì dịu dàng say đắm, lúc lại tự hào, hào hùng cất lên, khiến người nghe không khỏi thổn thức. Bài hát của họ lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thủy chung, khẳng định chủ quyền đất nước với biết bao khát vọng bình thường mà tạo hóa ban cho. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được.
5. Đề cương bài soạn 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - phiên bản 2
I. Giới thiệu tác giả Trần Đăng Khoa
Tiểu sử
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Dương, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Kim Ngưu, cầm tinh con (giáp) chó (Mậu Tuất 1958). Trần Đăng Khoa xếp hạng nổi tiếng thứ 48143 trên thế giới và thứ 226 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là "Thần đồng thơ trẻ". Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sơm, năm 8 tuổi ông đã có một số sáng tác được in trên báo. Năm 10 tuổi, ông đã cho xuất bản tập thơ đầu tiên với nhan đề "Từ góc sân nhà em "(1968). Cũng trong năm 1968, ông đã cho ra mắt tập thơ thứ hai là "Góc sân và khoảng trời" do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. Trong đó, bài thơ "Hạt gạo làng ta" sáng tác năm 1968, là bài thơ phổ biến nhất của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Bài Thơ này đã được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc năm 1971, bài hát được rất nhiều người yêu thích, nhất là lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Tác phẩm
- Từ góc sân nhà em, 1968.
- Góc sân và khoảng trời, tập thơ, 1968, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên toàn thế giới.
- Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974.
- Bên cửa sổ máy bay, tập thơ, 1986.
- Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, tái bản nhiều lần.
- Bài "Thơ tình người lính biển" đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc.
- Đảo chìm, tập truyện - ký, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần.
Giải thưởng
- Giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong các năm 1968, 1969, 19711
- Giải nhất báo Văn nghệ năm 1982
- Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
II. Khái quát tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo được nhà thơ Trần Đăng Khoa viết năm 1982, khi là anh lính hải quân cùng đồng đội ở ngoài Trường Sa sóng nước.
2. Bố cục
- Bố cục bài thơ: 2 phần.
+ Phần 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo.
+ Phần 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ khắc họa hiện thực về cuộc sống khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ thứ của những người lính trên quần đảo Trường Sa.
- Đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lãng mạn hào hoa của những người lính trẻ, dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn vui tươi và không ngừng hi vọng, mong chờ vào một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thủy thiết tha.
- Cho thấy tình cảm yêu mến, trân trọng và ngợi ca của tác giả đối với những người lính trẻ.
4. Giá trị nghệ thuật
- Giọng điệu bài thơ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ vẫn bồi hồi bỏng cháy.
- Âm hưởng trẻ trung, lạc quan, yêu đời, tươi vui.
- Ngôn từ mộc mạc, giản dị.
Chuẩn bị
Hiển thị nội dung
Yêu cầu (trang 73 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):
- Tìm hiểu thông tin từ các nguồn khác nhau về nhà thơ Trần Đăng Khoa và xuất xứ của bài Lính đảo hát tình ca trên đảo. Lựa chọn và ghi chép lại một số thông tin cần thiết giúp đọc hiểu bài thơ; chú ý năm ra đời của bài thơ (1982).
- Đọc trước bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo.
- Em có hiểu biết gì về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên các đảo ấy?
Trả lời:
- Trần Đăng Khoa sinh vào tháng 4/1958, quê tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Đăng Khoa là nhà thơ, nhà báo và biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, bên cạnh đó ông còn là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam. Ông đã từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, là Giám đốc hệ phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam, hiện nay ông đang giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam.
- Bên cạnh những bài thơ viết cho thiếu nhi, Trần Đăng Khoa còn có không ít thơ viết về biển đảo và người lính: Thư tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài ..., Lính đảo hát tình ca trên đảo là một trong số đó. Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX.
- Quần đảo Trường Sa là một tập hợp các thực thể địa lý được bao quanh bởi những vùng ngư nghiệp trù phú đồng thời sở hữu trữ lượng dầu mỏ, khí đốt lớn thuộc biển Đông. Trên đó có những người chiến sĩ hải quân canh trời giữ đảo, cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ, thiếu thốn về vật chất và phải xa cách gia đình.
Đọc hiểu
* Nội dung chính:
- Văn bản “Lính đảo hát tình ca trên đảo” nói về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy cuộc sống của họ còn thiếu thốn nhưng tâm hồn của họ thì vô cùng lạc quan, yêu đời. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước thì luôn chan chứa trong tim.
* Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 73 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Khổ 1, 2: Chú ý từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng và sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo.
Trả lời:
- Cách xưng hô thân mật: gọi em – xưng anh
- Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Sân khấu dựng lên vô cùng đặt biệt:
+ Giữa trời biển bao la, đá san hô kê thành sân khấu
+ Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà
→ Sự thiếu thốn, khó khăn đặc biệt về vật chất nơi đây.
Câu 2 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Khổ 3, 4: Chú ý chi tiết người lính đảo tự họa về ngoại hình của họ.
Trả lời:
- Họ gọi đùa nhau mấy chàng đầu trọc, lính trọc đầu, lính già lính trẻ đều trọc tếu giống những sư cụ là bà con xa với bụt ốc
→ Chính cuộc sống gian nan, cùng với ngoại hình ấn tượng với đầu trọc lốc không tóc của những người lính đảo, càng làm nổi bật sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất nơi đây, điều kiện sống nguy hiểm.
Câu 3 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Bản tình ca của lính đảo có gì đặc biệt?
Trả lời:
- Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kỳ lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động.
Câu 4 (trang 74 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chú ý đến phép điệp trong các khổ thơ 8, 9.
Trả lời:
- Điệp ngữ: “Nào hát lên cho…”
→ Nhấn mạnh vào tiếng hát của những người lính. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng
Câu 5 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Kết thúc bài thơ có điều gì bất ngờ?
Trả lời:
- Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thủy triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay: “Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót/ Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau/ Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế/ Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”.
* Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là ai? Có thể chia bài thơ làm mấy phần? Hãy đặt tên cho mỗi phần đó.
Trả lời:
- Nhân vật trữ tính: Những người lính đảo
- Bố cục bài thơ:
+ Phần 1: Từ đầu đến “đều trọc tếu như nhau’: Sân khấu của những người lính đảo
+ Phần 2: Tiếp theo đến “chưa biết gửi cho ai”: Hình ảnh người lính đảo qua những lời hát.
+ Phần 3: Còn lại: Tâm hồn của người lính đảo gửi gắm qua câu hát.
Câu 2 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn có gì đặc biệt? Đâu là lí do tạo ra sự đặc biệt này? Qua đó, em thấy hình tượng người lính đảo hiện lên như thế nào?
Trả lời:
- Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn vô cùng đặc biệt:
+ Sân khấu biểu diễn sơ sài, đơn giản: Không gian biển cả, có đá san hô và vài tấm tôn.
+ Diễn viên, khán giả của màn biểu diễn là một – những người lính đảo. Họ tự tạo cho nhau việc làm, tạo niềm vui giải trí với nhau để vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
- Lí do để tạo nên sự đặc biệt này đến từ khung cảnh biểu đảo, gió cát, sóng to dữ dội vài giờ xuất hiện nơi đây khiến người ta chỉ muốn chạy trốn. Nhưng những người lính đảo lại lạc quan đương đầu với nó, tự tạo niềm vui cho mình.
- Qua đó, hình tượng người lính đảo hiện lên là những con người không đẹp về ngoại hình nhưng nội tâm của họ lại phong phú, tươi đẹp. Tâm hồn họ tràn đầy sự lạc quan, niềm vui, tinh thần bất khuất.
Câu 3 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo trong sáu khổ thơ cuối.
Trả lời:
- Một số biện pháp nghệ thuật:
+ Điệp ngữ: “Nào hát lên cho…”
→ Nhấn mạnh vào tiếng hát của những người lính. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng
+ Ẩn dụ: “những đá trọc đầu”
→ Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thủy triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”
- So sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn
→ Thể hiện hình tượng người lính đảo: Họ là những con người lạc quan và đầy mơ mộng với cuộc sống.
Câu 4 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hãy chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ.
Trả lời:
- Bài thơ được viết theo mạch cảm hứng của một buổi trình diễn âm nhạc, từ khâu chuẩn bị cho đến lúc trình diễn và lời ca được cất lên cao trào.
- Ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ gần gũi, giản dị, vô cùng dễ hiểu nhưng cũng không kém phần độc đáo.
- Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa.
Câu 5 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Cuộc sống vật chất và tâm hồn của những người lính đảo trong bài thơ gợi cho em những suy nghĩ gì?
Trả lời:
- Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cấu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển. Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư… là những trạng thái cảm xúc hài hòa, gắn kết xuyên suốt bài thơ.
Câu 6 (trang 75 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):
Tưởng tượng em là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ, ... của em khi đó bằng một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng).
Trả lời:
Cùng đi với đoàn công tác của tỉnh ra thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ huyện đảo Trường Sa mới đây là Đội văn nghệ xung kích của Đoàn Ca múa nhạc Hải Đăng và một số diễn viên của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Khánh Hòa. Gọi là Đội văn nghệ xung kích bởi lực lượng chính là những diễn viên trẻ, trong đó có người đã ra Trường Sa lần thứ 2, thứ 3... Cảm nhận được sự mong đợi, tin yêu của những người lính đảo, nên hễ có điều kiện, bên hành lang đảo chìm hay dưới tán lá tra, bàng vuông... các anh chị em đều hăng say đem lời ca tiếng hát phục vụ lính đảo.
6. Bài soạn 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' (Ngữ văn 10 - SGK Cánh diều) - mẫu 3
Tác giả
Trần Đăng Khoa
Tiểu sử
- Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/04/1958, quê ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
- Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam
- Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968 khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ Hạt gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).
- Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ "Đường ta đi rộng thênh thang tám thước" thành "Đường ta rộng thênh thang ta bước" trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.
- Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10 trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về Quân chủng Hải quân, ông cũng từng chiến đấu ở Chiến trường Tây Nam Việt Nam giai đoạn 1978-1979.
- Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện văn học thế giới M. Gor-ki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội.
- Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài tiếng nói Việt Nam.
- Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa - Du lịch Vietnam Jouney), ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này.
- Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để ông chuyển sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.
- Ông nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Phó bí thư thường trực của Đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam
- Hiện nay, ông giữ chức Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội
- Ông cũng là Trưởng ban chung khảo, hội đồng giám khảo quốc gia của cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam từ 2016 đến nay, thay cho Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Trí Huân.
- Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền Phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (năm 2001)
- Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh – tác giả các tập thơ Nhà thơ và Hoa cỏ, Bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh..., từng là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một chị gái là Trần Thị Bình, hiện sống ở quê cùng với thân mẫu của nhà thơ. Ông còn có một người em gái tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Sự nghiệp văn học
- Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu "thần đồng thơ trẻ" của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã cao tuổi.
- Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa:
+ Từ góc sân nhà em (1968)
+ Góc sân và khoảng trời, tập thơ (1968) gồm 107 bài thơ, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên thế giới.
+ Đi đánh thần Hạn (trường ca 4 chương, 1970)
+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 1), tuyển tập thơ 1970
+ Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973
+ Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974
+ Trường ca Giông bão, trường ca, 1983
+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2), tuyển tập thơ, 1983
+ Bên cửa sổ máy bay, tập thơ (1986), 26 bài thơ
+ Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, đã được tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.
+ Thơ tình người lính biển, đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc
+ Đảo chìm, tập truyện-kí, 2000, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần
+ Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài
+ Đảo chìm Trường Sa, tuyển tập thơ văn, 2016
Tác phẩm
Lính đảo hát tình ca trên đảo
Xuất xứ
Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo được nhà thơ Trần Đăng Khoa viết năm 1982, khi là anh lính hải quân cùng đồng đội ở ngoài Trường Sa sóng nước.
Bố cục
2 phần.
+ Phần 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo và cuộc sống, nếp sinh hoạt lạc quan yêu đời của họ
+ Phần 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.
Giá trị nội dung
- Bài thơ khắc họa hiện thực về cuộc sống khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ thứ của những người lính trên quần đảo Trường Sa
- Đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lãng mạn hào hoa của những người lính trẻ, dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng vẫn vui tươi và không ngừng hi vọng, mong chờ vào một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thủy thiết tha
- Cho thấy tình cảm yêu mến, trân trọng và ngợi ca của tác giả đối với những người lính trẻ
Giá trị nghệ thuật
- Giọng điệu bài thơ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ vẫn bồi hồi bỏng cháy
- Âm hưởng trẻ trung, lạc quan, yêu đời, tươi vui
- Ngôn từ mộc mạc, giản dị
Câu 1 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Tìm hiểu thông tin từ các nguồn khác nhau về nhà thơ Trần Đăng Khoa và xuất xứ của bài Lính đảo hát tình ca trên đảo. Lựa chọn và ghi chép lại một số thông tin cần thiết giúp đọc, hiểu bài thơ; chú ý năm ra đời của bài thơ ( 1982)
Lời giải
Về nhà thơ Trần Đăng Khoa:
- Sinh 26-4-1958 tại thôn Ðiền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Thanh, Hải Dương. Hiện ở Hà Nội.
- Khi mới 7, 8 tuổi; ông nổi tiếng với cái tên “thần đồng”.
- 10 tuổi, xuất bản tập thơ Từ góc sân nhà em.
- Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du, Học viện Văn học Thế giới mang tên M. Gorki (CHLB Nga)
- Từng là lính Hải quân, học viên trường Sĩ quan Lục quân.
- Ngoài thơ, ông còn viết phê bình văn học.
- Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1977).
- Hiện đang là biên tập viên tạp chí Văn nghệ quân đội.
Xuất xứ bài thơ: viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Cuộc sống lúc đấy còn thiếu thốn đủ điều nhưng tâm hồn những người lính luôn lạc quan, yêu đời, cất tiếng hát bao yêu thương.
Câu 2 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Em có hiểu biết gì về quần đảo Trường Sa và cuộc sống của những người chiến sĩ trên các đảo ấy?
Lời giải
Quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa (Việt Nam), với diện tích dưới 5km2. Trước khi có cái tên là Trường Sa như hiện nay, quần đảo này xuất hiện với những cái tên như Bãi Cát Vàng, Đại Trường Sa… Quần đảo nhiều đảo san sô, cồn cát…, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với hai mùa. Cuộc sống nơi đây nhìn chung còn nhiều thiếu thốn nhưng trong họ luôn tràn ngập niềm yêu đời, sự lạc quan. Hầu hết, những người lính mang trong mình sứ mệnh giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc, khi đến đây, được cảm nhận thiên nhiên và con người, họ lại càng muốn gắn bó hơn bởi sự chân chất.
Đọc hiểu bài Lính đảo hát tình ca trên đảo
Trả lời câu hỏi giữa bài:
Câu 1 (trang 46, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Khổ 1, 2: Chú ý từ ngữ nhân vật trữ tình tự xưng và sự đặc biệt của sân khấu do lính đảo tự tạo.
Lời giải
Từ ngữ: bọn chúng anh, hỡi các chiến hữu, ta.
Sự đặc biệt: đá san hô kê lên thành sân khấu, vài tấm tôn chôn cánh gà.
Câu 2 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Khổ 3, 4: Chú ý chi tiết người lính đảo tự họa về ngoại hình của họ.
Lời giải
Chi tiết:
- Mấy chàng đầu trọc.
- Lính trọc đầu.
- Lính trẻ lính giả đều trọc tếu như nhau.
- Lúc vui gọi đùa là “sư cụ”.
Câu 3 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Bản tình ca của lính đảo có gì đặc biệt?
Lời giải
Bản tình ca có sự đặc biệt:
- Ngang tàng như gió biển.
- Lời ca toàn nhớ với thương.
- Ngỡ như vỏ ốc cất thành lời.
Lời ca tiếng hát của những chàng lính biển đảo hòa vào gió biển, hòa mình với thiên nhiên đất trời. Một bản tình ca đậm chất lãng mạn.
Câu 4 (trang 47, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Chú ý đến phép điệp trong các khổ thơ 8, 9.
Lời giải
Phép điệp cấu trúc: Nào hát lên; Rằng…
Câu 5 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Kết thúc bài thơ có điều gì bất ngờ?
Lời giải
Điều bất ngờ trong kết thúc bài thơ đấy chính là những người lính đảo trọc đầu. Họ như những hòn đá ngoài biển khơi mạnh mẽ, cứng cỏi, chịu nắng mưa để bảo vệ sự bình yên cho quê hương.
Trả lời câu hỏi cuối bài:
Câu 1 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Nhân vật trữ tình trong bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là ai? Có thể chia bài thơ làm mấy phần? Hãy đặt tên cho mỗi phần đó.
Lời giải
- Nhân vật trữ tình: những người lính trên đảo.
- Bài thơ có thể chia làm 2 phần:
+ Phần 1 (04 khổ đầu): giới thiệu về những người lính trên đảo.
+ Phần 2 (còn lại): khúc ca của những người lính trên đảo.
Câu 2 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Sân khấu, diễn viên và khán giả của buổi biển diễn có gì đặc biệt? Đâu là lí do tạo ra sự đặc biệt này? Qua đó, em thấy hình tượng người lính đảo hiện lên như thế nào?
Lời giải
Sân khấu của buổi biểu diễn sơ sài, không được chỉn chu, trang hoàng như các buổi trình diễn thường thấy. Sân khấu được những người lính đảo tạo nên bằng đá san hô kê lên, dùng tấm tôn để làm cánh gà.
Diễn viên và khán giả của buổi biểu diễn chính là những người lính trên đảo. Họ hát ca cùng nhau thưởng thức, tự tạo cho mình niềm vui.
Lí do tạo nên sự đặc biệt: buổi biểu diễn diễn ra ngoài trời, xung quanh là biển đảo, gió to, sóng lớn.
Em thấy được hình tượng người lính đảo hiện lên là những chàng lính đảo vui vẻ, yêu đời và lạc quan. Trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thiếu thốn về vật chất nhưng trong họ vẫn ánh lên niềm vui đáng nể phục.
Câu 3 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Phân tích tác dụng của một số biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng để thể hiện hình tượng người lính đảo trong năm khổ thơ cuối.
Lời giải
Để thể hiện hình tượng người lính đảo ở 5 khổ cuối, tác giả đã sử dụng một số biện pháp nghệ thuật sau:
- So sánh giai điệu của những người lính “ngang tàng như gió biển”, thể hiện sự rắn rỏi trong lời ca tiếng hát. Bên cạnh đó, những người lính trên đảo còn ví tình cảm thủy chung của mình “hơn muối mặn”.
- Nhân hóa tiếng hát của người lính như “vỏ ốc cất thành lời”. Sự nhân hóa đầy thú vị của họ. Đó là tiếng hát vang vọng.
- Điệp cấu trúc “Nào hát lên”, “Rằng…” nhằm nhấn mạnh niềm vui, sự tươi trẻ trong tâm hồn người lính.
Câu 4 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Hãy chỉ ra mạch cảm hứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Nêu nhận xét của em về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ.
Lời giải
Mạch cảm hứng theo thời gian. Mở đầu từ lúc chuẩn bị, biểu diễn và khi sắp sửa kết thúc.
Nhân xẹt về ngôn ngữ, giọng điệu bài thơ: ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu. Giọng điệu bài thơ lúc hồ hởi lúc trầm bổng. Nhìn chung, giọng điệu bài thơ mang đến sự vui tươi, nhộn nhịp.
Câu 5 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Bài thơ viết về những người lính trên quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Em có suy nghĩ gì về cuộc sống vật chất và tâm hồn của những người lính đảo.
Lời giải
Vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, đây là thời điểm đất nước còn đang giai đoạn khó khăn. Những người lính trên quần đảo Trường Sa lại càng thêm phần giai khổ. Những người lính có thể đến từ nhiều vùng miền khác nhau, họ phải tập thích nghi với cuộc sống mới. Cuộc sống thiếu thốn đủ điều. Vậy mà, đứng trước những khó khăn đầy khắc nghiệt, tâm hồn họ vẫn ánh lên niềm tin yêu, sự lạc quan, hồ hơi, luôn vui vẻ. Những người trọc đầu giống nhau, đêm về hòa lời ca vào gió biển. Thật trữ tình và lãng mạn!
Câu 6 (trang 48, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)
Đề bài: Tưởng tượng em là khán giả trong buổi biểu diễn văn nghệ của người lính đảo. Hãy chia sẻ cảm nhận, suy nghĩ của em khi đó bằng một đoạn văn (khoảng 6 – 8 dòng)
Lời giải
Ôi, tiếng hát thật tuyệt vời làm sao! Không hay như các ca sĩ mà mình thường nghe, nhưng nó có sự độc đáo. Có chăng là do buổi biểu diễn ngoài trời? Hay chăng là cái tình thốt lên lời? Giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, tiếng hát xua đi sự mệt mỏi. Những điệu nhạc vui tươi, sự cổ vũ nhiệt tình của khán giả khiến mình mê đắm. Những người lính canh giữ biển đảo Tổ quốc tưởng chừng khô khan, song khiến mình vô cùng bất ngờ. Ở họ, vẫn có chất thi ca, chất nghệ thuật trong đấy. Những người lính trên đảo – đại diện cho hình tượng người lính chung trên quê hương, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ song mang tâm hồn tươi trẻ, tràn đầy sức sống.