1. Bài soạn 'Thảo luận về một vấn đề với các quan điểm khác nhau' - mẫu 4
Đề bài số 1: Có ý kiến cho rằng không nên lạm dụng thuốc kháng sinh, trong khi đó nhiều người lại cho rằng khi bị ốm, sử dụng kháng sinh sẽ giúp khỏi bệnh nhanh hơn. Em hãy trình bày quan điểm của mình về hai ý kiến này.
1. Dàn Ý Thảo Luận Về Vấn Đề Lạm Dụng Thuốc Kháng Sinh
Mở đầu: Nêu vấn đề cần thảo luận.
Nội dung chính:
- Trình bày quan điểm cá nhân: đồng tình với việc hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh.
- Giải thích và làm rõ quan điểm:
+ Định nghĩa thuốc kháng sinh.
+ Thực trạng lạm dụng thuốc kháng sinh hiện nay.
+ Hậu quả của việc lạm dụng thuốc kháng sinh.
+ Đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng này.
Kết luận: Tóm tắt và khẳng định quan điểm.
2. Bài Nói Mẫu Về Vấn Đề Lạm Dụng Thuốc Kháng Sinh
Chào cô và các bạn, em là Khánh Huyền. Hôm nay, em xin trình bày quan điểm của mình về vấn đề 'Có ý kiến cho rằng không nên lạm dụng thuốc kháng sinh, nhưng nhiều người lại nghĩ khi ốm, dùng kháng sinh sẽ khỏi bệnh nhanh hơn'. Mời cô và các bạn lắng nghe.
Gần đây, dịch Covid-19 và các bệnh khác như đậu mùa khỉ, cúm đã gây lo lắng toàn cầu. Nhiều người chọn bổ sung thực phẩm tốt cho sức khỏe, nhưng cũng có người lại lạm dụng thuốc khi bị bệnh. Các bạn có hiểu rõ về thuốc kháng sinh không?
Quan điểm cá nhân của em là không nên lạm dụng thuốc kháng sinh khi ốm. 'Thuốc kháng sinh là những chất kháng khuẩn được sản xuất bởi các vi sinh vật như nấm và vi khuẩn, có tác dụng ức chế sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh.' Mặc dù thuốc kháng sinh có tác dụng ức chế mầm bệnh, việc lạm dụng vẫn không được khuyến khích. Dưới đây là lý do:
Trước tiên, 'lạm dụng' có nghĩa là sử dụng quá mức cho phép, và thuốc kháng sinh chỉ nên được sử dụng theo kê đơn của bác sĩ.
Nhiều người hiện nay chọn mua thuốc kháng sinh mà không đi khám bệnh, dẫn đến nhiều hậu quả như kháng thuốc, ngộ độc, và phản ứng dị ứng, đặc biệt ở trẻ em.
Vì vậy, khi có dấu hiệu bệnh, hãy đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị đúng cách. Ngoài ra, nên duy trì lối sống lành mạnh để phòng bệnh.
Bài thuyết trình của em xin kết thúc tại đây. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Đề số 2: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích 'Thị Mầu lên chùa' (trích chèo 'Quan Âm Thị Kính') là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại cho rằng Thị Mầu là người sống thực với bản thân, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
1. Dàn Ý Trình Bày Ý Kiến Về Nhân Vật Thị Mầu Trong Đoạn Trích Thị Mầu Lên Chùa
- Trình bày quan điểm cá nhân: đồng tình với ý kiến Thị Mầu là người lẳng lơ, xấu tính.
- Giải thích quan điểm:
+ Hành động và lời nói không phù hợp với nơi tôn nghiêm như chùa.
+ Hành vi không đúng mực trong xã hội phong kiến và cách nhìn nhận trong xã hội hiện đại.
Kết luận: Tóm tắt và khẳng định quan điểm.
2. Bài Nói Mẫu Trình Bày Ý Kiến Về Nhân Vật Thị Mầu Trong Đoạn Trích Thị Mầu Lên Chùa
Chào cô và các bạn, em là Gia Huy. Hôm nay, em xin trình bày ý kiến của mình về vấn đề 'Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích: 'Thị Mầu lên chùa' (trích chèo 'Quan Âm Thị Kính') là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại cho rằng Thị Mầu là người dám sống thực với bản thân, đáng thương hơn đáng trách'.
Trong khi Thị Kính là người hiền thục, Thị Mầu lại thể hiện sự lẳng lơ, phóng túng. Em đồng tình với ý kiến Thị Mầu là người lẳng lơ, xấu tính.
Sự phóng túng của Thị Mầu thể hiện qua lời nói và hành động không phù hợp tại chùa. Thị Mầu trêu ghẹo và hành động thiếu tôn trọng, đi ngược lại với quy định xã hội phong kiến.
Mặc dù trong bối cảnh xã hội hiện đại, Thị Mầu có thể được xem là người dám sống thực với bản thân, nhưng cách thể hiện của nhân vật vẫn không phù hợp và đứng đắn.
2. Bài soạn mẫu 'Thảo luận về một vấn đề với nhiều quan điểm khác nhau' - Mẫu 5
Hướng dẫn
- Xác định chủ đề thảo luận, người tham gia và thời gian thảo luận.
- Phân tích vấn đề từ nhiều góc độ và mối quan hệ khác nhau để xây dựng ý tưởng và dàn bài cho bài trình bày.
- Nghe và tôn trọng quan điểm của người khác trong cuộc thảo luận.
- Trao đổi, làm rõ và bổ sung ý kiến cá nhân.
- Duy trì thái độ hòa nhã và phù hợp trong khi trao đổi.
Thực hành
Chọn một trong hai chủ đề sau (hoặc đề xuất chủ đề của riêng bạn) và thực hiện cuộc thảo luận:
(1) Có quan điểm cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ và xấu tính. Quan điểm khác lại cho rằng Thị Mầu là người sống thực với bản thân, đáng thương hơn là đáng trách. Trình bày quan điểm của bạn về vấn đề này.
(2) Có người cho rằng không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại tin rằng: Khi bị ốm, tốt nhất là dùng kháng sinh để nhanh khỏi bệnh. Bạn hãy trình bày ý kiến của mình về quan điểm này.
Kháng sinh là nhóm thuốc chủ yếu dùng để điều trị các bệnh do vi khuẩn gây ra. Thuốc có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn trực tiếp hoặc làm chậm sự phát triển của vi khuẩn để hệ miễn dịch của cơ thể có thể xử lý nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, lạm dụng kháng sinh có thể làm cho nhiều bệnh nhân mắc bệnh nhiễm khuẩn không thể điều trị hiệu quả vì kháng sinh không còn tác dụng.
Các nhóm kháng sinh bao gồm penicillin, cephalosporin, tetracyclin, quinolon. Mỗi nhóm có nhiều loại kháng sinh khác nhau như penicillin, amoxycillin, ampicillin, cephalosporin, erythromicin, tetracylin, doxycyclin, ciprofloxacin, chloramphenicol.
Kháng sinh được sử dụng như thế nào?
Hầu hết các nhiễm khuẩn thông thường được điều trị bằng thuốc kháng sinh uống. Một số loại kháng sinh dùng cho mắt, tai được sử dụng dưới dạng dung dịch, nhỏ giọt. Đối với nhiễm khuẩn nặng, kháng sinh có thể được tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch hoặc truyền dịch nếu cần. Để đạt hiệu quả tốt, bác sĩ cần làm kháng sinh đồ để xác định loại vi khuẩn gây bệnh và chọn kháng sinh phù hợp. Trong một số trường hợp, có thể sử dụng kháng sinh phổ hẹp (narrow spectrum), trong khi nhiều trường hợp khác có thể sử dụng kháng sinh phổ rộng.
Khi sử dụng kháng sinh, cần tuân thủ đúng liều lượng và thời gian điều trị để đạt hiệu quả tốt nhất và giảm thiểu tác dụng phụ. Tác dụng phụ thường gặp bao gồm tiêu chảy do kháng sinh có thể làm mất cân bằng vi khuẩn bình thường và các loại nấm (như Candida Albicans).
Dị ứng penicillin có thể gây mẩn đỏ, và trong trường hợp phản ứng phản vệ (sốc phản vệ), có thể đe dọa tính mạng, vì vậy cần thận trọng và tránh loại thuốc gây dị ứng.
Lạm dụng kháng sinh có hại như thế nào?
Sử dụng kháng sinh không đúng cách có thể gây hại:
Gây lãng phí: Các bệnh do virus không thể chữa bằng kháng sinh nhưng vẫn được sử dụng kháng sinh.
Gây khó khăn trong chẩn đoán: Kháng sinh có thể làm che mờ triệu chứng của viêm ruột thừa cấp, gây khó khăn trong việc chẩn đoán.
Khi có tác dụng chữa bệnh nhưng dễ gây phản ứng dị ứng, mẫn cảm thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Sử dụng kháng sinh với liều cao có thể gây suy tủy, đặc biệt với chloramphenicol.
Một số kháng sinh như streptomycine, kanamycine nếu dùng liều cao có thể gây điếc và suy thận.
Lạm dụng kháng sinh làm vi khuẩn kháng thuốc ngày càng nhiều, làm cho việc điều trị bệnh trở nên khó khăn hơn. Hiện nay, các tụ cầu trùng kháng thuốc cephalosporin ngày càng gia tăng và một số vi khuẩn khác cũng kháng thuốc, làm giảm hiệu quả điều trị của kháng sinh.
Các nguyên nhân dẫn đến lạm dụng kháng sinh
Do bệnh nhân: Nhiều người nghĩ rằng kháng sinh có thể chữa bách bệnh, nên khi bệnh là tự ý dùng kháng sinh, vì việc mua kháng sinh rất dễ dàng. Xu hướng tự mua thuốc và tự điều trị ngày càng phổ biến, dẫn đến lạm dụng kháng sinh.
Do bác sĩ: Trong thực tế, việc sử dụng kháng sinh rất phổ biến. Ví dụ, khi chưa xác định được loại vi khuẩn nào và kháng sinh nào là phù hợp, một số bác sĩ vẫn dễ dàng kê đơn kháng sinh theo yêu cầu của bệnh nhân. Điều này cũng góp phần vào việc lạm dụng kháng sinh.
Việc sử dụng và bán thuốc ở nước ta chưa được quản lý chặt chẽ theo quy định, dẫn đến tình trạng lạm dụng thuốc trong điều trị. Từ năm 2001, Tổ chức Y tế Thế giới đã ban hành “Kế hoạch toàn cầu để kiểm soát sự đề kháng kháng sinh” và cấm lạm dụng kháng sinh. Bộ Y tế cũng đã có các quy định cụ thể về việc sử dụng kháng sinh và cấm lạm dụng kháng sinh.
Để giảm lạm dụng kháng sinh, các bác sĩ cần có trách nhiệm và nâng cao vai trò của mình trong việc ngăn chặn lạm dụng kháng sinh để có hiệu quả điều trị tốt nhất.
3. Bài viết mẫu số 6 về 'Thảo luận một vấn đề với nhiều quan điểm khác nhau'
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
- Vấn đề 1
- Vấn đề 2
Lựa chọn một trong hai vấn đề sau (hoặc tự đề xuất vấn đề) và tiến hành cuộc thảo luận
Vấn đề 1: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Đề bài: Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hay quan niệm trên.
Vấn đề 1
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Phương pháp giải:
- Xác định đối tượng, nội dung, yêu cầu của cuộc thảo luận.
- Xem lại văn bản Thị Mầu lên chùa và tìm hiểu thêm các tài liệu tham khảo về vấn đề thảo luận.
- Đánh giá khách quan nguyên nhân những hành động của nhân vật Thị Màu trong bối cảnh phong kiến và hiện đại.
Lời giải chi tiết:
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Vấn đề 2
Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hay quan niệm trên.
Phương pháp giải:
- Xác định đối tượng, nội dung, yêu cầu
- Tìm hiểu thêm các tài liệu tham khảo về vấn đề thảo luận.
Lời giải chi tiết:
Thuốc kháng sinh là cái tên không còn quá xa lạ với tất cả mọi người. Loại thuốc quen mặt này xuất hiện trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp và có thể mua ở hầu hết mọi nhà thuốc. Tuy nhiên nhiều người lại lạm dụng chúng quá mức và còn nêu ra quan niệm: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh.
Vậy có thực là thuốc kháng sinh sẽ giúp nhanh khỏi bệnh hay không? Mặc dù kháng sinh có tác dụng tích cực là điều trị bệnh, diệt vi khuẩn gây bệnh, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở tiết ra các độc chất gây hại cho cơ thể, nhưng nó còn có tác dụng phụ như phản ứng phụ hoặc dị ứng. Mặt khác, việc lạm dụng thuốc kháng sinh khiến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng thuốc đang ngày càng phổ biến như: tụ cầu kháng methicilline; phế cầu kháng penicilline; khuẩn salmonela đa kháng với choramphenicol, ampicillin, cotrimoxazole... Sự xuất hiện của các vi khuẩn này gây nguy hiểm nghiêm trọng đến tính mạng của con người. Thực trạng dễ thấy hiện nay là nhiều người khi bị ốm, thậm chí bị cảm cúm do virus nhưng do ngại đến cơ sở y tế khám nên tự tìm mua kháng sinh để uống với mong muốn nhanh khỏi bệnh. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc kháng sinh chưa hợp lý, lạm dụng thuốc… sẽ tạo điều kiện cho các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, khiến cho thuốc kém hiệu quả và mất dần tác dụng. Đặc biệt là các bậc phụ huynh thấy trẻ bị ho, sốt, viêm họng nhẹ, mặc dù chưa cần dùng đến thuốc kháng sinh cũng tự ý kê đơn kháng sinh hoặc mua thuốc theo đơn cũ cho trẻ uống. Những bệnh nhẹ này của trẻ thay vì sử dụng thuốc kháng sinh có thể dùng những biện pháp vừa an toàn vừa hiệu quả như rửa mũi, súc họng bằng nước muối, sử dụng thuốc ho... Nếu bệnh tình tái phát hoặc không thuyên giảm thì đưa trẻ đến các trung tâm y tế điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Việc tự ý sử dụng thuốc kháng sinh khiến cho thuốc không những không trị được bệnh, mà còn làm cơ thể sản sinh ra các vi khuẩn kháng thuốc gây nguy hiểm cho người bệnh. Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng: Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh. Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,… Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Đối với người cao tuổi sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời. Trẻ nhỏ cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh. Để hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh cần nâng cao nhận thức ngay từ mỗi cá nhân bằng cách bắt đầu bằng thói quen tuân thủ đơn thuốc của bác sĩ, không tự ý mua và dùng kháng sinh khi chưa có ý kiến của bác sĩ điều trị. Khi được bác sĩ kê đơn có thuốc kháng sinh, luôn uống đủ liều lượng đã được kê, không bỏ dở nửa chừng, ngay cả khi cảm thấy bệnh đã đỡ nhiều. Không dùng thuốc kháng sinh thừa từ lần sử dụng trước; không chia sẻ thuốc kháng sinh trong toa thuốc đang dùng cho người khác uống, ngay cả khi đó là người thân của mình.Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng để phòng ngừa lây nhiễm vi khuẩn, góp phần giảm bớt nguy cơ phải dùng đến thuốc kháng sinh. Mỗi cán bộ y tế cần sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, chỉ định sử dụng kháng sinh đúng các hướng dẫn chuyên môn và kê đơn khi cần thiết. Đối với các cơ quan chức năng, trực tiếp là ngành y tế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kê đơn và bán thuốc theo đơn tại các bệnh viện, nhà thuốc, tăng cường kiểm soát, quản lý sử dụng kháng sinh. Đồng thời, có chế tài xử lý thích đáng đối với các hành vi vi phạm.
Có thể thấy không phải cứ ốm mà mình sử dụng thuốc kháng sinh, thay vào việc tự tiện sử dụng hay lạm dụng nó thì chúng ta phải đến bác sĩ để khám bệnh và uống theo đúng liều lượng được kê đơn.
4. Đề soạn 'Thảo luận về một chủ đề với các quan điểm khác nhau' - Mẫu 1
1. Định hướng
a) Khi đối mặt với một vấn đề trong cuộc sống, mỗi người có thể có những quan điểm khác nhau do vấn đề phức tạp hoặc vì góc nhìn và cách suy nghĩ không giống nhau. Thảo luận về một vấn đề có thể tạo ra những ý kiến khác nhau, điều này không chỉ là chia sẻ và trình bày quan điểm cá nhân mà còn là lắng nghe và trao đổi để có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về vấn đề đó.
b) Để tham gia thảo luận về một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau, các bạn cần:
- Xác định vấn đề thảo luận, người tham gia và thời gian thảo luận.
- Xem xét vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau để tìm ý và lập dàn ý cho bài trình bày.
- Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác về vấn đề thảo luận.
- Trao đổi và bổ sung, làm rõ thêm ý kiến của bản thân.
- Giữ thái độ phù hợp, hòa nhã và lịch sự trong khi thảo luận và trao đổi.
2. Thực hành
Bài tập (trang 85 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chọn một trong hai vấn đề sau (hoặc tự đề xuất vấn đề) và thực hiện cuộc thảo luận:
- Vấn đề 1: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” ('Quan Âm Thị Kính”) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại cho rằng Thị Mầu là người dám sống thật với bản thân, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của bạn về vấn đề này.
- Vấn đề 2: Có người cho rằng không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Bạn hãy trình bày ý kiến của mình về hai quan niệm trên.
a) Chuẩn bị (ví dụ với vấn đề 1):
- Xác định đối tượng, nội dung và yêu cầu của cuộc thảo luận.
- Xem lại văn bản Thị Mầu lên chùa và tìm hiểu thêm tài liệu tham khảo về vấn đề thảo luận.
b) Tìm ý và lập dàn ý:
- Tìm ý cho bài thảo luận bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi:
+ Quan điểm của bạn về hai nhận xét trên như thế nào (tán thành ý kiến nào hay cả hai; hoặc đồng ý với những điểm hợp lý của mỗi ý kiến mà bạn cho là đúng,...)?
→ Bạn đồng ý với cả hai ý kiến nhưng nghiêng nhiều về ý kiến thứ hai. Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, vượt qua các lễ giáo phong kiến, và thể hiện rõ sự khao khát tự do yêu đương và bản năng tính dục, điều mà người phụ nữ xưa không dám làm.
+ Vì sao bạn có ý kiến như vậy (tại sao bạn tán thành hoặc không tán thành ý kiến đánh giá Thị Mầu lẳng lơ, xấu tính và tại sao đồng ý hoặc không đồng ý với nhận xét Thị Mầu dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách?)?
→ Thị Mầu dám yêu, dám thể hiện và chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị xuất phát từ trái tim, không toan tính vụ lợi. Khi bị từ chối, tình yêu càng mãnh liệt. Thị Mầu đã vượt qua quan niệm nam nữ không được tiếp xúc để theo đuổi tình yêu với Kính Tâm. Xét về tình yêu, Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại, dám yêu và vượt qua lễ giáo phong kiến để tìm kiếm tình yêu của mình.
+ Bạn sẽ sử dụng những dẫn chứng nào trong đoạn trích để làm rõ và thuyết phục mọi người về ý kiến của mình?
→ Thúy Kiều, mặc dù táo bạo, vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến và chỉ dám tiếc nuối vì không thể yêu như mình mong muốn. Thị Mầu, mặc dù bị coi là lẳng lơ, nhưng lý do và cách hành xử của Thị làm nổi bật một khát vọng tình yêu mạnh mẽ và cá nhân của cô. Sự si mê của Thị dẫn đến bi kịch vì tình yêu không được đáp lại và cái nhìn về tình yêu cần có từ hai phía. Thị Mầu là biểu hiện của nghệ thuật và khát vọng của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Lập dàn ý cho bài thảo luận:
Mở đầu
Nêu vấn đề cần thảo luận: Nên đánh giá nhân vật Thị Mầu như thế nào?
Nội dung chính
+ Trình bày quan điểm của bạn về vấn đề thảo luận (không đồng tình với ý kiến thứ nhất, ủng hộ ý kiến thứ hai hoặc có điểm đồng tình và không đồng tình với cả hai ý kiến,...).
+ Sử dụng lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục mọi người về ý kiến của bạn.
Kết thúc
Khẳng định lại ý kiến của bạn và đề nghị mọi người tham gia trao đổi, thảo luận.
c) Thực hành nói và nghe: Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 37).
* Bài nói mẫu tham khảo:
Vở chèo Quan Âm Thị Kính vẫn giữ được sức sống lâu bền trong dân gian nhờ vào việc xây dựng thành công hình ảnh người phụ nữ với những tính cách đối lập với xã hội phong kiến. Khi đọc hay xem vở chèo này, có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với bản thân, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp, được thể hiện qua ngôn ngữ chèo phong phú và đa dạng. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ đối với các lễ giáo phong kiến. Khác với những nhân vật nữ chính khác của chèo, Thị Mầu thu hút sự chú ý qua vẻ ngoài và hành động của mình. Vẻ đẹp của Mầu được thể hiện qua bộ yếm đỏ, nụ cười quyến rũ, và trang phục sặc sỡ, cho thấy sự phá cách đối với các ràng buộc của lễ nghi phong kiến.
Sự đối lập trong việc xây dựng nhân vật chèo đã làm nổi bật hai hình tượng: Thị Kính dịu dàng, kín đáo và Thị Mầu táo bạo, mạnh mẽ. Thị Kính lẩn tránh thì Thị Mầu lại chủ động thể hiện tình yêu của mình, bất chấp các ràng buộc xã hội. Thị Mầu thể hiện khát vọng tình yêu và tự do, điều này đối lập hoàn toàn với các quy định xã hội phong kiến. Thị Mầu cất lên tiếng nói phản kháng và thúc đẩy thay đổi các quan niệm cổ hủ, làm nổi bật quyền yêu đương và tự do cá nhân. Tóm lại, Thị Mầu là nhân vật đại diện cho khát vọng tự do và tình yêu của phụ nữ thời phong kiến, và dù bị chỉ trích, cô vẫn là biểu tượng của sự bùng nổ trong xã hội phong kiến.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa: Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 37).
5. Soạn bài 'Thảo luận về vấn đề có quan điểm trái ngược' - mẫu 2
Định hướng
- Xác định vấn đề thảo luận, người tham gia, thời gian thảo luận.
- Xem xét vấn đề từ nhiều góc nhìn và mối quan hệ khác nhau để tìm ý, lập dàn ý cho bài trình bày.
- Lắng nghe, tôn trọng ý kiến của người khác về vấn đề cần thảo luận.
- Trao đổi và bổ sung, làm rõ thêm ý kiến của bản thân.
- Thái độ phù hợp, hòa nhã khi trao đổi.
Thực hành
Lựa chọn một trong hai vấn đề sau (hoặc tự đề xuất vấn đề) và tiến hành cuộc thảo luận
Vấn đề 1: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Vấn đề 2: Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hay quan niệm trên.
Lời giải
Vấn đề 1: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Mỗi nhân vật trong một tác phẩm văn học đều mang những vẻ đẹp, cá tính riêng. Tác phẩm đưa ra những ý kiến trái chiều để bạn đọc có thể bàn luận cũng được coi là đã thành công tạo được những ấn tượng, thu hút bạn đọc. Nhân vật Thị Mậu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một người như vậy. Nhận xét về nhân vật, có ý kiến cho rằng: Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tuy ý kiến trái chiều nhưng đều có những lí lẽ riêng, thể hiện cảm nhận của người đánh giá. Trước hết, hãy cùng thảo luận về ý kiến “Thị Mầu là một người lẳng lơ, xấu tính”. Trước hết, tính cách lẳng lơ của thị được thể hiện qua một vẻ ngoài ấn tượng. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Biết Thị Kính là một thầy tu nhưng Thị Mầu vẫn không ngừng tìm cách quyến rũ. Dù Tiểu Kính đã nhiều lần từ chối như Thị Mầu vẫn không bỏ cuộc mà vẫn luôn tìm cách để trò chuyện, liên tục gọi “thầy tiểu ơi” đầy dịu dàng, tha thiết. Từ những hành động trên, có thể thấy rằng Thị Mầu là một người phụ nữ lẳng lơ, xấu tính.
Thế nhưng, nếu nhìn trên phương diện tích cực thì Mầu lại là một cô gái có khát vọng tình yêu cao cả. Thật hiếm người phụ nữ nào trong xã hội xưa có thể bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn như Mầu. Họ thường sẽ im lặng, âm thầm chịu đựng hoặc dịu dàng, ẩn ý trong tình yêu của mình. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Thị Mầu trong chèo là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu.
Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến.
Tuy có những ý kiến trái chiều về nhân vật nhưng với quan điểm hiện đại ngày nay, có lẽ Thị Mầu không phải là một cô gái “xấu”. Vì vậy, khi đánh giá một nhân vật hay bất cứ con người nào, chúng ta cần dành cho họ một cái nhìn đa chiều và tích cực để từ đó có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về con người ấy. Chính nhân vật Thị Mầu đã góp phần làm nên sức sống cho vở chèo “Quan Âm Thị Kính” vẫn còn âm vang mãi tới ngày hôm nay.
Vấn đề 2: Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hay quan niệm trên.
Thuốc kháng sinh là cái tên không còn quá xa lạ với tất cả mọi người. Loại thuốc quen mặt này xuất hiện trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp và có thể mua ở hầu hết mọi nhà thuốc. Tuy nhiên nhiều người lại lạm dụng chúng quá mức và còn nêu ra quan niệm: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh.
Vậy có thực là thuốc kháng sinh sẽ giúp nhanh khỏi bệnh hay không? Mặc dù kháng sinh có tác dụng tích cực là điều trị bệnh, diệt vi khuẩn gây bệnh, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở tiết ra các độc chất gây hại cho cơ thể, nhưng nó còn có tác dụng phụ như phản ứng phụ hoặc dị ứng. Mặt khác, việc lạm dụng thuốc kháng sinh khiến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng thuốc đang ngày càng phổ biến như: tụ cầu kháng methicilline; phế cầu kháng penicilline; khuẩn salmonela đa kháng với choramphenicol, ampicillin, cotrimoxazole... Sự xuất hiện của các vi khuẩn này gây nguy hiểm nghiêm trọng đến tính mạng của con người. Thực trạng dễ thấy hiện nay là nhiều người khi bị ốm, thậm chí bị cảm cúm do virus nhưng do ngại đến cơ sở y tế khám nên tự tìm mua kháng sinh để uống với mong muốn nhanh khỏi bệnh. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc kháng sinh chưa hợp lý, lạm dụng thuốc… sẽ tạo điều kiện cho các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, khiến cho thuốc kém hiệu quả và mất dần tác dụng. Đặc biệt là các bậc phụ huynh thấy trẻ bị ho, sốt, viêm họng nhẹ, mặc dù chưa cần dùng đến thuốc kháng sinh cũng tự ý kê đơn kháng sinh hoặc mua thuốc theo đơn cũ cho trẻ uống. Những bệnh nhẹ này của trẻ thay vì sử dụng thuốc kháng sinh có thể dùng những biện pháp vừa an toàn vừa hiệu quả như rửa mũi, súc họng bằng nước muối, sử dụng thuốc ho...
Nếu bệnh tình tái phát hoặc không thuyên giảm thì đưa trẻ đến các trung tâm y tế điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Việc tự ý sử dụng thuốc kháng sinh khiến cho thuốc không những không trị được bệnh, mà còn làm cơ thể sản sinh ra các vi khuẩn kháng thuốc gây nguy hiểm cho người bệnh. Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng: Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh. Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,… Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.
Đối với người cao tuổi sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời. Trẻ nhỏ cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh. Để hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh cần nâng cao nhận thức ngay từ mỗi cá nhân bằng cách bắt đầu bằng thói quen tuân thủ đơn thuốc của bác sĩ, không tự ý mua và dùng kháng sinh khi chưa có ý kiến của bác sĩ điều trị. Khi được bác sĩ kê đơn có thuốc kháng sinh, luôn uống đủ liều lượng đã được kê, không bỏ dở nửa chừng, ngay cả khi cảm thấy bệnh đã đỡ nhiều. Không dùng thuốc kháng sinh thừa từ lần sử dụng trước; không chia sẻ thuốc kháng sinh trong toa thuốc đang dùng cho người khác uống, ngay cả khi đó là người thân của mình.Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng để phòng ngừa lây nhiễm vi khuẩn, góp phần giảm bớt nguy cơ phải dùng đến thuốc kháng sinh. Mỗi cán bộ y tế cần sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, chỉ định sử dụng kháng sinh đúng các hướng dẫn chuyên môn và kê đơn khi cần thiết. Đối với các cơ quan chức năng, trực tiếp là ngành y tế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kê đơn và bán thuốc theo đơn tại các bệnh viện, nhà thuốc, tăng cường kiểm soát, quản lý sử dụng kháng sinh. Đồng thời, có chế tài xử lý thích đáng đối với các hành vi vi phạm.
Có thể thấy không phải cứ ốm mà mình sử dụng thuốc kháng sinh, thay vào việc tự tiện sử dụng hay lạm dụng nó thì chúng ta phải đến bác sĩ để khám bệnh và uống theo đúng liều lượng được kê đơn.
6. Bài soạn 'Thảo luận về một vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau' - mẫu 3
Định hướng
a) Khi đối diện với một vấn đề trong cuộc sống, mỗi người có thể có những quan điểm khác nhau do sự phức tạp của vấn đề hoặc khác biệt trong góc nhìn và cách suy nghĩ. Thảo luận về vấn đề với các quan điểm khác nhau là việc chia sẻ và trình bày ý kiến cá nhân về vấn đề, đồng thời lắng nghe và trao đổi với ý kiến của người khác để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.
b) Để tham gia vào thảo luận về một vấn đề có nhiều quan điểm, các em cần lưu ý:
- Xác định vấn đề thảo luận, người tham gia và thời gian thảo luận.
- Xem xét vấn đề từ nhiều góc nhìn và mối quan hệ khác nhau để lập dàn ý cho bài trình bày.
- Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác trong thảo luận.
- Trao đổi, bổ sung và làm rõ ý kiến của bản thân.
- Đảm bảo sự phù hợp, hòa nhã và lịch sự trong khi thảo luận và trao đổi.
Thực hành
Đề bài: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại cho rằng Thị Mầu là người sống thật với chính mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Bài tham khảo
Tán thành ý kiến “Thị Mầu lên chùa” (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính.
Tán thành ý kiến Thị Mầu là người sống thật với chính mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tán thành cả hai ý kiến
Thị Mầu là người phụ nữ không giữ phép tắc trong lời nói và hành động, không ngần ngại hay e dè: Thị khen Tiểu Kính xinh đẹp, bày tỏ sự thích thú với Tiểu Kính, cầm tay Tiểu Kính để tỏ ý ve vãn nàng.
Thị Mầu dám yêu, dám ghét, dám thể hiện tình cảm của mình một cách táo bạo và mạnh mẽ, khiến người xem phải trầm trồ và khen ngợi sự dũng cảm, vượt lên trên các lễ nghi phong kiến.
Thị Mầu đúng là người lẳng lơ, xấu tính khi dám nói những điều mà ít ai dám nói và làm những việc mà ít ai dám làm. Thị thích chú tiểu, ve vãn chú ngay tại ngày lễ Phật, mặc kệ những lời ra tiếng vào, Thị vẫn theo đuổi Tiểu Kính bằng mọi giá. Dù Tiểu Kính từ chối, Thị vẫn kiên trì tiếp cận và không có ý định từ bỏ.
Dù Tiểu Kính nhiều lần từ chối, Thị vẫn tiếp tục bám theo và đưa ra những lý lẽ vô lý, trái ngược với chuẩn mực xã hội phong kiến thời bấy giờ.
Thị Mầu cũng giống như bao cô gái khác, mong muốn tự do, được sống bên người mình yêu và có cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, sự khao khát đó lại gặp phải sự cản trở của các hủ tục phong kiến.
Thị Mầu không quan tâm đến những lời ra tiếng vào, thể hiện sự khao khát hạnh phúc bằng cách thổ lộ tâm tư với Tiểu Kính, khiến nhiều người phải ngưỡng mộ tinh thần phóng khoáng của Thị.
Thị Mầu có thể xấu tính, lẳng lơ, nhưng điều đó xuất phát từ mong muốn sống tự do và tìm kiếm hạnh phúc của chính mình.