1. Bài tham khảo số 1
Tựa như con sóng ngoài khơi luôn đưa đẩy, níu giữ những chiếc thuyền lênh đênh trên biển , thơ ca đi vào thế giới nội tâm của con người một cách nhẹ nhàng và thanh thoát, từ đó hướng họ đến những vẻ đẹp của của cuộc sống muôn màu. Thơ là là tiếng đàn muôn thuở gãy lên những giai điệu du dương đưa ta vào những chiều không gian khác, khi là thoát khỏi hiện thực u tối để bay đến ngày mai tươi sáng hơn , khi là đưa ta về lại với những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ. Nhưng làm sao ta nghe được tiếng đàn ấy, khi nó chỉ là những nét mực vô tri in hằn lên tờ giấy trắng, không, nó không chỉ đơn thuần là nét mực, mà nó là con chữ, là ngôn từ nghệ thuật. Nhà thơ Viên Mai đã từng nói rằng: “Chỉ có lời thơ tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho người đọc cảm kích mà phấn chấn, còn như lời thơ qua ngay thẳng, thật thà, tầm thường, cũ kĩ thì có thể làm cho ai hứng thú được không”, là một nhà thơ có tầm hiểu biết, Viên Mai đã hiểu được tầm quan trọng của ngôn từ nghệ thuật trong bất cứ một thi phẩm nào, bởi nó không chỉ là cách để nhà thơ truyền đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình đến với độc giả mà theo một cách kì lạ nào đó từ những con chữ ấy người đọc lại có thêm những tư duy khác theo chính cảm xúc của mình. Hiểu được những điều kì diệu mà con chữ mang lại, nhà thơ Lê Đạt đã có những cái nhìn chiêm nghiệm khách quan nhất về vấn đề qua văn bản “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt (1929-2008), tên khai sinh là Đào Công Đạt, quê ở tỉnh Bắc Giang. Ông là nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi, cách tân, đề cao lao động chữ nghĩa và từng tự nhận mình là “phu chữ”. Bao nhiêu nhà thơ trên đời này ao ước một lần hiểu được ý nghĩa của thơ, để trả lời cho câu hỏi : “Thơ là gì?”. Lê Đạt cũng như vậy, suốt cuộc đời ông sống vì thơ, vì con chữ, ông đối thoại với những dòng thơ thơ như đối thoại với chính mình. Thơ hiện lên trong tâm thức ông không chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một thứ “bóng chữ” mà còn có cả những ưu tư trăn trở của ông về nó. Với ông, thơ như một thứ đạo, một thứ tôn giáo, một thứ cơ duyên. Nói như Đặng Tiến: “Người đời ví thi nhân với kiếp tằm, Lê Đạt tự xem mình như một lá dâu, còn lại trơ gân, xác xơ thân xác”. “Không người làm thơ nào không phải trải qua những cơn tuyệt vọng muốn quẳng bút đi làm nghề khác cho nó khỏe. Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu đắm đuối” , đối với ông thơ mà một thứ nghiệp chướng mà cả đời ông không thể dứt ra được, ông tự cho mình là kẻ phu chữ, suốt một đời này phải gắn liền với cái công việc gọt rửa từng con chữ sao cho trở nên mĩ miều tuyệt diệu nhất có thể để đưa vào làm chất liệu cho những tác phẩm sáng tạo nghệ thuật của mình. Đối với ông chữ không chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn cựa quậy, là một thứ mặc khải để thi nhân bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Sự linh diệu của thơ bao giờ cũng hiển lộ ở chữ. Và sự linh diệu của chữ chính là sự linh diệu của thơ. Lê Đạt đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc đối với nhà thơ: “ Nhà thơ không coi rẻ chữ như những vật vô tri vô giác, những công cụ quẳng đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng chữ như những sinh vật có hồn, lắng nghe tiếng nói của chữ và trò chuyện với chữ như những nhà ngoại cảm lắng nghe và trò chuyện với thế giới bên kia.”
Ngay đầu những lí lẽ ban đầu của văn bản, ông đã nêu ra được những lập luận của mình. Đối với văn xuôi, đó là “Ý tại ngôn tại”, có nhầm hay không khi từ “tại” được lặp lại, không, đó là dụng ý của tác giả. Ông quan niệm rằng đối với những tác phẩm văn xuôi, truyện thơ, kí, … chỉ cần ta đọc hết tác phẩm, đọc từng câu từng chữ và tiêu hoá nó, ta sẽ hiểu được nội dung, giá trị sâu bên trong mà nó muốn truyền tải đến người đọc. Còn đối với thể loại thơ thì khác, nó là “Ý tại ngôn ngoại”, có nghĩa là người đọc thơ chỉ đọc hết từng câu thơ thì không thể nào tường tận hết được những gì mà kẻ làm thơ muốn nói, một điều kì diệu nữa ở chỗ những con chữ ấy mà người thưởng thức thơ còn có thể sáng tạo ra nhiều tầng ý nghĩa thích hợp với cảm xúc của họ, khác hoàn toàn với những gì mà nhà thơ muốn truyền tải đến, Lê Đạt đã cho ta thấy sự kì diệu và thần kì của ngôn từ nghệ thuật trong thi ca. Thơ thường không bộc lộ ở những điều được viết ra mà là ở những chỗ trống, những khoảng trắng, ở sự im lặng giữa các chữ các lời. Ngôn ngữ tho là ngôn ngữ được chưng cất từ cảm xúc, chắt chiu và gạn lọc, đạt đến độ tinh, nên có sự đa dạng về mặt ý nghĩa cũng như cách hiểu. Chính vì những điều đặc biệt ấy, sự lắng nghe và cảm thụ của người đọc là quá trình giải mã phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, tinh tế của thơ ca, người đọc ngoài năng lực rung cảm, thẩm bình và nhạy bén trước ngôn ngữ thi ca thì sự đồng điệu với tác giả cũng là một con đường để đến với thơ. Lê Đạt cho rằng. : “Nhà thơ làm chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu dùng”, nghĩa tư vị của nó, mà ở diện mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ” , không thể phủ nhận được ý kiến như vậy. Trong bài : “Mấy ý nghĩ về thơ”, Nguyễn Đình Thi nói:
“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng…”
Thơ muốn lay động chiều sâu tâm hồn, đem cảm xúc mà đi thẳng vào sự suy nghĩ, đúng là không chỉ nhìn vào con chữ, nhìn vào cái nghĩa tự vị hay tiêu dùng của nó mà hiểu được ý tình của tác giả trong câu thơ này, làm sao có cả mây trắng rồi xanh rồi vàng, rồi làm sao lại liên quan đến ta và nàng, ấy vậy mà trong lòng mỗi người đã có những câu trả lời riêng cho mình rồi, đó là sức mạnh vang động của thơ ca vào tâm hồn người đọc, thật là diệu ngộ. “Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi lần lượt, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ chọn một ít điểm chín, bám vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo” – Nguyễn Đình Thi. Nói như Trần Nhựt Tân: “ Ngôn ngữ thơ ca là một ngôn ngữ có nội dung phản ánh được dư vang nghệ thuật”.
Lê Đạt bày tỏ thái độ “ghét” với cái quan niệm quái gở : “Các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”, ý này chỉ những nhà thơ được phú trời cho, ban cho mình cái khả năng “thở cũng ra thơ”. Nhưng đã cho thì cũng bủn xỉn lắm, rồi một ngày nào đó cái phú ấy cũng lụi tàn đi, vậy những nhà thơ ấy sẽ còn lại gì nếu không thực sự lao động nghệ thuật bằng mồ hôi chính mình. Bởi vì vậy ông đề cao những nhà thơ “một nắng hai sương, lầm lũi, lực điện trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ”. Ông cho ra thiên hạ lại ca ngợi thể loại thơ gắn liền với những cảm xúc bộc phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần cố gắng, của những nhà thơ thiên phú, rồi cái phút bốc đồng ấy có tồn tại vĩnh viễn với thời gian hay phải nhường chỗ cho những nhà thơ chân chính đổi mồ hôi lấy chữ như ông đã từng nói, những thứ ấy chỉ là cái tạm thời, không thể nào so sánh với những người như ông và các nhà thơ cùng chí hướng. Hoạt động sáng tạo thơ ca là một con đường dài và gian khổ, trên con đường ấy không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của những kẻ phu chữ đã phải trải dài, nơi đó không có chỗ cho những thứ thơ tầm thường chỉ có những giá trị tức thời, rẻ rúng. Xem chữ như là một người bạn chân chính, người bạn ấy không phải tự đến với chúng ta hay được ai gọi mang đến cho ta cả ta phải tự đi tìm nó. Phải biết lắng nghe và trò chuyện với chữ, nghĩa là ta đang nói chuyện với một tri kỉ. Chữ trong thơ đã trở thành người bạn tri âm của thi sĩ, chọn lựa chữ trong thơ cũng chính là sự chọn lựa của tình yêu và trách nhiệm với ngòi bút của mình. Theo Lê Đạt:
“Với đa số chữ là tình nghĩa
Với nhà thơ chữ là tình yêu”.
Chính vì rất đề cao vai trò của chữ trong thơ mà ông đã xác quyết: “Một nhà thơ có kinh nghiệm là nhà thơ biết im lặng để nghe chữ phát biểu”. Ông cho rằng: “chữ bầu lên nhà thơ” , và nhà thơ bao giờ cũng là người bộ hành cần mẫn dấn thân trên con đường chọn lựa “giữa nghĩa và hàm nghĩa, giữa chữ và bóng chữ”. Hiện hữu của nhà thơ chính là hiện hữu của chữ trong thơ. Nhà thơ nếu không tạo ra được một sự riêng về ngôn ngữ, nghĩa là đã tự đánh mất sự hiện hữu của mình. Và khi đó thơ chỉ là một “nấm mộ lạnh lẽo” trong nghĩa trang thơ. Chữ trong thơ, vì thế là một “nhãn hiệu cầu chứng” cho sự hiện tồn của thi nhân, là một trong những yếu tố quan trọng nhất nếu không nói là yếu tố quyết định tạo nên phong cách nhà thơ. Vũ trụ của mỗi nhà thơ được tạo nên từ những tinh tú của ngôn ngữ thơ mà ngôn ngữ thơ bao giờ cũng là hiện thân của chữ. Vì vậy, trong quan niệm của Lê Đạt, để khẳng định sự tồn sinh của mình “Người làm thơ tự trọng trên lĩnh vực ngôn ngữ phải bận tâm đến việc mở mang bờ cõi ngôn ngữ, tương tự một nhà bác học mở rộng bờ cõi của khoa học, đổi khác cách nhìn tự nhiên”.
Theo Lê Đạt: “Con đường thơ gồm nhiều con đường riêng rất khác nhau của từng người. Không có đại lộ chung một chiều cho tất cả. Ta có thể nói con đường thơ chính là số phận của một nhà thơ”. Mỗi một nhà thơ đều có một con đường riêng cho mình, mà một khi đã chọn thì khó có thể quay đầu, hay còn gọi là số phận của chính họ trong thế giới nghệ thuật khắc nghiệt. Dù chọn cho mình đi theo hướng nào, lao động chữ là việc không thể nào bỏ qua, đó là một yếu tố cơ bản tiên quyết nên sự thành công của những tác phẩm trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của chính họ. Bởi vậy ông quan niệm rằng : “Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối làm động lòng quỉ thần, chứ không phải may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, và không ai trúng số độc đắc suốt đời”. Không có những sự thăng hoa diệu kỳ trong sáng tạo thì không thể có những câu thơ hay. Sáng tạo thơ bao giờ cũng là sự ám ảnh của vô thức và tâm linh. Đi vào thế giới của thơ là đi vào thế giới của những ảo diệu, của mặc khải để người nghệ sĩ thể hiện những dự phóng sáng tạo của mình. Theo ông: “Cái trẻ, cái già của nhà thơ quyết định không phải do ở tuổi đời, mà ở nội lực chữ” , Picasso nói một câu rất thâm thuý : “Người ta cần rất nhiều thời gian để trở nên trẻ”. Nhà thơ phải không ngừng nỗ lực, cải tiến lối tư duy có thể héo mòn theo năm tháng, không ngừng lao động cần mẫn để trở được những cử tri chữ bầu chọn trong nhiệm kỳ kế tiếp, đừng để đánh mất đi cái tài năng của mình. Chính thế giới “ngôn ngữ riêng” này sẽ làm nên một hệ giá trị trong vũ trụ thơ của thi nhân. Nó khẳng định sự hiện tồn của nhà thơ trong tâm thức người đọc cũng như định vị tư cách nhà thơ trên thi đàn. Thơ luôn “chống lại nguy cơ sa mạc hoá của tâm cảnh”. Và khi nào nhà thơ không để cho tâm cảnh của mình bị sa mạc hoá, lúc đó nhà thơ mới có cái nhìn linh động về cuộc sống và khi đó thế giới ngôn ngữ của nhà thơ mới phong phú và linh động
Tại sao người ta ca ngợi Hồ Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm”, hay là “nhà thơ của phụ nữ” , ta cùng tìm hiểu nét độc đáo trong cách sử dụng con chữ để gầy dựng lên tên tuổi của mình.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
(Tự tình II)
Bạn cách sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, những động từ chỉ tình thái (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc ), những tính từ chỉ trạng thái (say, tỉnh, khuyết, tròn), phối hợp với cách tổ chức ngôn ngữ một cách sáng tạo nghệ thuật: đối, đảo ngữ, cách bắt nhịp, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ được tâm trạng bất mãn với cuộc đời số phận và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. Đó là cách chơi chữ độc đáo của bà, làm cho tên tuổi vang xa và để lại tiếng thơm muôn đời.
Bằng hàng loạt những lí luận sắc bén, Lê Đạt đã thể hiện những quan điểm về công cuộc phu chữ của nhà thơ một cách vô cùng thuyết phục và mang cá tính sáng tạo của riêng ông. Những lí lẽ dẫn chứng mà ông viết trong văn bản thực sự đã mang người đọc hiểu hơn về quá trình lao động nghệ thuật của những nhà thơ chân chính, từ đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với họ. Bên cạnh đó t thấy được sự hiểu biết và chiêm nghiệm của ông trong thế giới của nghệ thuật, một con người hết đời vì thơ ca vì con chữ, đề cao những giá trị nhân văn mà nó đem lại.
Tác giả đã đưa ra nhận định hay và thú vị là Chữ bầu lên nhà thơ, để làm nổi bật tầm quan trọng của chữ đối với các nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ bầu lên nhà thơ là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo lập và tôn vinh vị thế nhà thơ. Khi nhà thơ cần mẫn với chữ thì sẽ có sự lựa chọn phù hợp nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Làm thơ là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là dùng chữ để thể hiện trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường. Làm thơ là đang sống, không phải chỉ nhìn lại sự sống, làm sống dậy một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc.
Bài thơ là sợi dây tình cảm cho người đọc, cái trạng thái tâm lý ấy là người đọc tự tạo cho mình, chính là khi nhìn những chữ, nghe những lời từ đó tâm hồn rung lên vì chạm thấy những ý nghĩ những tình cảm mà lời và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như ngọn đuốc trong đêm.

3. Tham Khảo Quan Trọng
Nhà văn Lê Quang Đạt đưa ra quan điểm độc đáo và thú vị về vai trò của chữ trong nghệ thuật sáng tạo.
Chữ không chỉ là âm thanh, mà quan trọng hơn là ngôn ngữ được sáng tạo một cách nghệ thuật. Chữ bầu lên nhà thơ là sự khẳng định về tầm quan trọng của ngôn ngữ đối với nghệ thuật thơ ca; ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu trong văn hóa; nó làm nổi bật tài năng và phong cách của nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; nó xây dựng và tôn vinh vị thế của nhà thơ. Khi nhà thơ tận hưởng chữ, sẽ có sự lựa chọn tối ưu nhất để diễn đạt ý, để tiếng lòng được truyền đạt, biến thành câu chữ, âm thanh và nhịp điệu. Nhà thơ Đỗ Phủ, hay được biết đến với biệt danh “thi thánh”, trong bài thơ Thu Hứng, đã sử dụng ngôn từ ước lệ, lời thơ buồn với những giai điệu và nhịp điệu đã dẫn người đọc đến thế giới tình cảm và tâm hồn của ông.
Quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy thách thức, nhà thơ phải thổi hồn vào tác phẩm qua ngôn ngữ thơ ca, phải dựa vào chữ để tạo ra những tác phẩm xuất sắc. Điều này thể hiện rõ rằng Chữ bầu lên nhà thơ là một khẳng định chính xác.

2. Tham Khảo Đặc Biệt
Thơ là ngôn ngữ của cảm xúc và ý chí con người. Việc sáng tác thơ đơn giản, nhưng để trở thành nhà thơ là một hành trình khó khăn. Thơ như một bản nhạc, chỉ khi tấu lên một cách tinh tế, người ta mới trải qua quãng đường luyện tập dài. Thơ có thể dẫn chúng ta thoát khỏi hiện tại, hướng đến niềm vui và hạnh phúc. Nó cũng có thể thể hiện rõ nhất những cảm xúc u ám hiện tại của con người. Những chữ biến ảo đó được Lê Đạt thể hiện trong tác phẩm “Chữ bầu lên nhà thơ”.
Lê Đạt, một nhà thơ đặc biệt, luôn khám phá những điều độc đáo trong văn chương, trong từng con chữ. Ông tìm hiểu ý nghĩa thực sự của thơ, sống vì thơ và hiến dâng bản thân. Thơ đối với Lê Đạt không chỉ là các chữ ghép lại, mà là một hình thức của “đạo”. Ông tận hưởng cuộc sống toàn bằng thơ, gọt giũa vần thơ để tạo ra những tác phẩm tuyệt vời. Với Lê Đạt, “nghệ thuật” lớn nhất chính là sáng tạo từ những con chữ hàng ngày. Trong công việc, đặc biệt là trong thơ, ông đặt ra những yêu cầu cao cấp. Ông cho rằng, “Nhà thơ không nên coi thường chữ, xem chúng như công cụ vô hồn, quăng bỏ khi chúng không còn hữu ích. Hãy tôn trọng chữ như những sinh linh, lắng nghe tiếng nói và tương tác như những nhà ngoại cảm thấu hiểu thế giới bên kia”.
Để khẳng định điều này, ông đã bắt đầu lập luận rất thuyết phục. Ông chú trọng đến “ý tại ngôn toại” trong thơ, đòi hỏi một bài thơ không chỉ truyền đạt nội dung mà còn làm cho người đọc đắm chìm trong cảm xúc. Khác với lời nói hàng ngày, theo Lê Đạt, thơ là điều lạ lùng, không cần phải nói lên mọi điều, người ta vẫn cảm nhận được ý muốn biểu đạt. Ngôn ngữ thơ, ông cho rằng, là nơi lưu giữ vô số cảm xúc, chọn lọc tinh túy từ những chữ thông thường. Điều mà một nhà thơ thực sự cần không phải là chất lượng “thương mại” bình thường, mà là âm nhạc, sự gợi cảm từng vần, từng nhịp.
Ông cũng thể hiện sự “ghét” với quan niệm rằng “Các nhà thơ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”. Theo ông, điều này chỉ đúng với những người thiên tài, vì khi “thời” qua đi, khi thiên tài mất đi, nếu không có sự cố gắng, họ sẽ dừng lại. Nhưng những người kiên trì, hết lòng với chữ, sẽ luôn tràn đầy cảm xúc. Đây mới là những người tạo ra lịch sử mới cho thơ, tồn tại mãi mãi chứ không phải là tạm thời. Họ không có con đường dễ dàng, phải đổ mồ hôi, dành thời gian nghiên cứu và rèn luyện.
Lê Đạt khẳng định rằng “chữ Bầu lên nhà thơ” là ý nghĩa của sự tôn trọng đối với chữ và sự thấu hiểu của một nhà thơ đích thực. Mỗi người có phong cách riêng, không gian riêng để “lưu trữ” những ý nghĩ sáng tạo. Đây là sự đa dạng mà một nhà thơ cần, và một bài thơ cần. Mọi thứ trong không gian đó được tạo nên từ những chữ cái bình thường nhưng rất linh hoạt. Vì thế, Lê Đạt khẳng định: “Người làm thơ cần tôn trọng ngôn ngữ, mở rộng bờ cõi ngôn ngữ, giống như nhà khoa học mở rộng biên độ của tri thức, thay đổi cách nhìn về thế giới tự nhiên”.
Điểm đặc biệt, thăng hoa của ngôn từ còn phản ánh số phận và con đường không thể lùi bước mà họ chọn. Hoàn cảnh ảnh hưởng rất lớn đến phong cách và vần thơ, tạo nên một “chất riêng” không thể nhầm lẫn. Ông diễn đạt quan điểm của mình: “Những câu thơ hay đều kỳ diệu, nhưng kỳ diệu là kết quả của lòng kiên trì, tâm huyết làm động lòng linh hồn, không phải chỉ là may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải là một trò chơi may rủi, không ai trúng số lớn suốt đời”. Điều này đòi hỏi sự rèn luyện không ngừng và sự sáng tạo, linh cảm của từng người thơ.
Lê Đạt sử dụng nhiều từ ngôn ngữ Việt, chuyển động mạnh mẽ giữa những con chữ ông coi trọng. Các từ được chọn thể hiện rõ tính cách và quan điểm của ông về ngôn ngữ. Lập luận sắc bén, logic và ví dụ chính xác, dễ hiểu. Điều này là một thành công lớn trong một bài luận.
Lê Đạt đam mê chữ, không ai có thể phủ nhận điều này. Tiêu đề và nội dung của bài làm cuốn hút độc giả. Qua đó, chúng ta thấy rất nhiều điều: tầm quan trọng của chữ trong sáng tác, sự khẳng định vị thế của tác giả và nhận thức về những tinh hoa lọc từ chữ viết. Thơ không chỉ đơn giản là văn bản đọc, mà còn là sợi dây chia sẻ và trải nghiệm cảm xúc.

5. Tham Khảo Đặc Biệt
Trong văn bản 'Chữ bầu lên nhà thơ' của Lê Đạt, tôi ấn tượng với nhận định: 'Tôi không mê những nhà thơ thần đồng. Tôi ưa những nhà thơ một nắng hai sương, lầm lũi, lực điền trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ'. Câu văn này thể hiện quan điểm của tác giả về quá trình sáng tác thơ. Ông không mê những nhà thơ thần đồng vì cho rằng nếu là 'trời cho' thì thường kết quả không tốt. Ông ví von công việc văn chương như người nông dân cày lúa, muốn có đồng cỏ tốt phải dày công chăm sóc. Với ông, những nhà thơ cũng cần trải qua quá trình rèn luyện, thực hành để tạo ra những bài thơ xuất sắc. Qua đây, chúng ta thấy quan điểm của nhà thơ Lê Đạt trong sáng tác văn chương.
Văn bản 'Chữ bầu lên nhà thơ' thể hiện quan niệm về nhà thơ và quá trình làm thơ của Lê Đạt. Ông cho rằng làm thơ không dễ, để tạo ra một bài thơ cần trải qua cuộc bầu cử chữ. Chữ trong thơ khác chữ trong văn chương, không chỉ hiểu theo nghĩa từ điển mà còn theo “ý tại ngôn ngoại”. Nhà thơ sẽ có những phát bất chợt, cảm hứng ngắn ngủi hoặc làm việc chăm chỉ để tạo ra những câu thơ ý nghĩa. Thành công của nhà thơ phụ thuộc vào ngôn ngữ và ý nghĩa thơ.

4. Tác Phẩm Chọn Lọc
Trong văn bản “Chữ bầu lên nhà thơ” của Lê Đạt, ấn tượng với quan niệm về một nhà thơ chân chính. Một nhà thơ không được đánh giá qua danh xưng mà người khác đặt cho họ, mà là bởi những con chữ mà họ sáng tạo. Do đó, sáng tác thơ đòi hỏi sự tập trung tâm trí, lao động chữ, tạo ra ngôn ngữ độc đáo thể hiện phong cách riêng của nghệ sĩ.
Trong văn bản “Chữ bầu lên nhà thơ”, Lê Đạt đưa ra quan niệm: “Con đường thơ chính là số phận của một nhà thơ”. Điều này là đúng! Một nghệ sĩ chân chính được đánh giá không bởi danh xưng mà người khác đặt cho họ mà chính là những con chữ họ tạo ra trên hành trình “cày cuốc trên cánh đồng giấy”. Con đường thơ bao gồm nhiều lựa chọn khác nhau và số phận của một nhà thơ chỉ tồn tại khi họ đi trên con đường của họ. Để tạo ra cái đặc biệt đó, nhà thơ cần lao động, suy nghĩ, băn khoăn cùng những con chữ, đặt tâm huyết, tình cảm vào từng chữ.
Do đó, những bài thơ được sáng tạo mới có sức gợi cảm, kích thích cảm xúc của độc giả và để lại dấu ấn phong cách riêng. Sự tồn tại lâu bền của một nhà thơ phụ thuộc vào tinh thần trách nhiệm, ý chí của nghệ sĩ trên con đường thơ của mình.

6. Bài Tham Khảo Xuất Sắc
'Thơ' được xem như 'nghệ thuật sử dụng từ ngôn ngữ' và sự lựa chọn, tổ hợp chữ từ là được sắp xếp theo một hình thức lôgíc nhất định, tạo ra hình ảnh hay âm thanh gợi cảm thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Nhà thơ không chỉ là danh hiệu mà là người làm thơ phục vụ cho cái đẹp, cái thiện, cái mỹ, chiếu sáng lên để xua tan bóng tối, phục vụ cho lương tâm, trí tuệ và tiến bộ, cũng như hạnh phúc của con người.
Trong văn bản 'Chữ bầu lên nhà thơ' của Lê Đạt, ấn tượng với quan niệm 'Mỗi lần tạo bài thơ, nhà thơ là như ứng cử viên trong cuộc bầu cử khắc nghiệt của cử tri chữ'. Dùng ngôn ngữ của Gia-bét, tác giả thể hiện quan điểm về quá trình sáng tác thơ. Mỗi lần tạo thơ, nhà thơ cần biết lựa chọn và sử dụng ngôn từ một cách sáng tạo. Họ cũng cần thay đổi trong sáng tác, không nên bị khuôn mẫu cố định. Để làm được điều đó, mỗi nhà thơ cần đặt hết tâm trí và lao động vào việc chăm chỉ và sáng tạo với những chữ nghĩa như người nông dân cày bừa trên đồng ruộng. Ngoài ra, những nhà thơ cần biết biến ngôn ngữ chung của cộng đồng thành ngôn ngữ đặc biệt, làm phong phú tiếng mẹ đẻ như 'lão bộc trung thành của ngôn ngữ'. Qua đó, ta nhìn thấy quan niệm của Lê Đạt về quá trình mỗi nhà thơ sáng tạo thơ ca.
Tác giả Lê Quang Đạt đã đưa ra quan điểm sắc bén và thú vị: Chữ bầu lên nhà thơ, đánh dấu sự quan trọng của chữ đối với những người sáng tác nghệ thuật. Chữ không chỉ là vỏ âm thanh mà quan trọng hơn là ngôn ngữ được sử dụng và tổ chức một cách nghệ thuật. Chữ bầu lên nhà thơ là khẳng định vị thế của ngôn ngữ đối với nhà thơ; ngôn ngữ là yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó làm nổi bật tài năng và phong cách của nghệ sĩ. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa cao nhất của ngôn ngữ, kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo dựng và tôn vinh vị thế của nhà thơ. Khi nhà thơ tôn trọng chữ, họ sẽ có sự lựa chọn phù hợp nhất để truyền đạt ý cần diễn đạt, để tiếng lòng của họ được hòa mình vào câu chữ, âm thanh, nhịp điệu. Nhà thơ Đỗ Phủ, được biết đến là “thi thánh” với bài thơ Thu hứng, đã sử dụng những câu chữ đầy ước lệ, lời thơ buồn với những âm vang và nhịp điệu, đưa người đọc vào thế giới cảm xúc tâm hồn của nhà thơ. Quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy thách thức và vất vả, nhà thơ phải thổi hồn vào tác phẩm thông qua ngôn ngữ thơ, phải dựa vào chữ để tạo ra những tác phẩm đặc sắc. Điều đó cũng làm nổi bật Chữ bầu lên nhà thơ như một quan điểm chính xác.
