1. Bài tham khảo số 1
Vũ Đình Liên, nhà thơ với niềm hoài cảm về giá trị xưa cũ, đã tạo ra bức tranh ông đồ đặc sắc trong bài thơ 'Ông Đồ'. Bằng lối thơ đơn giản, ông đã tái hiện hình ảnh của ông đồ ngày xưa, những người thuê viết chữ, và sự thất thế của họ trong thời gian trôi qua. Bài văn này tập trung phân tích sâu sắc về nét đẹp của ngôn ngữ và tâm trạng tương tác giữa người viết và người đọc.
'Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Trên phố đông người qua'
Với lời thơ này, nhà thơ mô tả bức tranh xuân đẹp đẽ, nhưng cũng là khoảnh khắc ông đồ vắng bóng giữa đám đông. Hình ảnh mực tàu và giấy đỏ được nhấn mạnh để thể hiện sự buồn bã, cô đơn của người nghệ sĩ. Tình yêu thương cho nghệ thuật và truyền thống văn hóa nổi bật qua những từ ngữ đơn giản nhưng sâu sắc.
'Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.'
Câu thơ cuối cùng là điểm nhấn, khiến người đọc suy ngẫm về sự đổi thay của thời gian. Ngôn ngữ và hình ảnh được sử dụng một cách tinh tế, làm cho bức tranh ông đồ càng trở nên sống động trong tâm trí độc giả.


2. Bài tham khảo số 3
Thời gian, con sóng dữ có thể làm mất đi mọi ký ức. Đối với nhà thơ Vũ Đình Liên, thời gian làm mờ nhòa những giá trị văn hóa cổ truyền. Bài thơ 'Ông Đồ' của ông là một tác phẩm ám ảnh với thời gian, khắc họa hình ảnh độc đáo của ông đồ trong tâm trí độc giả.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Với từng chữ, từng nét, Vũ Đình Liên tạo nên một ông đồ tài năng, nhưng cũng là nghệ sĩ đầy tâm huyết. Bức tranh về con phố với những tấp nập thuê viết, nhưng cũng là nơi giữ lại hồn nghệ thuật đang dần phai mờ.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Thời gian đã làm ông đồ trở nên cô đơn. Những người thuê viết mất dần, giấy đỏ và mực tàu trở nên buồn bã. Nhưng ông đồ vẫn kiên trì, đối mặt với sự thay đổi của thế giới xung quanh.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Câu hỏi cuối cùng của bài thơ là lời than trách, niềm đau thương về sự lãng quên của xã hội đối với nghệ sĩ. Hồn ông đồ, như hồn Việt Nam xưa, nay đã đi đâu?
Bằng những từ ngữ mộc mạc và hình ảnh sinh động, Vũ Đình Liên đã chạm nhạc vào tâm trạng của người đọc, để lại câu hỏi và suy ngẫm về thời gian, nghệ thuật và giá trị truyền thống.


3. Bài tham khảo số 2
Thất thế của Nho học và giới trí thức cũ được Trần Tế Xương phản ánh một cách ngắn gọn và chua xót:
Chữ Nho không còn giá trị gì nữa
Ông nghè, ông cống giờ cũng nằm co
Chẳng có gì học làm thống phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
Riêng Vũ Đình Liên với bài thơ Ông Đồ đã làm nổi bật hình ảnh của một thời tàn và nỗi tiếc nuối của lớp người đương thời.
Thật vậy, Ông Đồ là 'các di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn' (Vũ Đình Liên) đã bị rơi vào lãng quên. Qua hình ảnh này, nhà thơ thể hiện lòng thương cảm chân thành đối với ông đồ, sự hoài niệm về một thời đã qua.
Trước tiên là hình ảnh ông đồ trong thời kỳ đắc ý. Tầng lớp nho sĩ xưa, nếu đỗ cao, làm quan to là niềm vinh hiển nhất, nếu không thì thường làm giáo viên, gọi là ông đồ. Đầu thế kỷ XX, hệ thống thi cử phong kiến dần dần bị loại bỏ tại Nam Kỳ, Bắc Kỳ rồi Trung Kỳ. Chữ Nho không còn được coi trọng. Trong hai khổ đầu, nhà thơ đã tận tụy ca ngợi tài năng của ông đồ. Đó là một tài năng được đa số người ngưỡng mộ và yêu thích. Ông xuất hiện cùng mực tàu giấy đỏ bên lề đường mỗi khi hoa đào nở, thêm phần phong cách vào sự phô trương, sự rực rỡ của thành phố đang rộn rã trong ngày Tết. Hình ảnh đó trở nên quen thuộc, không thể thiếu trong không khí Tết đang đến, xuân đã về. Câu đối đỏ của ông đồ là một trong những yếu tố quan trọng để đón mừng Tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Chữ nghĩa thánh hiền và nghề giáo của ông trong xã hội tôn trọng sư phụ và trân đạo khiến ông đưọc sự tôn trọng từ mọi người. Theo phong tục, ngày Tết, mọi người cần trang trí câu đối hoặc một đôi chữ Nho viết trên giấy dán trên tường, trên cột, để trang trí nhà cửa và gửi lời chúc tốt lành. Khi đó, ông đồ được mọi người tìm đến. Đó là thời kỳ thịnh vượng của ông đồ. Lúc đó, ông là một nghệ sĩ đang trình diễn trước sự kính trọng của đám đông. Trong thời đó, viết chữ không chỉ là việc ghi chú, mà còn là nghệ thuật. Có ngành 'thư pháp' (nghệ thuật viết chữ). Sự tài năng của ông đồ đã tạo ra những dòng chữ như những tác phẩm nghệ thuật thực sự, được mọi người ngưỡng mộ, tấm tắc ngợi khen. Ông để lại những dấu hiệu của vẻ đẹp văn hóa trong quá khứ, là sự tôn vinh của giá trị văn hóa cổ truyền. Có người nói chữ Nho là chữ thánh hiền, chỉ dùng để dạy và ca ngợi cao quý, nhưng giờ đây bán chúng là một chuyện thất thế, một điều đáng thương. Nhưng có lẽ ở đây cần phải xem xét một chút về sinh hoạt văn hóa phổ biến trong đời sống hằng ngày.
Nhưng thời gian trôi đi và sinh hoạt ấy không còn lặp lại. Hai khổ 3,4 vẫn là hình ảnh của ông đồ đặt mực tàu giấy đỏ lên lề đường vào mỗi dịp Tết đến, nhưng mọi thứ đã thay đổi so với xưa:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Ngôn từ mỗi năm mỗi vắng đã miêu tả sự tàn phá nhanh chóng của thị hiếu truyền thống. Từ mỗi lặp lại không chỉ gợi nhớ đến bước chân đi suy thoái của thời gian, mà còn gọi lại cảnh quan ngày càng trở nên trống trải. Câu hỏi này thể hiện sự thương xót: Người thuê viết nay ở đâu? Nói lên như một sự hiểu biết đau lòng về tình trạng không có ai đặc biệt quan tâm đến việc thưởng thức văn hay chữ tốt nữa. Đây không chỉ là vấn đề về thị hiếu, mà còn là vấn đề về tri âm và lòng kính trọng tài năng. Mất duyên thì giấy thắm mực đen, hết duyên giấy mực đều bạc phai. Các quan niệm về sự vắng vẻ, buồn bã, tạnh, đọng, không thắm, u sầu mô tả 'Sự buồn bã, lụi tàn của một sự sống, ông đồ bị lãng quên, vô ý bởi thị hiếu đã qua, một lệch truyền thống, bởi sự vô tâm của xã hội:
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai chú ý
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay.
Đoạn thơ giàu hình tượng với bút vẽ mô tả chân thực hình ảnh trái ngược giữa cái tĩnh lặng và cái náo nhiệt: Ông đồ - người qua đường, tờ giấy - lá rơi, mưa bay. Tất cả cùng nhau làm nổi bật thêm vẻ đứng đắn của ông đồ. Ông đồ ngồi đó, giống như một bức tượng bị lãng quên, không còn một chút tương tác, không đồng bộ với cuộc sống, giống như một di tích đẹp nhưng bị bỏ qua vì không phù hợp với thời đại. Ông sống như không tồn tại, cố mà không, buồn bã, đơn độc, xa cách giữa cuộc sống hối hả. Hình ảnh ông đồ lạc lõng, cô đơn giữa đám đông làm sao!
Ngoài trời mưa bụi bay... Có lẽ đây là dòng thơ tốt nhất của bài:
Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông đồ già
Năm nay đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa
Bài thơ mở đầu là Mỗi năm hoa đào nở - Lại thấy ông đồ già và kết thúc là Năm nay đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa, có tác dụng làm nổi bật chủ đề. Đó là cảnh quan cũ không còn, điều thường thấy trong thơ cổ. Năm nay đào lại nở, Tết lại đến, mùa xuân lại trở về, nhưng ông đồ xưa không còn. Từ bây giờ, hình ảnh của ông đồ sẽ mãi mãi đi vào quá khứ, vĩnh viễn biến mất khỏi cuộc sống sôi động.
Hai câu cuối cùng là lời tự hỏi của nhà thơ, là sự đau lòng tiếc nuối... Hai câu trực tiếp diễn đạt cảm xúc tràn đầy kết thúc suốt bài thơ và mang ý nghĩa sâu xa. Từ một ông đồ ngồi viết câu đối bán Tết, nhà thơ đặt ra câu hỏi về những người đã từng, không còn nữa... Họ đã không còn, nhưng tâm hồn của họ, những giá trị mà họ đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của đất nước, bây giờ ở đâu?
Câu hỏi này kéo dài không dứt trong tâm trí người đọc sau khi đọc xong bài thơ đơn giản nhưng ý nghĩa. Dư âm của nó là sự hoài niệm đau lòng, như một sự hối tiếc vô tận. Đoạn thơ như những đám mây hương thơm của người sau này, lời thú nhận lời xin lỗi vô tâm của thế hệ sau đã để lại cho thế hệ trước đây.
Hình ảnh của ông đồ với hai thời kỳ đối lập, xưa và nay, đã thể hiện rõ sự thấu hiểu chân thành trước cuộc sống thất thế của một tầng lớp nhà nho cuối thời kỳ, thể hiện lòng hoài niệm về một quá khứ đã qua.


4. Tài liệu tham khảo số 5
Bắt đầu từ đầu thế kỉ XX, khi văn hóa tư tưởng phương Tây bắt đầu lan tỏa vào Việt Nam, nền Hán học và chữ Nho dần mất đi vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa dân tộc. Các nhà nho, trước đây từng là trung tâm của đời sống văn hóa và được xã hội tôn vinh, bây giờ trở nên lạc lõng, bơ vơ trong thời hiện đại, rơi vào quên lãng. Nhận thức được điều đó, Vũ Đình Liên đã sáng tác bài thơ 'Ông đồ', chia sẻ tâm tư, thể hiện sự thương cảm và tiếc nuối chân thành đối với một lớp người nhà nho trong quá khứ, đồng thời thể hiện sự buồn bã trước sự mất mát về giá trị văn hóa đẹp đẽ của một thời đại đã qua.
Coi như bài thơ là một câu chuyện về một cuộc đời, một số phận đầy những khó khăn và gặp phải nhiều khó khăn. Đó là cuộc đời của một ông đồ viết câu đối mỗi khi đến độ tết, xuân về. Cuộc đời này được chia làm hai giai đoạn, liên quan đến sự thịnh vượng và suy thoái của nền văn hóa Hán học.
Trước hết, là giai đoạn thịnh thế, khi ông đồ lên ngôi:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
'Mỗi năm ... lại thấy' có nghĩa là mỗi khi hoa đào nở rộ - điều báo hiệu thời khắc của mùa xuân đã đến, ông đồ với bút nghiên và giấy đỏ lại xuất hiện. Vì vậy, ông đồ và hoa đào - biểu tượng của mùa xuân trở thành một trong những điều không thể thiếu trong mỗi dịp tết đến. Lúc này, mọi người hào hứng, vui mừng đi xuống phố, xếp hàng, tấp nập chờ đợi xem ông đồ viết chữ:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
'Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Ông đồ lên như một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp. Những nét chữ vuông tươi tắn đượm vào từng tờ giấy đỏ như một tác phẩm nghệ thuật thực sự 'phượng múa rồng bay'. Mặc dù không còn có vị trí quan trọng như các bậc tiền bối trước đây, vì phải bán chữ, nhưng ông đồ vẫn cảm thấy an ủi ít nhiều vì ông đã làm đẹp cho đời, mang lại không khí tết, niềm vui cho mọi người xung quanh.
Thế nhưng, giai đoạn hoàng kim của ông đồ đã dần khép lại, ông đồ bắt đầu rơi vào tình cảnh ế ẩm và thất thế:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nơi đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Từ từ 'nhưng' được đặt ở đầu khổ thơ, như cánh cửa mở ra cho hai giai đoạn trước và sau, thịnh và suy, hoàng kim - thất thế. Hoa đào vẫn nở, đường phố vẫn đông đúc người qua lại, nhưng 'người thuê viết nơi đâu?'. Mọi người trở nên lạnh lùng, thờ ơ và không còn quan tâm tới ông đồ. Câu hỏi này đặt ra một cách thấp thỏm, thể hiện sự tiếc nuối đau lòng. Do đó, ông đồ trở nên tả tơi, đáng thương: 'giấy đỏ buồn không thắm', 'mực đọng trong nghiên sầu', nhìn chằm chằm vào 'lá vàng rơi' và 'mưa bụi bay' phủ kín đường phố, chán chường, đầy thất vọng. Nghệ thuật nhân hóa giúp giấy mực trở nên sống động, thể hiện tâm trạng như con người: giấy mực chẳng còn đỏ tươi, mực cũng khô đọng lại thành cục sầu. Câu thơ vang lên, truyền tải nỗi buồn trống trải, làm đau lòng người đọc. Phong cách miêu tả cảnh ngụ tình được tác giả sử dụng rất tinh tế, thể hiện sự đau buồn xót xa trong tâm hồn của ông đồ thất thế.
Kết thúc bài thơ là lời tâm tư, chứa đựng sự suy ngẫm và dày vò của nhà thơ:
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Cấu trúc đầu cuối tương ứng, với sự so sánh giữa hai hình ảnh: hoa đào nở và sự hiện diện - vắng bóng của ông đồ ở khổ một và hai, tác giả làm nổi bật cấu trúc bài thơ 'cảnh cũ người đâu'. Hoa đào nở nhưng ông đồ và các khách hàng đã đi về đâu? Câu hỏi này đặt ra một cách nhẹ nhàng, thể hiện niềm hụt hẫng, trống rỗng và tiếc nuối, làm cho độc giả cảm nhận được tình cảm của nhà thơ về ông đồ hay sự phai tàn của nét đẹp văn hóa dân tộc đã trải qua bao thế hệ. Do đó, giá trị của bài thơ không chỉ nằm ở ý nghĩa nhân văn mà còn thể hiện ý nghĩa nhân văn và tinh thần bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc.
Xét về mặt nghệ thuật, bài thơ được viết theo thể năm chữ, với sự xen kẽ của trắc tuần tự, tạo ra một không khí trầm lắng, buồn bã phù hợp với nội dung. Trong bài thơ, tác giả linh hoạt sử dụng các biện pháp tu từ như: nhân hóa, câu hỏi tu từ, so sánh tương phản kết hợp với ngôn ngữ hình ảnh phong phú, tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc cho tác phẩm. Nhịp điệu của bài cũng có sự biến đổi linh hoạt, phản ánh tâm trạng ông đồ qua từng giai đoạn của cuộc đời. Tất cả những yếu tố này đều góp phần tạo nên một tác phẩm nghệ thuật ấn tượng và sâu sắc.
Để kết luận, bài thơ 'Ông đồ' của Vũ Đình Liên là một tác phẩm xuất sắc, mang đặc điểm độc đáo, có ảnh hưởng lớn đối với người đọc, làm cho họ hiểu rõ hơn về giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ. Vượt qua nội dung câu chữ, câu hỏi tu từ cuối bài thơ là như một lời nhắc nhở của nhà thơ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc trong hiện tại và tương lai!


5. Tham khảo bài số 4
Nhà thơ Vũ Đình Liên đứng trước là một trong những tiên phong của phong trào thơ Mới, để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc với những tác phẩm của mình. Bài thơ “Ông đồ” là một minh chứng rõ nét cho thành công của ông trong việc thể hiện những giá trị văn hóa của dân tộc.
Nội dung của bài thơ thể hiện sự gìn giữ hồi ức của tác giả đối với một truyền thống văn hóa đẹp đẽ của Việt Nam, nhưng đang dần mất đi.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ mà nền văn hóa Hán học và chữ Nho đang mất dần tầm quan trọng, những giá trị truyền thống chỉ còn lại là một chút tro tàn. Trong hai khổ đầu, tác giả Vũ Đình Liên đã đưa người đọc quay lại thời kỳ hoàng kim của nho giáo khi chữ viết của các ông đồ được tôn trọng:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Trong hai khổ thơ này, hình ảnh hoa đào tươi thắm vô cùng, kết hợp với màu đỏ của giấy và mực tàu, tạo nên bức tranh ông đồ thời kỳ hoàng kim tràn đầy sức sống. Thời gian được đặt ra mỗi năm, như một thói quen quen thuộc.
Công việc viết chữ của ông đồ thường diễn ra vào những năm mà phong trào nho giáo đang phát triển mạnh, nên mỗi năm đều có ông đồ ngồi viết chữ, thường là ở những nơi có nhiều người qua lại, nơi mà mọi người dễ dàng xin chữ nhất.
Tác giả Vũ Đình Liên thể hiện nghệ thuật viết chữ của ông đồ như phượng múa rồng bay, một so sánh độc đáo làm nổi bật tài năng và vẻ đẹp cao quý của nét đẹp thời xưa. Đồng thời, thông qua cách miêu tả, tác giả thể hiện sự tôn trọng của mình đối với những người gìn giữ truyền thống văn hóa của dân tộc.
Trong hai khổ thơ tiếp theo, tác giả mô tả hình ảnh ông đồ thời kỳ lạc lõng, khi nho giáo thất sủng, chữ Nho trở thành một quá khứ trong thời kỳ hoàng kim, chỉ còn lại là tàn tích:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đó
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Câu thơ nhấn mạnh thời gian và địa điểm, mô tả một mùa xuân khác lại đến, hoa đào tươi thắm, nhưng hình ảnh ông đồ quen thuộc lại không còn. Người dân không quan tâm đến văn hóa nho giáo ngày càng nhiều, quên đi những giá trị quen thuộc, thể hiện cảnh tàn lụi của một nét đẹp văn hóa nho giáo.
Trong khổ thơ cuối, tác giả sử dụng ngôn ngữ trang trọng để bày tỏ lòng của mình đối với truyền thống văn hóa của dân tộc:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ”
Đầu bài, tác giả nhấn mạnh “mỗi năm hoa đào nở”, nhưng hình ảnh ông đồ thì biến mất. Âm điệu bài thơ giảm nhẹ, hoa đào vẫn nở, nhưng hình ảnh ông đồ đã không còn. Sự mất mát của một giá trị văn hóa quý báu hiện lên rõ ràng. Câu hỏi cuối cùng thể hiện sự tiếc thương với một nét đẹp văn hóa của dân tộc.
Qua bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên, ông đã thành công trong việc mô tả nhân vật ông đồ một cách tinh tế, đồng thời thể hiện sự xót xa của mình đối với một giá trị văn hóa quan trọng của dân tộc.


6. Tham khảo bài số 6
Nếu thơ Xuân Diệu mang giọng điệu say đắm, rạo rực, thơ Hàn Mặc Tử có chút điên loạn, thơ Huy Cận ẩn chứa nỗi buồn ảo não thì thơ Vũ Đình Liên lại hòa mình trong giọng điệu hoài cổ. Mỗi nghệ sĩ đều có phong cách thơ riêng, điều này làm nổi bật họ giữa đám đông và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả. Mặc dù số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng Vũ Đình Liên đã để lại những đỉnh cao văn hóa cho Việt Nam, và bài thơ “Ông đồ” là một biểu tượng. Sáng tác năm 1936 và xuất bản trên tạp chí “Tinh hoa”, bài thơ ra đời trong bối cảnh nền Hán học mất dần vị thế trước sự xâm lược của văn hóa phương Tây. Đồng thời, thời kì của những ông đồ cũng đã qua, không còn được trọng vọng.
Tiêu biểu cho hình ảnh của những ông đồ ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về, họ xuất hiện trên đường phố, viết những câu đối đỏ:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Hình ảnh này trở nên quen thuộc, là biểu tượng của những ngày Tết. Mỗi khi hoa đào khoe sắc, ông đồ già lại xuất hiện. Đó là thời kì phồn thịnh, khi hoa đào nở rộ, ông đồ làm cho bức tranh thêm phần tươi vui. Tài năng viết chữ của ông được người ta khen ngợi:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”.
Nhiều người thuê ông viết chữ không chỉ để trân trọng nét viết của ông mà còn để tôn trọng ông. Ông đã thể hiện tài năng của mình thông qua những câu đối đỏ, những nét chữ rồng bay phượng múa. Phép so sánh “như phượng múa rồng bay” thể hiện lòng ngưỡng mộ và tôn trọng của Vũ Đình Liên đối với ông đồ, cũng như sự trân trọng của nhân dân với giá trị văn hóa truyền thống.
Tuy nhiên, thời gian trôi qua, thế giới thay đổi, và ông đồ không còn nhận được sự trọng vọng như trước:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Những người thuê ông đồ viết chữ giờ đâu rồi? Họ vẫn sống, vẫn xuất hiện, nhưng sự thay đổi của thời đại làm cho giá trị văn hóa truyền thống bị lãng quên. Tác giả mô tả khung cảnh u tịch, vắng vẻ, đầy tiếc nuối. Hình ảnh giấy đỏ buồn và mực đọng trong nghiên sầu là biểu tượng cho sự cô đơn và bất hạnh của người đàn ông viết chữ trước thách thức của thời đại hiện đại.
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài giời mưa bụi bay.
Nhưng ông không còn được chú ý như trước. Bóng dáng của ông lặng lẽ qua đường, lặng lẽ trên phố mà không ai để ý. Hình ảnh của ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh này chỉ là “di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Sự tàn phai và mất mát được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng và không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi. Mọi thứ đều trở nên u tịch, nhạt nhòa, thể hiện cảm xúc đau buồn của nhà thơ.
Mặc dù Hán học suy tàn, ông vẫn kiên trì ngồi đó để giữ lại những giá trị văn hóa:
“Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Nhưng sự xuất hiện của ông không còn được chú ý như trước. Bóng dáng của ông lặng lẽ qua đường, lặng lẽ trên phố mà không một ai để ý. Hình ảnh của ông đồ đã rơi vào quên lãng, chỉ là “di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên). Cảm giác mất mát và sự đau buồn được thể hiện qua câu hỏi cuối cùng: “Người thuê viết nay đâu?” - một niềm thương tiếc sâu sắc cho những gì đã mất đi.
Thực sự, bằng cách sử dụng hình ảnh của hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã diễn đạt thành công sự trái ngược giữa thời kì phồn thịnh và thời kì thất thế của những ông đồ. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách rõ ràng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, là sự biểu lộ niềm thương xót sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên.

