1. Bài tham khảo số 1 - Sự Kiện Quốc Gia
Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, một vị danh tướng kiệt xuất, đã để lại dấu ấn lịch sử với tác phẩm 'Hịch tướng sĩ' trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên. Bài hịch không chỉ là biểu tượng của lòng yêu nước mà còn là nguồn động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu cho các tướng sĩ và dân tộc.
Trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ kể về những tấm gương anh hùng lịch sử mà còn diễn đạt lòng yêu nước sâu sắc và sự quyết tâm hy sinh cho Tổ quốc. Ông tận hưởng niềm tự hào về lịch sử anh hùng của dân tộc và đồng thời làm nổi bật sự căm thù, nhục nhã trước quân thù xâm lược.
Những lời của Hưng Đạo Vương không chỉ là thách thức đối với kẻ thù mà còn là động lực cho bản thân và những người chiến đấu bên cạnh. Ông mạnh mẽ khẳng định quyết tâm đánh giặc, hy sinh tận trái tim, để rồi truyền cảm hứng, đốt lên ngọn lửa chiến đấu trong lòng mọi người.
Bài hịch không chỉ là văn bản lịch sử mà còn là tác phẩm văn nghệ với ngôn ngữ sắc sảo, hình ảnh sinh động. Trần Quốc Tuấn đã tạo nên một kiệt tác văn chương vừa sâu sắc vừa truyền cảm, là nguồn động viên mãnh liệt cho lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của mỗi người con Việt Nam.
Hịch tướng sĩ, không chỉ là một bài văn, mà là biểu tượng của lòng yêu nước bất diệt, là hồn lực mạnh đầy bản lĩnh, là niềm tự hào về lịch sử anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Mỗi từ ngữ, mỗi câu văn trong bài hịch đều là dòng máu, là hơi thở của một dân tộc quyết liệt chiến đấu để bảo vệ tự do, giữ gìn chủ quyền quý báu.


3. Bài tham khảo số 2
Trong tâm hồn vị anh hùng Hưng Đạo Vương, tôi gặp một tình yêu nước mãnh mẽ, khát khao bảo vệ tổ quốc khỏi sự xâm lược của quân Mông Nguyên. 'Hịch tướng sĩ' không chỉ là bài thơ kêu gọi đánh giặc mà còn là biểu tượng của lòng trung hiếu và trách nhiệm với dân tộc. Cùng nhau chống giặc, ta hãy góp sức xây dựng một đất nước vững mạnh!


Tham Khảo 2: Hành Trình Chinh Phục Đam Mê
Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một "thiên cổ hùng văn" bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.
Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.
Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng nêu cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, súc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ biết tự nhìn lại mình.
Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự ngang ngược và tội ác của quân giặc. Ông đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, xót xa vừa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột rõ bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.
Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ hiểm họa của Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Lời lẽ chân tình, thống thiết, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng hơn người anh hùng đã hết lòng vì nước quên mình. Bởi lo thế giặc mạnh, quân giặc hung bạo, bất nhân còn thế nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, cái nguy cơ mất nước hiện hữu trước mắt khiến cho vị chủ tướng "tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa", ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang giày xéo trên quê hương, muôn dân đang bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: "căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù". Vì đất nước "dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa", ông cũng vui lòng.
Với bút pháp khoa trương, tính chất ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, bài hịch có sức ngân vang lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế.
Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu khuất phục. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ ràng ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất chí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc.
Trong khi tướng sĩ vẫn còn đang mải lo cho bản thân, ham mê lạc thú mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Ông đã rất đau xót và nghiêm khắc khi nhắc nhở tướng lĩnh của mình. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông còn nhắc lại mối giao hòa chủ tướng thắm thiết như phụ tử cùng sống chết trong mặc, cùng vui vẻ khi bình yên. Ông cũng nghiêm khắc chỉ trích lối sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc giày xéo quê hương: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn..., không biết căm,...
Mỗi thú vui của tướng sĩ không có gì là xấu nhưng nó không hợp với thời cuộc. Đất nước đang trong nước sôi lửa bỏng, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù thiện chiến và hùng mạnh, mà tướng sĩ vẫn thờ ơ tức là tự đẩy mình vào diệt vong, muôn đời chịu nhục. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, sử dụng nghệ thuật đối lập, cấu trúc câu trùng điệp tạo khí thế hùng hồn, từng lời từng chữ như chảy ra từ trong tim tha thiết vô cùng, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không phải là một mệnh lệnh cứng nhắc mà là một lời tâm tình rưng rưng nước mắt. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao.
Không những vạch rõ yếu kém của tướng sĩ, ông còn chỉ ra cái nguy cơ dẫn đến thảm kịch của đất nước, của gia đình, của cá nhân và cách để hóa giải cái nguy cơ ấy. Với bản lĩnh của một vị tướng kiệt xuất có tầm nhìn xa trông rộng và niềm tin tất thắng của dân tộc, ông hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi nếu mỗi binh sĩ đều hết lòng xả thân chống giặc cứu nước. Đó cũng là một lời hứa đinh ninh trước trời đất của vị chủ tướng để huy động toàn bộ sức mạnh dân tộc trong cuộc quyết chiến với kẻ thù xâm lược.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, xúc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.


Tham Khảo 5: Dấu Chân Cuộc Đời
Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) - một lãnh tụ tài năng, người đã đưa quân đội đánh bại quân Mông - Nguyên trong cuộc kháng chiến lừng lẫy. Ông được biết đến như một người lãnh đạo xuất sắc, biết trọng kẻ sĩ và có lòng yêu nước. 'Hịch tướng sĩ', tác phẩm khuyến khích tướng sĩ học tập cuốn 'Binh thư yếu lược', là minh chứng rõ nét cho tình yêu nước đậm đặc của ông.
Trước nguy cơ đe dọa đất nước, lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn thể hiện rõ qua sự căm thù sâu sắc với quân giặc. Ông không chỉ mô tả tội ác của giặc một cách sống động: 'Nhìn giặc đi ngoài đường múa may, lưỡi cú diều chửi mắng triều đình, bắt dê chó để đối xử tệ phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng' mà còn thể hiện lòng khinh bỉ, căm ghét tột cùng. Trần Quốc Tuấn không chỉ mô tả tội ác của giặc mà còn đề cập đến nỗi đau xót khi nhìn thấy đất nước và nhân dân bị làm nhục. Ông sẵn sàng hy sinh tất cả: 'Chưa kịp căm tức đã xả thịt lột da, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài đất, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng sẵn lòng'.
Bài hịch của Trần Quốc Tuấn không chỉ là diễn đạt lòng căm thù mạnh mẽ với quân giặc mà còn là biểu hiện của quyết tâm chiến đấu, quyết thắng giặc. Ông chỉ ra hai con đường - tà và chính, để tướng sĩ có thêm sự lựa chọn. 'Giặc và ta không thể sống chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừng phạt, không dạy bảo quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo và chịu đầu hàng giặc. Nếu vậy, sau này khi giặc đã dẹp yên, mãi mãi để thẹn, liệu có mặt nào đứng trong trời đất nữa?', đó là lời động viên cao nhất cho ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.
Tình yêu thương chân thành và tha thiết của Trần Quốc Tuấn dành cho tướng sĩ dưới quyền xuất phát từ lòng nhân ái và tình yêu nước. 'Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu, không có áo ta cho, không có cơm ta cho; quan nhỏ ta thăng chức, lương ít ta cấp bổng; đi thuỷ ta cho thuyền, đi bộ ta cho ngựa; lúc trận mạc sống chết ta cùng nhau, lúc nhàn hạ vui vẻ ta cùng nhau', đó là tình thần anh em, lòng nhân hậu giữa chủ tướng và tướng sĩ. Quyết tâm của Trần Quốc Tuấn là phê phán những hành động sai và chỉ ra những hành động đúng cho tướng sĩ. Tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nước và ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. 'Hịch tướng sĩ' là bức tranh chân thực về tinh thần yêu nước, lòng quyết tâm của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm.


4. Bài tham khảo số 5
Trước sức mạnh tiến công dồn dập của ba mươi vạn quân Nguyên lần thứ hai xâm lược nước ta, Trần Quốc Tuấn đã sáng tác bài: 'Hịch tướng sĩ' để động viên lòng yêu nước, quyết chiến của tướng sĩ. Tác phẩm không chỉ là một kiệt tác văn học mà còn 'là hiện thân sâu sắc của lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm của ông trước mối đe dọa ngoại xâm'.
Bài 'Hịch tướng sĩ' thể hiện mạnh mẽ tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn trước thách thức đất nước đang đối mặt với sự xâm lược của kẻ thù.
Với lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn không thể nín nhịn trước những hành động đối diện của sứ giả Nhà Nguyên. Ông không ngần ngại gọi họ là 'lũ diều hâu dê chó, hổ đói', những sinh vật hung ác; để thể hiện thái độ phẫn nộ và khinh bỉ. Bằng lối văn trau chuốt và sắc nét, Trần Quốc Tuấn chỉ trích những kẻ giả nhân giả nghĩa, với lòng tham không đáy, âm mưu vét sạch cả tài nguyên của đất nước: '... thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa; để thoả lòng tham không cùng, lấy hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn,..'
Đối với lòng yêu nước, Trần Quốc Tuấn đã từ bỏ giấc ngủ và ăn uống, đau đớn vì không có cơ hội để 'xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù' để giải tỏa tức giận. Ông sẵn sàng hy sinh để đất nước đạt được độc lập, tự do. Ông viết: 'Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài đất, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng'. Điều này dễ hiểu rằng nếu không có tình yêu nước mãnh liệt, Trần Quốc Tuấn sẽ không thể trải qua đau đớn và tức giận như vậy!
Ngoài ra, bài 'Hịch tướng sĩ' còn ca ngợi tinh thần trách nhiệm của vị chủ soái trước khi Tổ quốc đang gặp khó khăn thông qua việc phê phán nghiêm túc thái độ thờ ơ của quan tướng, chỉ biết đến sự sung túc của họ. Ông đã khéo léo thể hiện lòng yêu thương đặc biệt dành cho tướng sĩ, cùng với tinh thần đồng lòng chung sức của ông để đánh thức tâm hồn của họ. Giọng văn của ông rất cảm động và chân thành: '.. không có áo, ta cho áo; không có cơm, ta cho cơm; quan thấp, ta thăng chức, lương ít, ta cấp bổng...'
Thêm vào đó, thông qua những hình ảnh đầy cảm xúc và tiêu biểu, ông đã mô tả những hậu quả nghiêm trọng mà không chỉ ông mà còn gia đình của những tướng sĩ vô trách nhiệm đó sẽ phải chịu, khi đất nước rơi vào tay quân thù. Bằng cách sử dụng cấu trúc lặp lại có giá trị 'chẳng những ... mà... cũng', ông làm nổi bật những hậu quả đau lòng, những nỗi đau của nhân dân khi mất nước, khi Tổ quốc mất đi sự độc lập và tự do: '... Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn khó, chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên...'
Tinh thần trách nhiệm của ông còn thể hiện trong việc viết Binh thư yếu lược để tướng sĩ rèn luyện. Đối với ông, giữ nước không chỉ là bổn phận, mà còn là hành động thiết thực của mọi thời đại để xây dựng chiến lược chống giặc. Trần Quốc Tuấn đã thể hiện lòng yêu nước và trách nhiệm của một người lãnh đạo trong cuộc chiến tranh chống lại quân Nguyên. Chính tình yêu nước mạnh mẽ và tinh thần trách nhiệm cao cả của ông đã làm bùng cháy ngọn lửa chiến đấu và giành chiến thắng trong tâm hồn của các tướng sĩ ở thời điểm đó.
Từ việc hiểu rõ sâu sắc tâm tư của kẻ thù, nhận thức đúng về nguy cơ đối với Tổ quốc, ông đã chứng minh sự liên quan giữa sự sống còn của các quan tướng và sự thắng bại của cuộc chiến. Lợi ích cá nhân của họ không thể tách rời khỏi lợi ích toàn dân và lợi ích cao quý của Tổ quốc. Chính bài 'Hịch tướng sĩ' đã thể hiện một tinh thần yêu nước chân chất và sâu sắc, là sự thể hiện của một ý thức trách nhiệm rõ ràng và cao quý của Hưng Đạo Đại Vương đối với đất nước...


6. Tác phẩm tham khảo số 6
Tình yêu nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong lịch sử văn hóa. Xuất hiện vào thời điểm giặc Mông Nguyên chuẩn bị xâm lược lần thứ hai, 'Hịch tướng sĩ' của Trần Quốc Tuấn là biểu hiện sâu sắc của tình yêu nước và trách nhiệm của một nhà lãnh đạo trước đối mặt với đe dọa ngoại xâm.
Bài viết đặc trưng bởi tinh thần yêu nước mạnh mẽ. Tình yêu nước hiển hiện rõ qua sự căm ghét sâu sắc đối với kẻ thù. Bằng cách sử dụng ngôn từ sinh động, ẩn dụ tinh tế, và biểu đạt hình thức đa dạng, quân giặc xuất hiện như những kẻ hống hách và tham lam: đi nghênh ngang, lưỡi cú diều vuốt mặt, mỉa mai triều đình, sử dụng thân dê chó để khiến thống tể sợ, đặt mệnh Hốt Tất Liệt để đòi ngọc lụa, giả vờ là Vân Nam Vương để thu vàng bạc, vét sạch kho tàng. Bằng cách này, Trần Quốc Tuấn đã đánh thức lòng căm thù sâu sắc và lòng tự hào dân tộc.
Ngoài ý thức về số phận của quốc gia và nhân dân trước nguy cơ xâm lăng, Trần Quốc Tuấn còn có trách nhiệm đối với sự bình yên của đất nước. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, và lối diễn đạt phong phú, chúng ta cảm nhận được tâm hồn đau đớn tột cùng của vị lãnh đạo: 'Thường xuyên quên bữa ăn, giữa đêm gập gối, ruột như bị cắt, nước mắt ướt đẫm. Chỉ vì căm tức chưa có cơ hội xả thịt, lột da, nuốt máu quân thù. Dẫu cho trăm xác này phơi ngoài, nghìn thân này gói trong da ngựa, ta vẫn hạnh phúc'. Thông qua hình ảnh so sánh và ẩn dụ mạnh mẽ, tác giả chân thật thể hiện tâm trạng của mình, một tâm trạng đau đớn, luôn lo sợ vì quê hương, đất nước. Điều này xuất phát từ tinh thần trách nhiệm và bổn phận cao quý, không thể đánh giá thấp trước nguy cơ đất nước sắp rơi vào tay kẻ thù.
Với lòng căm thù nồng nàn, tác giả mong muốn trừng phạt quân giặc bằng những biện pháp tàn bạo nhất: xả thịt, lột da, uống máu mới có thể giải tỏa căm giận. Mỗi từ, mỗi câu ở đây đều là một phần tâm huyết của Quốc công, nó khiến người đọc cảm thấy xúc động và đồng cảm sâu sắc. Từ tinh thần trách nhiệm và trách nhiệm của mình, tác giả kêu gọi ý chí chiến đấu, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đất nước. Tinh thần này được ông truyền đạt đến tướng sĩ để khuyến khích họ chiến đấu. Ông thể hiện một thái độ rõ ràng và quyết liệt: 'Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ hiển nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?'.
Với binh sĩ, Trần Quốc Tuấn không chỉ là một lãnh đạo mà còn như một người cha, luôn quan tâm, chia sẻ cùng họ: chia sẻ thức ăn, chia sẻ áo, chia sẻ khó khăn, chia sẻ niềm vui, đồng lòng chung sức, xông pha vào trận đánh. Để khuyến khích ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người, ông cũng chỉ trích những hành động lạc quan, hưởng thụ và những suy nghĩ ích kỉ có thể để lại hậu quả nặng nề cho gia đình, đất nước và chính bản thân họ. Từ đó, ông khuyến khích họ nâng cao tinh thần cảnh báo, tích cực rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.
Bài viết kết hợp một cách hài hòa giữa lời luận chính và nghệ thuật văn chương, phản ánh tinh thần yêu nước mạnh mẽ của lãnh đạo và cả cộng đồng dân tộc trong thời kỳ đó. Do đó, tác phẩm vẫn mãi là một tác phẩm văn học hùng vĩ trong lịch sử dân tộc.

