1. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Đình Chiểu số 1
Nguyễn Đình Chiểu, còn gọi là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc phòng Cầu Kho, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Thân sinh nhà thơ là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên là Thơ lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ. Những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc bị triều đình Huế đàn áp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này gây ra những biến cố kinh hoàng, ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Huy bỏ trốn ra Huế, bị cách chức, sau đó trở về Nam đón Nguyễn Đình Chiểu, đem gửi cho một người bạn để học. 8 năm sống ở Huế giúp ông hiểu rõ hơn về sự thối nát và phức tạp của triều đình, cũng như tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc.
Năm 1843, ông đỗ tú tài ở Trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849), nhưng chưa kịp thi thì nhận tin mẹ mất. Trên đường trở về quê chịu tang mẹ, ông khóc thương, lâm bệnh và mù cả hai mắt.
Sau tang mẹ, ông tổ chức dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và sáng tác thơ văn. Gắn bó với nhân dân giúp ông hiểu sâu sắc về đời sống của họ. Trong thời gian này, ông sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên, tác phẩm tự truyện, nhanh chóng phổ biến rộng rãi. Học trò của ông, Lê Tăng Quýnh, người trọng tài năng và nhân cách, đã kết hôn với em gái Lê Thị Điền của ông. Ngày 17-2-1858, giặc Pháp chiếm Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ, làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Tại đây, ông viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và Dương Từ - Hà Mậu, phê phán âm mưu giặc, lên án sự thờ ơ, vô trách nhiệm trước tình cảnh nước mất nhà tan.
Khi Pháp chiếm miền Đông, Nguyễn Đình Chiểu và gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc chữa bệnh và giữ mối liên hệ với những người yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông. Khi Trương Định hy sinh (19-8-1864), ông viết bài Văn tế và Mười hai bài thơ điếu người anh hùng. Mười bài thơ điếu Đốc binh Phan Tòng hy sinh trong trận Giồng Gạch (1868) cũng được sáng tác tại đây.
Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho nhân dân Bến Tre một di sản tinh thần quý báu. Thơ văn của ông thấm sâu vào tâm hồn con người ở đây, tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của một vùng đất anh hùng. Cảm xúc, tình cảm của ông dành cho đồng bào, đất nước, được gói gọn trong những câu thơ đau xé lòng: 'Dân sa nước lửa bấy chầy, giặc ép mỡ dầu hết sức'. Mỗi đám tang ông là một sự kiện lớn, cả cánh đồng An Đức trắng xóa khăn tang của bạn bè, học trò, con cháu và những người được ông chữa khỏi bệnh, những đồng bào vì mến mộ tâm hồn lớn của ông.
3. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Đình Chiểu số 2
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, và thêm hiệu Hối Trai sau khi mù. Cha là Nguyễn Đình Huy, quê Thừa Thiên, mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định. Sinh và lớn lên trong gia đình Nho giáo, từ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu được giáo dục về chữ nghĩa thánh hiền. Năm 1843, ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học để chuẩn bị thi tiếp.
Năm 1849, trước trận thi, ông nhận tin mẹ mất, trở về chịu tang. Trên đường về, vì vất vả, bệnh tật và thương mẹ, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng và mù. Không khuất phục trước số phận, ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo, đồng thời viết thơ bày tỏ lòng yêu nước và căm thù quân xâm lược cùng phong kiến bán nước. Ông giữ vững tinh thần nhà Nho và lòng yêu nước cho đến hơi thở cuối cùng.
Nguyễn Đình Chiểu trải qua nhiều bất hạnh trong cuộc đời, từ tuổi thanh xuân ông đã mang theo lý tưởng cao đẹp về trí quân trạch dân, nhưng tai ương đến liên tục khiến ông không thể thực hiện được lý tưởng ấy. Mẹ mất, công danh dang dở, đính hôn thất bại, mù lòa... Nhưng ông vượt qua tất cả bằng nghị lực phi thường và tình yêu cuộc sống mãnh liệt.
Nguyễn Đình Chiểu dạy chữ, dạy đạo lý và chữa bệnh cho dân. Trái tim ông đập theo nhịp đập trái tim dân chúng, thông cảm và chia sẻ nỗi đau, nhục nhã bị áp bức và nô lệ trong bàn tay quân xâm lược. Tấm lòng nhân ái của Nguyễn Đình Chiểu đã được đền đáp một cách chân thành, nồng hậu. Nhân dân Nam Bộ dành cho ông tình cảm yêu thương và tôn kính đặc biệt. Tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu sống mãi trong lòng nhân dân Nam Bộ và cả nước.
Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu vẽ nên hình ảnh những con người lao động mộc mạc, chân chất mà ông yêu thương và mến phục. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực... là những nhân vật tư tưởng mà ông tôn thờ và được nhân dân Nam Bộ thờ phụng. Truyện thơ Lục Vân Tiên của ông ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần cộng đồng, trở thành kinh nhật tụng của người dân Nam Bộ. Ông đã để lại những bài học đạo đức cao quý về tình nghĩa, lòng yêu thương, nhân ái và truyền thống anh hùng chống ngoại xâm.
Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu chuyển biến thành tư tưởng yêu nước chống xâm lăng. Ông viết những bài thơ tâm huyết bày tỏ quan điểm: 'Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ'. Thái độ kiên quyết chống lại kẻ thù làm tăng niềm tin và khâm phục của nhân dân. Ông lên án triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, bán nước và quay lưng trước đau khổ của nhân dân: 'Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây, một bàn cờ thế phút sa tay. Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy, mất ổ bầy chim dáo dác bay' (Chạy Tây).
Những bài thơ như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư Tiều y thuật vấn đáp... của Nguyễn Đình Chiểu phản ánh rõ lập trường và quan điểm của ông, đồng lòng với nhân dân chống giặc. Ông căm hận gọi quân Pháp là quân tả đạo và lên án tàn ác của chúng. Tư tưởng yêu nước và nhân nghĩa của ông thể hiện rõ trong những câu thơ:
Thà đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ,
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.
Dù đui mà đặng trọn mình,
Còn hơn có mắt đổi hình tóc râu.
Nguyễn Đình Chiểu để lại di sản lớn cho dân tộc, với tình yêu thương và sự hi sinh không ngừng nghỉ cho nhân dân và đất nước. Tinh thần anh hùng và lòng yêu nước của ông sống mãi trong lòng người Việt Nam, là nguồn động viên và tự hào cho thế hệ sau.
Với đóng góp to lớn cho dân tộc và văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng nhận được sự kính trọng và tình cảm của nhân dân. Hoài Thanh, nhà lý luận phê bình văn học, nhận xét: 'Sự gắn bó sâu xa với quần chúng là đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, là nhân tố chủ yếu đào tạo nên con người và sự nghiệp thơ văn của ông'.
3. Văn thuyết minh về đại văn sĩ Nguyễn Đình Chiểu số 2
Trong lĩnh vực văn học Việt Nam, hiếm có người sáng tác vừa tài năng vừa cao quý như Nguyễn Đình Chiểu. Ông là một đại văn sĩ lỗi lạc của dân tộc với những tác phẩm văn chương bất hủ, đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Văn sĩ Nguyễn Đình Chiểu (hay còn được biết đến với tên gọi cụ Đồ Chiểu) ra đời năm 1822 trong một gia đình phong kiến tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định, và từ giã cõi đời vào năm 1888. Mặc dù là một nhà văn lớn của dân tộc, cuộc đời của ông trải qua những khó khăn, thăng trầm đầy gian nan. Là con đầu lòng trong một gia đình đông con, lại là con của vợ lẽ, từ nhỏ cuộc sống của ông đã đầy gian nan và vất vả. Khi Nam Kỳ bị xâm chiếm, ông được cha gửi đến Huế sống nhờ nhà bạn. Sau 8 năm theo học tại đây, ông trở về miền Nam, chăm sóc gia đình và chờ đến ngày thi cử.
Năm 1843, ông đỗ tú tài khi mới 21 tuổi. Năm 1846, ông quay lại Huế để ôn thi hội. Ba năm sau, ngay khi sắp bắt đầu kỳ thi, ông nhận tin mẹ qua đời. Ông ngay lập tức trở về Nam chịu tang mẹ, từ bỏ việc thi cử. Trên đường về quê, ông mắc bệnh. Vì xa xôi và khó khăn, bệnh tình ông càng trở nên nặng nề. Thêm vào đó là nỗi đau vì mất mẹ và sự thương tiếc đã khiến ông mất thị lực ở cả hai mắt. Cuộc mộng về thành công và danh vọng dường như tan biến, thân thể ông còn mang theo khiếm khuyết. Tưởng chừng như tương lai và cuộc sống của ông đã chấm dứt, cánh cửa cuộc sống như đóng lại. Nhưng ông quyết không bị số phận quật ngã, bằng chính ý chí mạnh mẽ và nghị lực phi thường, ông vượt qua mọi khó khăn, biến thách thức thành động lực, nâng cao đẳng cấp bản thân. Sau đó, ông trở về Gia Định, vừa giảng dạy vừa trị bệnh cho nhân dân.
Cuộc đời ông là một biểu tượng sáng ngời về tình yêu nước và lòng kiên cường trước đối thủ. Mặc dù không thể nhìn thấy ánh sáng, không tham gia trực tiếp vào chiến trường nhưng ông luôn thảo luận về vấn đề quốc gia với Đốc binh và trao đổi thư tín với Trương Định. Khi rơi vào Ba Tri (Bến Tre), Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ liên lạc với các nhà yêu nước và thường xuyên sáng tác những bài thơ hỗ trợ chiến đấu, động viên tinh thần các anh chiến sĩ bên ngoài chiến trường. Mặc dù nhiều lần ông bị quân Pháp cố gắng mua chuộc nhưng ông luôn kiên quyết từ chối và tiếp tục tham gia vào cuộc chiến đấu.
Trước khi ra đi, ông để lại một di sản vô song cho văn hóa Việt Nam, với những tác phẩm nổi bật mang đậm tư tưởng triết học, nét văn hóa dân tộc. Những tác phẩm tiêu biểu như “Dương Từ-Hà Mậu”, “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,... đã góp phần tạo nên tên tuổi của ông như ngày nay. Trong số đó, tác phẩm nổi bật nhất là “Lục Vân Tiên” – một tác phẩm xuất sắc đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Nhân vật Lục Vân Tiên trong truyện cũng là biểu tượng của nhà văn Nguyễn Đình Chiểu và cuộc sống rối bời, đầy sóng gió của chính ông ở ngoài đời. Dưới bàn tay tài năng của Nguyễn Đình Chiểu, từ nhân vật chính đến phụ, tích cực hay tiêu cực, trong truyện đều được ông mô tả một cách tinh tế, với nhiều sắc thái riêng biệt và đa dạng. Các tác phẩm của ông mang đến cho độc giả những giá trị về đạo đức, đạo lý sống trong xã hội.
Nguyễn Đình Chiểu sẽ mãi mãi là một đại văn sĩ lớn của dân tộc, và những tác phẩm của ông sẽ luôn góp phần đi sâu vào tâm hồn mỗi người con Việt Nam.
4. Bài văn thuyết minh về nhà văn Nguyễn Đình Chiểu số 5
Nguyễn Đình Chiểu, là một huyền thoại yêu nước, nhà văn, nhà thơ vĩ đại, cũng như là một bác sĩ tận tâm vì cộng đồng. Mặc dù sớm mất cả hai mắt, nhưng ông không bao giờ ngừng sáng tạo và để lại cho chúng ta những tác phẩm vô song. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu giống như một cây cổ thụ mát rượi, che bóng cho bầu trời văn học Việt Nam thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 tại tỉnh Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Ông là con của một gia đình nhà nho gốc Thừa Thiên Huế. Cha ông, Nguyễn Đình Huy, là Tổng trấn Gia Định Thành, và mẹ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới. Ông bắt đầu học chữ thầy đồ từ nhỏ và sau khi cha bị mất chức, ông được gửi đến Huế để học tiếp. Tuy nhiên, cuộc sống của ông đã đầy gian nan khi mẹ mất năm 1848. Ông bỏ thi, đưa em về Nam chịu tang mẹ. Trên đường về, vì lòng thương mẹ và hành trình đau khổ, Nguyễn Đình Chiểu mắc bệnh và mù cả hai mắt. Mất mẹ, ông mở trường dạy học và làm thuốc, cũng là thời điểm ông bắt đầu sáng tác văn chương. Ông đặt văn chương lên bản năng để truyền đạt triết lý, và sau đó làm vũ khí chống lại đối thủ giặc ngoại xâm.
Khi quân Pháp tấn công Gia Định vào đầu năm 1859, Nguyễn Đình Chiểu thấy đau đớn trước thảm họa do quân Pháp gây ra. Ông viết bài thơ “Chạy giặc” để bày tỏ lòng xót thương. Khi cuộc tập kích tại Cần Giuộc thất bại, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Khi ông chuyển đến Ba Tri, ông tiếp tục giảng dạy, điều trị và viết những bài thơ truyền động viên cho tinh thần chiến đấu của nhân dân miền Nam, mặc dù đã mất khả năng nhìn rõ. Ông rất thương xót với số phận khó khăn của nhân dân, và tạo ra nhiều tác phẩm văn tế.
Nguyễn Đình Chiểu qua đời năm 1888 tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Lễ tang ông được xem là lễ tang lớn nhất thời kỳ đó, với hàng chục vạn người từ khắp miền Nam kể cả Bắc đến viếng. Cuộc đời của ông là một biểu tượng của nghị lực và đạo đức, luôn chiến đấu không ngừng cho lý tưởng, cho quyền lợi của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là con trai hiếu thảo, người thầy tốt, mà còn là nhà thơ yêu nước, để lại nhiều tác phẩm có ý nghĩa lịch sử. Triết lý sáng tác của ông luôn hướng về chân lý và chiến đấu cho chính nghĩa, làm thơ để 'chở đạo, sửa đời và dạy người'. Mỗi bài thơ của Nguyễn Đình Chiểu đều phản ánh công bằng, rạch ròi và thể hiện tấm lòng yêu nước, là một đóng góp xuất sắc vào văn hóa và văn chương Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ đầu tiên tạo dựng hình ảnh của người nông dân trong văn học Việt, làm nổi bật anh hùng Nam Bộ đầu tiên trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược. Ông đề cao tư tưởng Nho gia, mặc dù có vẻ bảo thủ, nhưng những tư tưởng ấy mang tính nhân dân, đồng hành với trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước. Điều này đã mở ra một thời đại mới trong văn chương sử thi.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu như một tấm gương sáng, toả ra ánh sáng đặc biệt. Thơ văn của ông là 'vì sao có ánh sáng khác biệt' và 'chỉ khi chăm chú nhìn, chúng ta mới nhận ra và càng nhìn, càng thấy sáng'. Ánh sáng từ tác phẩm của ông là ánh sáng của đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước, là thành tựu nghệ thuật nổi bật, gắn bó sâu sắc với văn hóa miền Nam.
5. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu số 4
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), người xuất thân từ làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho, cha là người gốc Thừa Thiên - Huế. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông đi Huế học, nhưng khi chuẩn bị thi tiếp thì nhận được tin mẹ mất, ông phải bỏ thi về chịu tang mẹ. Trên đường về, Nguyễn Đình Chiểu đau mắt nặng và bị mù. Trở về quê nhà, ông không khuất phục trước số phận khó khăn, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và cùng các lãnh tụ nghĩa quân lên kế hoạch đánh giặc, sáng tác những bài thơ cháy bỏng thể hiện tinh thần chiến đấu.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng cho nghị lực, lòng yêu nước và tinh thần kiên cường trước kẻ thù xâm lược. Dù bị tàn tật, ông vẫn là một giáo viên tận tâm, một bác sĩ giàu lòng nhân ái và một nhà thơ xuất sắc. Trong mọi vai trò, ông luôn làm việc và hiến dâng hết mình.
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho, mang tư tưởng đạo đức và nhân nghĩa của Nho giáo. Tuy nhiên, ông cũng là một trí thức nhân dân, sống giữa những người 'dân ấp, dân lân' với tâm hồn thuần hậu, chất phác, nên tư tưởng đạo đức của ông chứa đựng những nét dân dã của những người nông dân chân chất. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện tình thương yêu con người, sẵn sàng giúp đỡ trong những thời kỳ khó khăn; là quan hệ tốt đẹp giữa con người trong xã hội, tình cha con, tình vợ chồng, tình bạn bè, tình xóm giềng, và tinh thần hiệp nghĩa sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn.
Những nhân vật lý tưởng trong Truyện Lục Vân Tiên đều là những người dân bình thường, sinh sống trong những làng quê nghèo khó (như Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh; Ngư, Quán, Tiều, bà lão dệt vải,...). Tâm hồn của họ chân thật, không quan tâm đến danh lợi, sẵn sàng giúp đỡ người khác trong lúc khó khăn. Trước Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa thường được coi là đạo đức lý tưởng, chỉ thuộc về những nhân vật thánh thiện, những người thuộc tầng lớp quý tộc. Đến Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã mở rộng đến nhân dân. Ông kêu gọi những người cầm quyền thực hiện nhân nghĩa với dân, sử dụng nhân nghĩa để chiến thắng quân thù trong chiến tranh và áp dụng nhân nghĩa trong xây dựng xã hội ổn định, giữ sức khỏe cho dân. Tuy nhiên, chỉ khi đến Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa mới thực sự lan rộng đến nhân dân. Điều này giải thích tại sao nhân dân, đặc biệt là cư dân ở Nam Kì, luôn coi trọng mối quan hệ gắn kết giữa con người với con người dựa trên nền văn hóa truyền thống, và chấp nhận tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu với sự nồng nhiệt đặc sắc.
Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ văn yêu nước trong giai đoạn đầu của cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược của Pháp để bảo vệ Tổ quốc. Đó là giai đoạn khó khăn nhưng cũng vĩ đại (theo lời Phạm Văn Đồng) của dân tộc. Đất nước từng bước rơi vào tay giặc trước tầm nhìn của nhà thơ. Các phong trào chống Pháp liên tiếp thất bại, những người yêu nước thế hệ này liên tiếp đánh bại trên chiến trường. Nhưng 'Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ'. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã làm sáng tỏ chân lý đó. Ông rơi lệ cho Tổ quốc trong những ngày đầu chịu nỗi đau:
Khóc là khóc cho đất nước chìm trong cuộc hỗn loạn, mất chủ; buồn thương vì nhiều nỗi đau:
Than là than thảo vì bờ cõi loạn lạc, ngày tháng trông chờ vị vua mất, hoàn toàn bất lực trước phong cảnh trẻ con ngơ ngác.
(Theo lời văn tế của Trương Định)
Ông tức giận đối diện mặt kẻ thù:
Mỗi mảnh đất đây đều là của chúa, được ban cho để phục vụ đất nước ta;
Bát cơm sẽ không di chuyển, những tài năng ông cha đã làm được sao lại trôi nổi đâu.
(Văn tế của nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Ông hết lời ca ngợi những người anh hùng như Trương Định, họ đã dốc hết tâm huyết vì đất nước, vì nhân dân:
Vì lòng trung hiếu, họ chẳng lắng nghe lời thánh thần, dám dựng lên chống lại kẻ thù, mang theo trái tim nhân ái cứu giúp những người đau khổ. Cảm ơn Trương Định.
(Văn tế của Trương Định)
Ông dựng bức tượng đài bất tử tưởng nhớ những người dân chân chất, dân lân: 'Sống để đánh bại giặc, chết vì nghĩa trung bình, tinh thần tiếp tục hỗ trợ binh đội' (Theo lời văn tế của nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả khi lãnh thổ bị chia cắt, Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ niềm tin vào một ngày mai tươi sáng: 'Như cơn mưa nhỏ làm sạch núi sông' (Xúc cảnh), và duy trì thái độ kiên trì, bất khuất trước kẻ thù: 'Cuộc sống thì có thể che lấp đôi con mắt, nhưng tâm hồn cần giữ nguyên một bức tượng' (Ngư Tiều, tư duy và hỏi đáp). Với những nội dung trên, có thể nói thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc những yêu cầu của cuộc sống và cuộc chiến đấu thời kỳ đó. Nó đã có vai trò động viên, khích lệ tinh thần và ý chí giữ gìn Tổ quốc của nhân dân Việt Nam.
Sắc thái Nam Bộ đặc trưng hiện rõ trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu thông qua từng nhân vật trong tác phẩm. Mỗi người dân Nam Bộ có thể nhìn thấy bản thân mình trong những nhân vật của ông qua lời nói, sự chân thành, tính mộc mạc, chất phác và tình cảm nặng trĩu, yêu thương và hận thù đến điên đảo. Họ sống tự do, thoải mái, không bị ràng buộc bởi những quy tắc, lễ nghi và sẵn sàng hy sinh vì lòng nghĩa. Họ nồng nảy, thẳng thắn nhưng cũng rất đằm thắm, tràn đầy tình cảm. Đây là những đặc trưng đặc sắc trong vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.
Như đã đề cập ở trên, Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Trãi có những điểm chung về tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Trãi cũng coi nhân nghĩa là nền tảng của sự công bằng cho nhân dân nhưng đến Nguyễn Đình Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa mới thực sự lan rộng đến nhân dân, gắn kết sâu sắc với nhân dân. Điều này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tư duy.
6. Vẻ Độc Đáo của Nguyễn Đình Chiểu, Nhà Văn Tinh Thần Yêu Nước
Văn hóa Việt Nam chứa đựng vẻ đẹp tâm hồn của những con người, và Nguyễn Đình Chiểu, tượng trưng cho lòng yêu nước của miền Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương nửa cuối thế kỷ XIX. Cuộc đời ông, mặc dù đầy gian nan và bất hạnh, nhưng luôn gắn bó với nhân dân và cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
Sinh ra trong gia đình nho giáo tại làng Tân Thới, Bình Dương, Nguyễn Đình Chiểu từng trải qua những biến cố lớn trong cuộc đời. Từ cậu ấm con quan, ông trở thành đứa trẻ chứng kiến cảnh chạy trốn, trả thù, và chống lại xâm lược. Dù mắc bệnh mù mắt và phải đối mặt với nhiều khó khăn cá nhân, ông vẫn không bao giờ quên tới nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là một nhà văn, mà còn là giáo viên, bác sĩ, và nhà tư tưởng. Cuộc sống của ông là một bài học về lòng yêu nước, kiên trì, và sự hy sinh.
Ông không chỉ sáng tác văn chương, mà còn viết về y học và giáo dục. Tác phẩm nổi tiếng như Lục Vân Tiên, Ngư Tiều, và các bài thơ như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Mười hai bài thơ và bài văn tế Trương Ðịnh, là những tác phẩm xuất sắc, phản ánh tâm hồn dân tộc, lòng yêu nước, và tinh thần chiến đấu.
Cuộc sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tượng đài về lòng yêu nước, sức mạnh của ngòi bút trong cuộc chiến tranh ý nghĩa. Với tư duy tiến bộ, ông không chỉ xây dựng văn chương chiến đấu mà còn đề cao giá trị con người. Quan điểm văn chương của ông về Ðạo và nhân ái đã tạo nên những kiệt tác vừa sâu sắc vừa gần gũi với lòng dân tộc Việt Nam.