1. Bài tham khảo số 1
Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm xuất sắc của văn chính luận, là bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn không chỉ xác nhận độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn mạnh mẽ tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập, chủ quyền đáng được tôn trọng ấy. Ở phần kết của tác phẩm, Hồ Chí Minh đã trang trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã làm cho nước ta trở thành một quốc gia tự do, độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết tâm đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh cuối tác phẩm là kết tinh sáng ngời của tình yêu nước, ý thức tự lực, tự cường và khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc. Người đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”, đúng vậy Việt Nam cũng như bao dân tộc yêu nước, chuộng hòa bình khác trên thế giới như Pháp, Mĩ chúng ta có quyền hưởng tự do và độc lập “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do, bình đẳng về quyền lợi” và quyền bình đẳng ấy là “những quyền không ai có thể xâm phạm được. Lập luận của người vô cùng trí tuệ và sắc sảo khi dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đầu tác phẩm, từ đó có cơ sở lập luận để khẳng định quyền hưởng độc lập, tự do là quyền lợi chính đáng, hợp với đạo lý và pháp lý của dân tộc Việt Nam.
Độc lập, tự do của ngày hôm nay chính là thành quả đấu tranh đoàn kết, kiên trì, lâu dài của toàn đảng, toàn dân ta “ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”. Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” đã khẳng định sức mạnh và quyết tâm mạnh mẽ của toàn dân tộc trong công cuộc bảo vệ và giữ vững nền độc lập thiêng liêng mà gian khổ, hy sinh lắm chúng ta mới giành lại được.
Lời tuyên bố của chủ tịch Hồ Chí Minh còn là lời cảnh cáo nghiêm khắc đối với thực dân Pháp, với những thế lực bạo tàn phản cách mạng đang âm mưu xâm chiếm, thôn tính Việt nam một lần nữa. Qua lời tuyên bố của Bác đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức đoàn kết sức mạnh của toàn dân, toàn quân trong việc bảo vệ nền độc lập và chính quyền non trẻ vừa được thành lập.
Như vậy, bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, ngôn ngữ đanh thép, chủ tịch Hồ Chí Minh đã mạnh mẽ tuyên bố nền độc lập, tự chủ trong niềm tự hào, đồng thời khẳng định sức mạnh và quyết tâm mạnh mẽ của cả dân tộc trong việc bảo vệ, duy trì nền độc lập ấy.
2. Bài tham khảo số 3
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh nước Việt Nam mới. Đây là văn kiện lịch sử có giá trị to lớn khẳng định quyền tự chủ, bình đẳng của dân tộc Việt Nam trên thế giới và đánh dấu mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do trên đất nước ta.
Kết thúc bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã làm cho nước ta trở thành một quốc gia tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đoạn văn trên làm rõ tư tưởng lớn của Người trong bản tuyên ngôn, thể hiện lời tuyên bố độc lập từ những chân lý: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ quyền không ai xâm phạm được: quyền sống, tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh tuyên bố tự do, độc lập thể hiện tinh thần, ý chí của toàn quân, toàn dân ta trong kháng chiến giữ vững quyền tự do, độc lập. Người tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập”. Bản tuyên ngôn “tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước, đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
“Đó là những lẽ phải không ai chối cãi”. Sau 80 năm chống ách nô lệ, dân tộc ta “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Lời tuyên ngôn khơi dậy lòng yêu nước, sức mạnh đoàn kết: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Đó là quyết tâm mạnh mẽ, chiến đấu để bảo vệ bờ cõi, chống lại âm mưu xâm chiếm của thế lực thù địch trên thế giới.
Bản tuyên ngôn là áng văn chính luận mẫu mực, văn kiện chính trị lớn tổng kết một thời kỳ lịch sử, chứa đựng nhiều chân lí, sức thuyết phục cao, thể hiện lòng quyết tâm mạnh mẽ: “Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết giữ vững quyền tự do, độc lập”.
3. Bài tham khảo số 2
Cách mạng tháng Tám thành công, vào ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hơn nửa triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời đọc bản 'Tuyên ngôn Độc lập'. Bức tranh lịch sử này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng: tuyên bố xoá bỏ vĩnh viễn chế độ thực dân - phong kiến trên đất nước ta, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một thời kỳ độc lập, tự do của dân tộc.
Khi kết thúc bản 'Tuyên ngôn Độc lập', Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố:
'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và điều này đã trở thành một sự thật. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết tâm sử dụng mọi tinh thần và lực lượng, thậm chí tính mạng và tài sản để duy trì quyền tự do, độc lập đó'.
Một tuyên bố đầy chất thép và hùng biện, đã tóm lược một cách tuyệt vời những nội dung quan trọng của 'Tuyên ngôn Độc lập'.
Đầu tiên, Chủ tịch Hồ đã khẳng định rằng 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập' vì nó là điều phản ánh đúng đạo lý và pháp lý. Đất nước và nhân dân Việt Nam, giống như mọi quốc gia, mọi dân tộc và mọi người 'được sinh ra bình đẳng (...), được ban cho quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc' ('Tuyên ngôn Độc lập' năm 1776 của Mỹ).
'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập' vì 'mọi người sinh ra đều bình đẳng về quyền lợi, và họ luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi' ('Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền' của Cách mạng Pháp năm 1791).
Trong ngôn ngữ nhân quyền, Chủ tịch Hồ đã mở rộng để nói đến quyền tự quyết của tất cả các dân tộc: 'Tất cả các dân tộc trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Điều này là một lẽ phải không ai có thể phủ nhận và vô cùng thiêng liêng. Sau hơn 80 năm bị thực dân Pháp chiếm đóng, lời tuyên bố 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập' thể hiện lòng tự hào, tự tôn của nhân dân và khao khát độc lập, tự do của đất nước và con người Việt Nam.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, 'và sự thật đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập'. Đây là một sự thật lịch sử không ai có thể phủ nhận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về những tội ác độc ác của thực dân Pháp đối với dân tộc ta trong suốt 80 năm trời. Họ áp bức, bóc lột dân ta đến tận xương tủy, 'làm cho dân ta nghèo đói, đau khổ, đất nước ta tan nát, tiêu điều'. Thực dân Pháp đã tước đoạt tự do, chìm ngập nhân dân ta trong máu và nước mắt trong đêm trường nô lệ: 'Chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn là trường học. Chúng giết những người yêu nước thương tâm của chúng ta. Chúng đổ máu cho những cuộc khởi nghĩa của chúng ta',... Trong vòng 5 năm (1940/1945), chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Pháp và Nhật đã tạo ra nạn đói năm Ất Dậu (1945) khiến hơn hai triệu người dân ta chết đói. Trước khi bỏ chạy (9/3/1945), chúng 'thậm chí tàn nhẫn giết nốt nhiều tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng'.
'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập'. Điều này là lẽ phải, là sự thật lịch sử không thể phủ nhận. Cách mạng tháng Tám đã thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, 'và sự thật đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập'. Đây là một thành tựu không thể chối cãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố mạnh mẽ và hùng biện: 'Tuyên bố chấm dứt mọi liên kết của dân tộc với Pháp, hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký với nước Việt Nam, hủy bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam'.
Độc lập và tự do là lòng khao khát, là ý chí của đất nước và con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Lời tuyên bố này vang lên như một lời thề thiêng liêng làm lay động lòng người: 'Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm sử dụng mọi tinh thần và lực lượng, thậm chí tính mạng và tài sản để duy trì quyền tự do, độc lập đó'.
Cụm từ 'Toàn thể dân tộc Việt Nam' thể hiện sức mạnh của sự đoàn kết, triệu triệu con người Việt Nam hợp nhất thành một khối không thể bị khuất phục bởi bất kỳ kẻ thù tàn ác nào! 'Tự do hay chết!', 'Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, chúng ta cũng phải bảo vệ nên độc lập!'. Quyết tâm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố một cách mạnh mẽ và hùng biện.
Triệu triệu con người Việt Nam 'quyết tâm sử dụng mọi tinh thần và lực lượng, thậm chí tính mạng và tài sản để duy trì quyền tự do, độc lập đó'.
Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cảnh báo nghiêm túc đối với thực dân Pháp đang âm mưu chiếm đóng Việt Nam một lần nữa, đồng thời kêu gọi toàn bộ dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Hơn 30 năm chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta đã thể hiện một cách hùng biện lời tuyên bố mạnh mẽ ấy. Đó là khao khát, là ý chí thép của độc lập tự do của nhân dân ta, của dân tộc ta. Một lần nữa, Người đã tuyên bố: 'Chúng ta sẵn sàng hi sinh tất cả, nhưng không bao giờ chấp nhận mất nước, không bao giờ chấp nhận làm nô lệ!'. ('Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến'-19-12-1946).
Qua hơn nửa thế kỷ, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc 'Tuyên ngôn Độc lập': Những giai đoạn lịch sử vinh quang của dân tộc ta đã trải qua rất nhiều điều đáng tự hào: Cách mạng tháng Tám - Chiến thắng Điện Biên phủ oan trái - Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng - Đất nước non sông liên một dải, Bác Hồ Nam quốc sum họp một nhà...
'Tuyên ngôn Độc lập' xứng đáng là một bức tranh văn học tuyệt vời. Nó là sự tiếp nối cho truyền thống vinh quang của 'Nam quốc sơn hà của hà', 'Bình Ngô đại cáo'. Đó là một bài hát cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng lớn lao: 'Không có gì quý báu hơn độc lập tự do', thể hiện ý chí và sức mạnh của Việt Nam.
Đọc đoạn kết bản 'Tuyên ngôn Độc lập', chúng ta càng cảm nhận được niềm tự hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã đạt được bằng máu và nước mắt của hàng nghìn thế hệ, của hàng vạn anh hùng liệt sĩ.
4. Tham khảo số 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo vĩ đại, toàn bộ tầm nhìn và phẩm cách tốt đẹp của Người được thể hiện trong cuộc cách mạng, quân sự, ngoại giao, giáo dục, văn hóa,... Trong đó, nghiệp vụ văn chương đóng vai trò quan trọng khi nói đến đạo đức tư tưởng và phong cách của Hồ Chí Minh. Việc viết văn không chỉ để làm hài lòng sở thích nhà văn, mà trong thời kỳ văn thơ của Người luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ kháng chiến, hỗ trợ cách mạng đến thành công. Có thể nói rằng, trong quá trình cách mạng suốt cuộc đời, văn thơ của Người luôn tiếp sát và đóng vai trò hỗ trợ ở mọi nơi, mọi lúc. Tính chất của văn học song hành với cách mạng được thể hiện rõ trong tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Chủ tịch, bản Tuyên ngôn độc lập, được Bác đọc vào ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với bối cảnh lịch sử quan trọng, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng, nhận ra cơ hội giải phóng đã đến, Đảng tiến hành kêu gọi nhân dân nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật. Tổng khởi nghĩa thành công, ngày 26/8/1945, Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc, về Hà Nội, ngay lập tức soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch tuyên đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước hàng triệu người dân Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt hơn 80 năm xiềng xích nô lệ, giành lại độc lập chủ quyền từ đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời chấm dứt chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ. Bản tuyên ngôn cũng là lời công kích mạnh mẽ đến các thế lực thù địch đang nhăm nhe quay lại xâm lược nước, đập tan những luận điệu xảo trá, âm mưu thâm độc của chúng. Khuyến khích, cổ vũ, động viên các dân tộc đang bị áp bức trên thế giới mạnh mẽ đứng lên giành lại chính quyền, độc lập tự chủ cho đất nước của mình, và tranh thủ sự đồng tình, thiện chí giúp đỡ của các quốc gia khác trên thế giới.
Tuyên ngôn độc lập với vai trò là một văn kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, nó không chỉ là văn kiện xuất sắc với luận điểm sắc sảo, luận cứ thuyết phục mà còn là bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Khẳng định độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm nô lệ, mở ra một giai đoạn lớn trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên của độc lập, tự do và tự chủ.
5. Tham khảo số 4
Tuyên Ngôn độc lập là một tác phẩm lịch sử và chính trị có ảnh hưởng to lớn, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, thời kỳ của sự độc lập và tự do, nhưng cũng đầy thách thức trong tương lai. Tác phẩm thể hiện niềm tự hào, mong ước mạnh mẽ về một đất nước hoàn toàn tự do, cũng như tinh thần đoàn kết mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ đất đai.
Nói về Hồ Chí Minh là nói về một định nghĩa toàn diện về 'con người', người đã dành cả cuộc đời mình cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Ngay cả trong sự nghiệp văn thơ của mình, Hồ Chí Minh đã thông minh sử dụng nó như một vũ khí mạnh mẽ, có sức mạnh lớn để phục vụ sự nghiệp chính trị và quân sự cao cả của mình. Tuyên Ngôn độc lập, trong vô số tác phẩm của ông, không chỉ là một kiệt tác văn học, mà còn mang giá trị lịch sử và chính trị, là cột mốc quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, phần kết của tác phẩm với lời tuyên bố sắc bén, mạnh mẽ, khẳng định một quốc gia độc lập mới cho Việt Nam sau hơn 80 năm bị ách nô lệ, mở ra một kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và hy vọng cho dân tộc.
Sau khi chứng minh cơ sở pháp lý với lý lẽ nhân văn và dẫn chứng từ tuyên bố của Pháp và Mỹ, kèm theo cơ sở thực tế về sự áp đặt của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đặt ra lời tuyên bố mạnh mẽ về quyền tự do và độc lập, xóa bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã ký với Việt Nam, loại bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Tuyên bố này không chỉ khẳng định mạnh mẽ sự độc lập chính trị của Việt Nam, mà còn phủ nhận những âm mưu thống trị phi lý và xảo trá của Pháp, mở ra một tương lai mới cho nhân dân Việt Nam trên cơ sở của đất nước mới, non trẻ và tự chủ.
Biết rằng việc tự khẳng định độc lập và yêu cầu sự công nhận quốc tế là khó khăn, nhưng với ngòi bút sắc bén và hệ thống luận điểm rõ ràng, Hồ Chí Minh không chỉ nêu rõ chân lý của thời đại mà còn làm sáng tỏ sự gian ác và xảo trá của đế quốc, cũng như những nỗ lực đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong hơn một thế kỷ với biết bao nhiêu máu chảy, để lời tuyên bố trở nên hợp lý và thuyết phục, nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Bản tuyên ngôn còn nhấn mạnh tinh thần tự chủ, độc lập, quyết tâm xây dựng một đất nước mới mạnh mẽ, phồn thịnh trên nền tảng của một đất nước trẻ, mới được thành lập.
Kết thúc bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh khẳng định lại tư cách độc lập của dân tộc, quyết tâm bảo vệ và giữ gìn độc lập quý báu đó bằng mọi giá. 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết định đưa ra tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để duy trì quyền tự do và độc lập đó'. Điều này là một khẳng định vững mạnh về tinh thần đoàn kết, sức mạnh tổng hợp, lòng yêu nước và tình thần hy sinh của nhân dân Việt Nam. Lời tuyên ngôn của Hồ Chí Minh không chỉ là lời của Chủ tịch mà còn là lời của toàn bộ nhân dân Việt Nam vào thời điểm đó, thể hiện tinh thần yêu nước và cảnh báo mạnh mẽ đối với những kẻ có ý định xâm chiếm đất nước, một lần nữa khẳng định quyết tâm bảo vệ và xây dựng đất nước độc lập, mạnh mẽ, sánh ngang với các quốc gia lớn trên thế giới, trên nền tảng của một đất nước non trẻ, mới được lập nên.
Tuyên Ngôn độc lập không chỉ là một tác phẩm văn học lịch sử quan trọng, mà còn là biểu tượng của tinh thần đoàn kết và quyết tâm xây dựng một tương lai tươi sáng cho Việt Nam, nền độc lập, tự do mà dân tộc Việt Nam đã chiến đấu để đạt được.
6. Tài liệu tham khảo số 7
“Tuyên bố về sự độc lập” của Hồ Chí Minh là một bản văn lịch sử chính trị quan trọng tuyên bố kết thúc chế độ thực dân phong kiến ở quốc gia, mở ra một thời kỳ mới, nơi dân tộc tự do và độc lập. Đây có thể coi là 'bài thơ thần' của thời đại mới.
Chủ tịch Hồ đã sáng tạo cấu trúc của bản tuyên ngôn với ba phần chính: cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý và lời tuyên bố độc lập.
Phần cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân bày tỏ lời tuyên bố nghiêm túc và quyết liệt: “Việt Nam có quyền tự do và độc lập và đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết tâm đưa ra tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ quyền tự do và độc lập đó”. Đây chính là tinh thần của một dân tộc anh hùng, quyết hi sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. Cụm từ 'tự do và độc lập' được lặp lại ba lần, như một dấu nhấn sâu sắc trong tâm trí hàng triệu người Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như âm thanh của kèn chiến đấu hùng vĩ. Lời tuyên bố nghe như một lời thề kiên định từ cả một dân tộc 'Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Ba đoạn cuối cùng của bản tuyên ngôn độc lập là những đoạn văn vững như thép: chất thép của ý chí Hồ Chí Minh, của ý chí Việt Nam.
Chất thép trong luận điểm buộc Đồng minh phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam, lấy lời của họ để ràng buộc họ. 'Chúng tôi tin rằng...'. Tin có ý nghĩa chặt chẽ. Mềm mại, nhưng cũng chắc chắn. Tin là sự tôn trọng họ, đánh giá tính chất tốt của họ. Đó là cách buộc họ phải tôn trọng bản thân, có nghĩa là buộc họ phải thể hiện sự nhất quán giữa lời nói và hành động, 'Không thể không công nhận' quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. 'Không thể không' hai từ phủ định nghe vững chắc hơn một khẳng định.
Chất thép trong câu tiếp theo là cái kết luận tất yếu của một cuộc tranh luận ba phần độc đáo với một câu mở ẩn mà vẫn rõ ràng. Một dân tộc không chịu khuất phục, đã không ngừng chiến đấu chống lại sự áp bức của Pháp và Nhật, dân tộc đó phải được độc lập. Phe Đồng minh bao gồm những quốc gia tự do. Một quốc gia đứng về phe Đồng minh, với niềm tin chung, với sự chiến đấu chung. Quốc gia đó phải được tự do. Dân tộc đó là dân tộc Việt Nam. Vì vậy, dân tộc Việt Nam phải được độc lập, quốc gia Việt Nam phải được tự do.
Dân tộc, tự do, độc lập. Những từ thánh thiêng trở lại cùng với những tính từ mạnh mẽ, những trạng từ gan góc, những khẳng định: 80 năm nay, mấy năm nay, những quả thật: phải được nhưng dũng cảm gõ nhịp trong một bản hùng ca đòi quyền sống.
Chất thép trong đoạn cuối cùng nằm ở tính chất trang trọng của bản tuyên bố về một sự thật, về quyết tâm bảo vệ sự thật đó bằng mọi giá. 'Việt Nam có quyền tự do và độc lập. Toàn bộ dân tộc Việt Nam quyết định đưa ra tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để duy trì quyền tự do, độc lập đó'. Mỗi từ, mỗi từ đều mang trọng lượng và sau đó những lời thề thiêng liêng vang lên từ miệng của một triệu người, trên âm thanh hùng vĩ của sóng biển bất khuất hàng nghìn năm càng trở nên vững mạnh hơn. Bản tuyên ngôn kết thúc mạnh mẽ, kiêu hùng như một lời thách thức. Những kẻ thù của Việt Nam, điên đảo vì lòng tham lam, sẽ trải qua nỗi kinh hoàng khi đối diện với chất thép của Việt Nam và trải nghiệm sự đau đớn trong lời cảnh báo của Hồ Chí Minh, của một Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Do đó, bản “Tuyên bố về sự độc lập” của Hồ Chí Minh thực sự là một tài liệu lịch sử vô cùng quan trọng. Tác phẩm được so sánh như một 'bài thơ thần' của thời đại chống lại Pháp.
7. Tài liệu tham khảo số 6
Ngày 2 tháng 9 năm 1945 đánh dấu một sự kiện to lớn, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi xem lại những thước phim tư liệu, chúng ta lại cảm thấy như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình năm ấy và lại rưng rưng cảm giác xúc động vui sướng, tự hào khi nghe giọng Bác trầm ấm “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập - một tác phẩm lịch sử đặc biệt - một bức tranh chính trị bất tử.
Được viết gọn trong khoảng một ngàn chữ, Tuyên ngôn độc lập chứa đựng những ý sâu sắc và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần truyền đạt một thông điệp, hòa quyện với nhau trong một cấu trúc mạch lạc.
Phần kết của Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Độc lập tự do không chỉ là quyền lợi mà còn là chân lý bất khả xâm phạm, yêu cầu thế giới phải thừa nhận “Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một quốc gia tự do độc lập”. Thay mặt cho toàn bộ dân tộc, Người tuyên bố “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tự do này đạt được với giá trị vô song. Để có được nó, nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh bao nhiêu, xương máu và tâm huyết. Nhưng vẫn còn nhiều thách thức đối diện với sự sống mới của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân tuyên bố trang trọng và quyết liệt “Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thực tế đã trở thành một quốc gia tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết định đưa ra tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để duy trì quyền tự do và độc lập ấy”. Đó là tinh thần của một dân tộc anh hùng quyết hi sinh tất cả để bảo vệ độc lập, tự do. Cụm từ 'tự do và độc lập' được lặp lại ba lần, như một dấu nhấn sâu sắc trong tâm trí hàng triệu người Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như âm thanh của kèn chiến đấu hùng vĩ. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, vừa khích lệ nhân dân, vừa cảnh báo kẻ thù.
Đây là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên thông báo với thế giới về sự hình thành của một nhà nước mới, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam kiên cường. Đây không chỉ là chiến thắng đầu tiên của một nước ở châu Á mà còn là một tác phẩm văn chương chính trị mẫu mực, đầy uy lực ở lý luận và từ ngữ, hình ảnh sinh động, chính xác, mạnh mẽ. Với câu văn sắc bén và hùng hồn, bản Tuyên ngôn không chỉ cảnh báo và lôi cuốn nhân dân, mà còn thu hút sự đồng tình từ cộng đồng quốc tế.
Chắc chắn, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa những chân lí lịch sử và đồng thời phản ánh tinh thần thời đại. Nó không chỉ là một tài liệu lịch sử mà còn là một tác phẩm văn chương bất hủ, là niềm tự hào của mỗi con người Việt Nam yêu nước.