Giáo sư Nguyễn Đình Chú nhấn mạnh 'Giá trị của phú không chỉ làm sống lại hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng tỏ chân lý muôn đời của dân tộc'. Bài phú nổi bật với kết cấu hô ứng, tạo đối đáp giữa nhân vật chủ và khách. Sự gặp gỡ của khách lữ khách và bô lão tạo nên không khí tâm huyết với lịch sử, kích thích niềm tự hào dân tộc. Bài văn phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu (Ngữ văn 10) mang đến cái nhìn đặc sắc và sâu sắc về tư tưởng nhân văn.
Bài tham khảo số 1 bắt đầu bằng hình ảnh lãng mạn của lữ khách, đặt ra nhiều câu hỏi về tâm hồn và khao khát hiểu biết về lịch sử. Mỗi danh thắng như Tam Ngô, Bách Việt đều là niềm kiêu hãnh của dân tộc, tạo nên một không gian đẹp mắt và trữ tình. Bài văn thể hiện tài năng văn chương khi sử dụng từ ngôn, tạo nên bức tranh sống động về văn hóa và lịch sử.
Chiều rộng và chiều sâu của sông Bạch Đằng được Trương Hán Siêu mô tả một cách tinh tế, làm tôn lên vẻ hùng vĩ và trữ tình của dòng sông. Sự kết hợp giữa vẻ thiêng liêng và thơ mộng của Bạch Đằng được tác giả thể hiện qua những dòng thơ cổ điển, làm cho độc giả đắm chìm trong không gian lịch sử và thiên nhiên huyền bí.
Ilustration Image
Raxun Gamzatop, nhà thơ của vùng núi Đaghetxtan, từng nói rằng: “Lịch sử của một dân tộc không chỉ được chấm dứt bằng máu xương, mà còn được khắc sâu bằng những dòng văn.” Nhìn vào lịch sử của dân tộc ta, với hơn bốn nghìn năm văn minh, đã trải qua bao triều đại với những người đã hy sinh vì tự do, cùng những tác phẩm văn học hùng vĩ của lớp lớp thế hệ. Điều ấy đã tạo nên một đất nước không chỉ giàu lịch sử mà còn là nơi chứa đựng những tinh hoa tinh tế trong tâm hồn con người. Đặc biệt, trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam, với nhiều biến cố và thách thức, các nhà văn, nhà thơ đã trải lòng bằng thơ, diễn đạt bằng văn, vì “thơ là tiếng lòng”. Trong số đó, không thể không nhắc đến tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng' của Trương Hán Siêu – một kiệt tác trong lịch sử văn học Việt Nam. Đặc biệt, qua khổ đầu của bài phú, chúng ta cảm nhận rõ cảm xúc dâng trào của thi nhân khi đứng trước dòng sông huyền thoại.
Trương Hán Siêu, người uyên thâm về kiến thức, được vua Trần tin tưởng và nhân dân kính trọng. Tác phẩm của ông, mặc dù không nhiều, nhưng sâu sắc và đậm đà tinh thần dân tộc. “Phú sông Bạch Đằng' được viết dưới dạng phú cổ (phú lưu thủy), không tuân theo luật lệ chặt chẽ của phú Đường, tạo nên một bức tranh phóng khoáng, nhạc thơ và dễ truyền miệng.
Bạch Đằng, là một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi đã chứng kiến nhiều chiến công lịch sử của dân tộc trong việc xây dựng và giữ nước. Đó là đề tài quen thuộc với các thi nhân như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,... nhưng Trương Hán Siêu mới là người mô tả về dòng sông ấy xuất sắc nhất. Trong một lần du ngoạn trên sông Bạch Đằng, ông đã sáng tác bài phú, có lẽ sau cuộc chiến thắng chống lại quân Mông – Nguyên. Các nhà văn từ xưa đến nay thường tìm đến thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, như Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, và sau này là Bác Hồ. Nhưng Trương Hán Siêu lại tìm đến thiên nhiên để thể hiện khát vọng ngao du thiên hạ, đồng thời tỏ ra tự hào về dân tộc. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh một nhân vật khách, tạo thêm sự hấp dẫn và chân thực cho câu chuyện:
“Khách có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
……………………..
Bèn giữa dòng chừ buông chèo
Học Tử trường chừ thú tiêu dao”
Người khách xuất hiện như một tạo hình tao nhã, túi thơ chơi vơi theo cánh buồm, sống đầy mình với thiên nhiên, khám phá mọi cảnh đẹp. Trương Hán Siêu sử dụng ngôn từ mạnh mẽ, kèm theo tính từ “chơi vơi' và “mải miết', làm nhân vật khách nổi bật với tính cách phóng khoáng, mạnh mẽ. Thú vui du ngoạn không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh mà còn để tiếp thu tri thức, bổ sung tâm hồn. Bức tranh thiên nhiên hiện lên rộng lớn, bao la với những điển cố như “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt'... Sáng đi đến sông Nguyên, sông Tương, chiều thăm Vũ Huyệt, nhân vật khách tận hưởng vẻ đẹp của mọi nơi. Mỗi chi tiết như “Đầm Vân Mộng' hay “Vương Kỳ Mộng' làm cho bức tranh trở nên rộng lớn, bao la. Nhân vật khách đã đi đến nhiều nơi, biết đến nhiều chỗ, nhưng những nơi ấy chỉ là sự mô phỏng, ước lệ, nhằm thể hiện tình yêu của Trương Hán Siêu với kiến thức và văn hóa Trung Hoa.
Qua cuộc viễn du, nhân vật khách dừng lại trước dòng sông Bạch Đằng, huyền thoại của lịch sử. Hình ảnh dòng sông được mô tả với nhiều sắc thái, từ tự hào, phấn khởi đến buồn thương, tiếc nuối. Dòng sông vừa hùng vĩ, vừa dịu dàng, huyền bí, thơ mộng. Trương Hán Siêu miêu tả cảnh sắc, làm tăng thêm cảm xúc và tự hào khi đứng trước một dòng sông lịch sử. Thời tiết chuyển sang thu, cảnh sắc lại làm con người ta xao xuyến, tự hào. Nhưng khi đứng trước dòng sông đó, lòng người lại tràn ngập niềm tiếc thương về quá khứ, về những ngày đau thương. Dòng sông đẹp đến mức làm mất đi vẻ buồn của thơ Tản Đà, làm nổi bật hơn bức tranh huyền bí trong thơ của Trương Hán Siêu:
“Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành.”
Khung cảnh làm nổi bật niềm đau trong thơ Tản Đà, nhưng đối với Trương Hán Siêu, dòng sông mang lại cảm xúc gìn giữ, tự hào, nhưng cũng buồn thương và tiếc nuối. Trải qua biết bao chiến tranh, dòng sông giờ đây chỉ còn lại gươm giáo và xương cốt của những anh hùng đã ngã xuống. Tình cảm đối với dòng sông hiện lên rất rõ trong từ ngữ “san sát”, “đìu hiu' làm cho nó trở nên hoang vắng, ảm đạm, thê lương. Tất cả những gì còn lại là những dấu vết đau thương của quá khứ, không thể xóa nhòa được. Thơ Trương Hán Siêu gợi nhớ đến bài “Cửa biển Bạch Đằng' của Nguyễn Trãi:
“Ngạc chặt kim băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi tầng tầng
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Khung cảnh đìu hiu khiến nhân vật khách buồn thương, “đứng lặng giờ lâu”, như là sự đắm chìm trong nỗi nhớ và tôn kính. Có lẽ, đó chính là tâm hồn lớn lao của một con người nhân đạo, có thế giới nội tâm sâu sắc, không chỉ yêu thiên nhiên và dân tộc, mà còn biết đau xót cho cả những kẻ thù, những con người vô tình bị cuốn vào cuộc chiến tranh. Mỗi dòng thơ là như những nốt nhạc trong bản anh hùng ca, dâng lên như sóng cả nghìn năm của dòng sông Bạch Đằng, làm cho thế hệ sau không khỏi tự hào. Đồng thời, đoạn trích thể hiện đỉnh cao nghệ thuật của thể phú, thể hiện tài năng và vẻ đẹp sâu sắc trong tâm hồn con người Trương Hán Siêu – “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy' (Sê – khốp).
Minh họa hình ảnh
3. Tài liệu tham khảo số 2
Trong văn chương trung đại, việc mô tả về thiên nhiên đã trở nên phong phú. Các nhà văn, nhà thơ lựa chọn thiên nhiên như một bức tranh để thể hiện tâm trạng đa dạng. Cao Bá Quát sử dụng thiên nhiên để phản ánh tâm trạng chua xót không lý do. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn thiên nhiên làm phương tiện để thể hiện triết lí cao quý trước sự hối hả của thế gian... Trong bài phú 'Sông Bạch Đằng', Trương Hán Siêu mang đến hình ảnh thiên nhiên với một tâm trạng đặc biệt. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới hùng vĩ, rộng lớn với những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt - những địa điểm mà những nhà thám hiểm trước đó đã từng trải qua, tỏ ra như một con người có tâm hồn tự do, phóng khoáng:
Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Khách cũng là người đã đi nhiều, biết rộng:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên - nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, từng hành trình qua đất trung hoa rộng lớn trước khi viết nên bộ sử kí bất hủ.
Liệu khách nói về Tử Trường để chia sẻ tâm hồn đồng điệu với những người xưa. Đi xa không chỉ để tiêu dao, ngắm hoa vọng nguyệt, mà quan trọng hơn là tìm đến những nơi cha ông đã dành cả thanh xuân lập chiến công lớn để góp phần làm vẻ vang cho lịch sử, để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.
Điều này làm rõ vị thế vị khách thật cao quý, chí khí hào hùng. Người đọc có thể cảm nhận vẻ đẹp ấy trong lời kể tự hào của khách. Khách nhắc đến nhiều địa danh quen thuộc trong sách vở Trung Quốc, mặc dù chúng cách xa nhau hàng nghìn dặm, làm sao có thể đến trong một sớm, một chiều (Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương – Chiều lần thăm Vũ Huyệt – Cửu Giang, Ngũ Hồ – Tam Ngô, Bách Việt). Điều này chỉ là cách thể hiện ý tưởng ước lệ, nhưng quan trọng là nó tạo ấn tượng rõ về những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, thể hiện niềm đam mê tự do, phóng khoáng của nhân vật khách. Sự hứng thú với cuộc viễn du mở đầu bài phú thực sự chỉ là sự chuẩn bị cho không khí thích hợp trước khi bước vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.
Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu truyền đạt là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ muôn đời của dòng sông Bạch Đằng. Con sông này thật hùng vĩ, rộng bát ngát và dài muôn dặm. Điều đặc biệt là nó không chỉ là đại giang mà còn là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với những lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng chú ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, dòng Bạch Đằng còn mang đặc điểm dịu dàng, duyên dáng và thơ mộng: những con thuyền nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông; đã cuối thu rồi nên nước xanh, trời xanh; hai bên bờ lau lách xào xạc, đìu hiu...
Đối mặt với cảnh sông nước hùng vĩ và thơ mộng đó, tác giả trải qua sự pha trộn giữa niềm vui và nỗi buồn. Đây là chiến trường ác liệt của quá khứ, chúng ta giành chiến thắng lớn, nhưng làm thế nào để kể hết những hi sinh mất mát với bao giáo gãy, xương khô. Trời nước, lau lách như gợi lại câu chuyện xưa, khiến người hôm nay không tránh khỏi cảm giác tiếc nuối, đau xót cho những anh hùng đã khuất. Trong đoạn thơ này, ta cảm nhận được nỗi buồn cao quý qua những câu thơ âm nhạc, với điệu cảm khái:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Sau này, Nguyễn Trãi khi thăm cảnh Bạch Đằng cũng trải qua nỗi buồn tương tự.
Qua việc phân tích khổ thơ đầu tiên của bài phú Sông Bạch Đằng, người đọc có thể cảm nhận những mạch cảm xúc xen kẽ nhau, mở rộng tầm nhìn thông qua non kỳ thủy tú của giang sơn và đồng thời lắng đọng với sự hy sinh của những chiến sĩ anh hùng đã bước qua những trận chiến gian khổ để bảo vệ dân tộc.
Hình minh hoạ
Lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam ẩn chứa vô vàn chủ đề hấp dẫn, lấy cảm hứng từ những điểm đặc biệt trên bản đồ đất nước. Mỗi địa danh đều kể một câu chuyện hùng vĩ, như Chi Lăng, Hàm Tử, Đống Đa. Tuy nhiên, địa danh nổi bật nhất, là nguồn cảm hứng không ngừng cho các tác giả, chính là Bạch Đằng trong lịch sử - nơi diễn ra những trận đánh đầy kịch tính, kiên cường chống lại quân xâm lược từ phương Bắc.
Trong thời kỳ văn hóa trung đại, nhiều tác giả tài năng đã ghi lại tác phẩm về Bạch Đằng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Mộng Tuân,... Tuy nhiên, thành công nhất phải kể đến tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng' của Trương Hán Siêu. Tác phẩm này được đánh giá cao, coi như kiệt tác nổi tiếng nhất trong văn học trung đại.
“Phú sông Bạch Đằng' lấy cảm hứng từ sông Bạch Đằng - nơi chứng kiến nhiều chiến công vĩ đại. Sáng tác vào khoảng năm năm chục năm sau cuộc chiến chống quân Mông Nguyên, khi nhà thơ lang thang trên sông Bạch Đằng. Thể loại phú được sử dụng để mô tả cảnh đẹp, hoặc kể về một sự kiện thuộc loại phú cổ thể.
Trong văn chương trung đại, thiên nhiên thường được mô tả rất nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên với những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát tìm đến thiên nhiên để thể hiện tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng thiên nhiên để truyền đạt đạo lý thanh cao trước thời đại hối hợp danh lợi...
Trong bài “Phú sông Bạch Đằng', Trương Hán Siêu khám phá thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Bài phú bắt đầu bằng việc đưa người đọc vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, nơi mà những du khách đã từng bước chân; qua đó, nhà thơ thể hiện bản thân là người tự do, yêu thích du ngoạn, chiêm ngưỡng cảnh đẹp tự do:
“Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi tràng mải miết
Sớm gõ thuyết chừ Nguyên Tương
Còn là người trí thức rộng lớn, đi nhiều, am hiểu nhiều:
“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Nhưng tâm hồn rộng lớn, khoan dung, khám phá
“Tráng chí bốn phương' của “khách' được thể hiện thông qua việc kể về nhiều địa danh: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt mở ra một không gian rộng lớn với những tên sông, tên đất nước Trung Hoa, thể hiện tác giả là người có tâm hồn mở lớn, khoan dung, thông hiểu.
Những địa danh đầy ước lệ, lấy từ điển cổ Trung Quốc, là những nơi mà tác giả đi qua trong trí tưởng tượng. Mục đích du ngoạn của tác giả là khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và nghiên cứu về lịch sử dân tộc, được thể hiện qua “giương buồm giong gió' và “lướt bể chơi trăng', cùng câu thơ “Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”. Các dòng thơ trên cho thấy tác giả là người tự do, thích thú du ngoạn khắp nơi, tự do mình với thiên nhiên. Đó thực sự là một tri thức mê mẩn, biết nhiều như người xưa nói “Trí giả nhao thủy”.
Tiếp theo, tác giả mô tả cảnh sông nước Bạch Đằng. Con thuyền dẫn khách đến sông Bạch Đằng. Bức tranh của tác giả về sông nước rực rỡ, vừa hùng vĩ mà cũng rất nên thơ:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu”
Phép thuật nghệ thuật ẩn dụ ở hình ảnh “sóng kình' gợi lên những dòng sóng lớn như bầy cá voi. Hình ảnh “đuôi trĩ' cho thấy những chiếc buồm nối nhau trên sông. Màu nước và màu trời hòa quyện với nhau. Vẻ đẹp hùng vĩ, nên thơ của sông làm tác giả hạnh phúc và tự hào trước vẻ đẹp. Sau đó, “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu' khắc sâu nỗi buồn niềm nhớ.
“Buồn vì cảnh thẳm đứng làng giờ lâu' - đó là sự thương tiếc gắn liền với sông, nhưng chiến trường xưa giờ chỉ còn là vùng đất hoang vu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Thời gian làm mờ dấu vết, hơn một trăm năm sau Nguyễn Trãi khi đến đây cũng tưởng tượng ra cảnh:
“Ngạc chặt, kình băm non lởm chởm
Giương chìm giáo gãy biết bao tầng”
Đó là niềm nhớ về những anh hùng hi sinh
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Đặt vào ngữ cảnh của tác giả khi sáng tác bài Phú, khi nhà Trần bắt đầu suy thoái, niềm hồi ức ấy là nỗi buồn thương tiếc về một thời kỳ hào hùng của đất nước. Bài “Phú sông Bạch Đằng” thể hiện công lao lớn của các anh hùng thời Trần, đồng thời là niềm hạnh phúc, lòng tin mạnh mẽ vào cuộc sống và tương lai của đất nước. Đây là một bài Phú có cấu trúc chặt chẽ, nhịp điệu linh hoạt, ngôn từ sôi động, đầy cảm xúc.
Qua đó, chúng ta thấy được những chiến công vĩ đại, chiến lược giữ nước thông minh của dân tộc, cũng như lòng yêu nước của nhân dân nhà Trần vào thời điểm đó. Vì vậy, chúng ta cần giữ gìn, phát huy để đất nước phồn thịnh, đồng thời biết trân trọng cuộc sống hiện tại vì đã có nhiều anh hùng hi sinh để mang lại hòa bình như ngày nay.
Hình ảnh minh họa
5. Tác phẩm tham khảo số 4
'Bạch Đằng giang phú' - một tác phẩm phú nổi bật nhất trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, qua tác phẩm này, Trương Hán Siêu không chỉ tôn vinh lòng anh hùng kiên cường của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp lịch sử của quê hương. Ngay từ đoạn mở đầu, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Bạch Đằng, nơi ghi chép những trang sử lịch sử hùng vĩ của dân tộc.
Tác phẩm tái hiện vẻ đẹp tự nhiên của sông Bạch Đằng qua con mắt và trải nghiệm của nhân vật 'du khách', mà chính tác giả là người thích phiêu lưu, tự do và sáng tạo:
'Du khách giữ kì vọng...
Khám phá bể sâu trăng lấp lánh'
Nhân vật 'du khách' liệt kê những địa danh dựa trên tri thức và trải nghiệm du lịch, điều này đã tạo nên sự rộng lớn và đa dạng của kiến thức văn hóa, với những địa danh như sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
'Sớm bắt thuyền, chạy ngang Nguyên, Tương...
Đầm Vân Mộng ẩn chứa bí mật sâu kín trong lòng'
Du khách tự tin tuyên bố rằng 'Ở nơi nào có chân người đi qua, đó là nơi tôi biết', nhấn mạnh sự hiểu biết sâu rộng và đa dạng của mình, đồng thời bày tỏ niềm khao khát lớn và lòng đam mê với vẻ đẹp tự nhiên. Bên cạnh những địa danh Trung Quốc, nhân vật du khách còn nhắc đến những địa danh Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, thể hiện tình yêu thiên nhiên say đắm và sự hiểu biết đa chiều về vẻ đẹp tự nhiên. Thông qua sự yêu thiên nhiên, nhân vật du khách mô tả cảnh sắc của sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sinh động, đặt ra nhiều khía cạnh đẹp khác nhau:
'Tới sông Bạch Đằng, thuyền bơi dịu dàng...
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô'
Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, nguy hiểm 'sóng kình muôn dặm' nhưng không thiếu phần quyến rũ, trữ tình 'Thướt tha đuôi trĩ một màu', trên những đợt sóng dữ dội đó là những chiếc thuyền đuôi nhau như đuôi chim trĩ êm đềm trôi trên sóng. Đất trời và sông nước tạo ra một hình ảnh tự nhiên hài hòa 'nước trời: một sắc' bầu trời và mặt nước cùng một tông xanh dịu dàng, 'phong cảnh: ba thu' thể hiện phong cảnh ở độ chín nhất trong tháng thứ ba của mùa thu. Cảnh sắc của đất trời đánh thức một không gian thơ mộng, nhưng cũng mang theo nét buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, những từ ngữ 'san sát', 'đìu hiu' làm nổi bật sự cô đơn, hoang vắng của con sông, những bờ lau trắng liên tiếp trên bờ sông, bến lách đìu hiu tạo nên cảnh tượng cô quạnh, đậm chất thơ trữ tình. Nhưng nơi đây cũng chính là chiến trường sinh tử, nơi nhiều anh hùng đã hi sinh, máu đỏ rơi xuống dòng sông, dưới sông là những thanh gươm hiên ngang, trên gò là những xương khô đầy bản năng. Những dấu vết đó là biểu tượng của lịch sử hào hùng, đồng thời đem lại sự tiếc thương cho những mất mát, những hy sinh.
'Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giây lâu...
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu'
Điều này khiến nhân vật du khách tràn ngập cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến công lịch sử lừng lẫy của dân tộc đến nỗi buồn thương, tiếc nuối vì giá trị lịch sử đang dần mờ nhạt, phai tàn. Điều này gợi nhắc độc giả về trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn những giá trị lịch sử, để kính nhớ công ơn của những anh hùng đã hy sinh, điều này đã làm nên nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam ngày nay.
Minh họa
6. Tác phẩm tham khảo số 7
Trương Hán Siêu, một học giả uyên bác, từng đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong triều đình và đóng góp lớn cho cuộc chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ của nước ta, có ít tác phẩm nói về sông Bạch Đằng, nhưng 'Phú sông Bạch Đằng' của Trương Hán Siêu được coi là một kiệt tác. Bài thơ là biểu hiện của tình yêu quê hương, niềm tự hào về dân tộc bản địa.
Tác phẩm này được sáng tác bằng chữ Hán, sau đó được rất nhiều tác giả dịch ra. Bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên là nguồn cơ sở cho bài viết này. Đoạn mở đầu của bài phú mang đến một bức tranh hùng vĩ, bao la với Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn tự do, phóng khoáng của người lữ khách:
Giương buồm, chơi vơi gió,
Lướt bể chơi trăng, mải miết
Nhân vật 'lữ khách' ở đây chính là Trương Hán Siêu. Với tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên như một tinh thần tự do, tự tại với bình rượu và bộ thơ du dương khắp nơi. Nhưng dù đã đi qua nhiều nơi, biết nhiều, sự hài lòng vẫn chưa đến:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Nhưng tâm hồn chí vẫn tha thiết bốn phương
Tuy nhiên, việc đi nhiều, biết nhiều không chỉ để ngắm cảnh, mà còn quan trọng hơn là để hiểu rõ hơn về cuộc sống và về chính mình. Khi đến sông Bạch Đằng, lữ khách chính là để tìm về nơi cha ông đã ghi dấu chiến công lớn, để chiêm ngưỡng, thưởng thức, tôn vinh và suy ngẫm. Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh sắc hùng vĩ: Bát ngát sóng kình muôn dặm. Bởi vì sông rộng 'bát ngát' và dài 'muôn dặm', Bạch Đằng không chỉ là một con sông lớn mà còn là một chiến trường lịch sử với những lớp sóng cuồn cuộn theo triều dâng. Tuy nhiên, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp dễ thương, thơ mộng: nước xanh mát mắt trong mùa thu, thuyền trôi dập dềnh tạo nên một khung cảnh trữ tình. Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm nhận được sự trái ngược giữa vui mừng và buồn bã. Đây chính là nơi diễn ra những trận chiến, nơi lịch sử ghi chép những chiến công vẻ vang, nhưng cũng là nơi chứng kiến những quyết tử, những mất mát. 'Giáo gãy', 'xương khô', 'trời nước', 'lau lách vắng ngắt' gợi lên nỗi đau, xót thương. Chính vì thế, người đương thời không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Có thể nói, 'Phú sông Bạch Đằng' là một bài ca yêu nước, thấu hiểu tình yêu quê hương và tự hào về dân tộc bản địa. Bài thơ với bố cục hài hòa, nhịp điệu linh hoạt, từ ngôn ngữ súc tích nhưng đầy cảm hứng, đã làm cho độc giả tự hào hơn về vùng đất hùng vĩ và biết ơn thế hệ cha ông đã gìn giữ cho quốc gia thanh thản ngày nay. Đó chính là giá trị cao quý nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại nước ta.
Trình bày hình ảnh
7. Tài liệu tham khảo số 6
Trương Hán Siêu, một học giả uyên bác, từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong triều đình, góp phần quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ của nước ta, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xem là một siêu phẩm. 'Phú sông Bạch Đằng' thể hiện tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc.
Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, rồi được nhiều tác giả dịch. Bài viết này dựa trên bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên. Bài phú mở đầu với một khung cảnh hùng vĩ, bát ngát với Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và tâm hồn tự do của lữ khách:
Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Nhân vật 'khách' là Trương Hán Siêu, một nhà thơ với tâm hồn tự do, táo bạo, mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du. Mặc cho chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Mặc dù mặc khách đi nhiều, biết nhiều, không chỉ để ngắm cảnh mà còn để hiểu thêm về đời, về bản thân. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách là để tìm về nơi cha ông đã chiến đấu để thưởng thức và suy ngẫm. Sông Bạch Đằng, đại giang trường giang, với sóng cuồn cuộn triều dâng, vừa hùng vĩ vừa duyên dáng, thơ mộng. Lữ khách cảm thấy buồn vui lẫn lộn, đây là nơi chứng kiến những trận đánh, vừa thắng vang vừa đau buồn. 'Giáo gãy”, 'xương khô”, 'trời nước”, 'lau lách vắng ngắt' gợi lên nỗi đau thương.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
'Phú sông Bạch Đằng' là bài ca yêu nước, tỏ ra tự hào về dân tộc. Bố cục tổng quan, nhịp điệu biến hóa, lời văn cô đọng, dạt dào cảm hứng, là một trong những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại nước ta.
Mỗi nhà thơ, mỗi ngòi bút đều tìm cảm hứng từ địa danh lịch sử, Bạch Đằng là một điểm đến lịch sử hào hùng. Trương Hán Siêu để lại dấu ấn qua bài phú:
“Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
Thú vui của những tao nhân mặc khách, là bầu bạn với thiên nhiên, uống rượu thưởng trăng, ngâm thơ. Nhân vật trữ tình mang niềm yêu say thiên nhiên, khát khao chu du sơn thủy. Câu thơ mở đầu với chất hào hoa, lãng mạn, tạo nên cảm nhận về phong thái, tư thế của nhân vật trữ tình.
Chơi vơi, lướt bể, mải miết, từ ngữ góp phần tạo nên cảm nhận về tâm thế của nhân vật, là một lữ khách có chí hải hồ, thích ngao du sơn thủy, bầu bạn, bầu thơ túi rượu thân tình cùng gió trăng thiên nhiên. Các từ chỉ thời gian tạo nên sự xuyên suốt cho hai câu thơ.
Liệt kê các địa danh nổi tiếng thể hiện trải nghiệm sâu rộng, phong phú của nhân vật. Đây cũng là ý thức thị tài của người sĩ thời xưa, họ luôn ý thức về địa vị, học thức và vốn sống của mình. Tuy đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học Tử Trường, như một cách thể hiện tâm hồn đồng điệu với người xưa. Chu du không chỉ để thỏa thú xê dịch mà còn để tìm về với những di tích lịch sử, để đồng điệu, đồng cảm, trân trọng những người đã hy sinh vì giang sơn nghìn thu.
Bài phú bắt đầu với cảnh tượng rộng lớn, hùng vĩ về địa điểm đã đặt chân, nhưng cũng làm dấy lên cảm xúc ngậm ngùi, lắng đọng về thế hệ đã ngã xuống tại đây:
“Sông chìm giáo gãy,
Gò đầy xương khô.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”
Khổ thơ đầu của Phú sông Bạch Đằng gợi lên mạch cảm xúc đan quyện, mở rộng tầm mắt và lắng sâu với sự hy sinh của người anh hùng đã ngã xuống vì dân tộc.
Minh hoạ với hình ảnh đặc sắc