1. Bài tham khảo số 1
Trong thế giới văn chương, hình tượng người mẹ luôn là một biểu tượng thiêng liêng, gần gũi với trái tim người viết. Những bài thơ về mẹ của những nhà thơ đã chạm đến lòng độc giả bằng những cảm xúc sâu lắng. Tố Hữu, một nhà thơ tài năng, đã để lại những dòng thơ đặc sắc như trong bài 'Bầm ơi'.
Theo ghi chép của tác giả, bài thơ Bầm ơi được sáng tác tại xã Gia Điền, Hạ Hòa (Phú Thọ) trong những năm 1947 - 1948, khi đoàn văn nghệ sĩ của ông dừng chân tại đây. Tại ngôi nhà của bà cụ Nguyễn Thị Gái, nơi ông ở, Tố Hữu đã cảm nhận được tình yêu thương từ người mẹ già tảo tần, là nguồn cảm hứng cho bài thơ nổi tiếng này.
Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là hiện thực đẹp về tình cảm mẹ con, sự hy sinh của người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh. Ông mô tả hình ảnh bầm làm việc, ruộng cấy, chăm sóc mạ non, với ruột gan thương con nhiều lần. Tất cả được diễn đạt qua nhịp thơ lôi cuốn, gần gũi với độc giả:
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!”
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi đong đầy tình cảm thương xót, với tiếng kêu 'bầm ơi' vừa xót xa vừa chứa đựng tình yêu. Hình ảnh bầm lội dưới bùn, chịu lạnh, nhưng vẫn tiếp tục lao động vì thương con và chiến tranh, là biểu tượng của vẻ đẹp hy sinh của phụ nữ Việt Nam.
Tố Hữu phân tích bức tranh cuộc sống của bầm, với sự éo le và trớ trêu. Một người mẹ 7,8 thương con không bằng một người mẹ 9,10. Hình ảnh tảo tần của bầm không chỉ là cụ Gái mà còn đại diện cho vẻ đẹp hy sinh của phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh.
Thơ thể hiện lòng thương con, mong muốn điều tốt đẹp nhất cho bầm. Dù con phải xa quê, nhưng tác giả khẳng định tình thương mãi mãi không phai nhòa. Bài thơ là sự ca ngợi đức tính của người mẹ, những người phụ nữ vĩ đại trong thời chiến tranh.
Đồng thời, Tố Hữu nhấn mạnh sự đoàn kết, ủng hộ của những người dân đối với chiến sĩ. Bức tranh cuộc sống, những người mẹ vệ quốc như một nguồn động viên lớn. Tác giả sử dụng thể thơ lục bát và vần thơ 7 chữ để nhấn mạnh tình yêu thương đặc biệt của những người mẹ vĩ đại.
Bài thơ kết thúc bằng lời chúc bầm yên tâm, khi con lớn lên, giặc tan, con sẽ trở về. Tình cảm mãi mãi, như tình mẹ dành cho con. Tố Hữu kết thúc bài thơ bằng những dòng thơ diệu kỳ:
“Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…”
Những người con ra đi sẽ trưởng thành, nhưng bầm vẫn nhớ con, vẫn dành cả cuộc đời để thương nhớ. Tác giả chia sẻ sự thấu hiểu về tâm trạng của người mẹ ở lại và mong bầm luôn yên tâm. Bài thơ là một tác phẩm ca ngợi tình cảm mẹ con, là biểu tượng của sự hi sinh và tình thương vô bờ bến của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh.
2. Tài liệu tham khảo số 3
Suốt từ thời kỳ xa xưa, hình tượng người mẹ đã trở thành một nguồn cảm hứng phong phú cho nhiều nhà thơ, đặc biệt là khi chúng ta nói đến đề tài về mẹ trong thời kỳ chiến tranh. Trong số đó, bài thơ 'Bầm ơi' của nhà thơ Tố Hữu nổi bật lên với sự diễn đạt về vẻ đẹp của người mẹ trong những thời điểm khó khăn nhất.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã đặt ra một câu hỏi đầy tình cảm: “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…” Dù đã lâu mà chúng ta phải rời xa vùng đất yêu dấu đó, nhưng tâm trạng nhớ mãi không bao giờ phai nhạt. Bài thơ không chỉ là tác phẩm của tác giả mà còn là câu chuyện của chúng ta, những người chơi chơi xổ sốu giữ trong lòng một nỗi nhớ mẹ sâu sắc, nhưng không biết diễn đạt ra sao, cuối cùng chỉ có thể thầm thương trong lòng.
Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Âm thanh của lời kêu 'Bầm ơi' vừa buồn thương vừa ấm áp, đó là lời gọi tình cảm của đứa con gửi đến mẹ. Hình ảnh mẹ run rẩy, lội dưới bùn trong thời tiết khắc nghiệt khiến cho đứa con không thể kìm lại nước mắt.
Theo quy luật, lúc ấy mẹ nên được con chăm sóc, nghỉ ngơi, nhưng vì tình yêu thương đối với con, và vì chiến tranh kéo dài không ngừng, mẹ không ngần ngại khó khăn, miệt mài làm việc để đồng hành cùng con chiến đấu.
Hình ảnh của người mẹ Việt Nam, với tình yêu thương và lòng hy sinh, đã lưu lại trong tâm trí của mọi người, đặc biệt là hình ảnh của người mẹ, người vợ trong bối cảnh chiến tranh.
Tình cảm của người mẹ thường muốn mang đến cho con những điều tốt đẹp nhất. Điều đó được thể hiện rõ qua cảnh nước lũ lụt, nhưng mẹ không chấp nhận rời đi. Nhà thơ thấu hiểu tâm trạng của những người con có mẹ, rằng hãy yên tâm 'Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe'. Đó là lời dặn dò dịu dàng nhất của đứa con gửi đến mẹ. Dù con có trở thành người lớn ra sao, khi quay về nhà, con vẫn là đứa trẻ trong tâm hồn mẹ.
Dù 'con ra tiền tuyến xa xôi' với nhiều gian khổ khó khăn, nhưng bên cạnh con vẫn có những đồng chí và nhất là những nguồn hậu phương vững chắc như mẹ. Những người mẹ ấy cũng 'Bao bà cụ từ tâm như mẹ/ Yêu quý con như đẻ ra con/ Cho con nào áo nào quà/ Cho con củi sưởi, cho nhà con ngơi.'
Những người chiến sĩ ra đi đôi khi không biết khi nào sẽ trở về, lời hứa chỉ là khi nào giặc tan, đất nước yên bình, con sẽ về. Tố Hữu cũng như vậy, ông không thể biết mình sẽ đi trong bao lâu, nhưng chỉ có thể gửi những lời động viên đến mẹ để an ủi.
“Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…”
Những ai trải qua những thời kỳ mưa bão đạn đuối sẽ hiểu rằng cảm giác gia đình hội ngộ là một trải nghiệm thiêng liêng và ấm áp như thế nào. Mẹ ở nhà với nỗi nhớ đau thương con, liệu sau chuyến đi này, con có trở về nữa hay không? Nỗi nhớ của mẹ cứ như thế, đau lòng, thảm thiết đến không thể tả.
Có thể thấy được sự tinh tế và tài năng của nhà thơ Tố Hữu thông qua những câu thơ nhẹ nhàng. Và chỉ có tâm hồn đa cảm mới có thể sáng tác ra những dòng thơ đầy xúc động như thế. Chắc chắn, những người lính phải xa quê hương lúc bấy giờ khi đọc bài thơ này sẽ không giữ nổi nước mắt vì sự xúc động.
Qua bài thơ 'Bầm ơi' của tác giả Tố Hữu, chúng ta có thêm cái nhìn sâu sắc về thời kỳ chiến tranh ngày xưa, cũng như về tình cảm quê hương đặc biệt giữa quân và dân. Ở những vùng mà quân đội đi qua, dân chúng không chỉ đón tiếp một cách nồng hậu, họ trân trọng và quý trọng tình cảm của những người con xa nhà ấy, hi vọng rằng tinh thần đoàn kết của họ sẽ làm nên những chiến thắng vẻ vang.
3. Nguồn tham khảo số 2
Bầm ơi, một tác phẩm xuất sắc chiếm vị trí quan trọng trong tập Việt Bắc (1954) của danh nhân văn học Tố Hữu. Trong những năm 1947, 1948, hành trình của đoàn văn nghệ sĩ dừng chân tại Gia Điền. Tại đây, những tên tuổi như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, và Nguyễn Huy Tưởng đã chọn ngôi nhà của bà cụ Nguyễn Thị Gái, thôn Gốc Gạo xã Gia Điền, làm điểm dừng chân.
Bài thơ 'Bầm ơi' chính là biểu tượng của tình cảm chân thành mà nhà thơ dành cho người mẹ tận tâm này. Bà Gái, một người mẹ hiền lành và ân cần, đã cởi lòng đón tiếp các nhà văn, nhà thơ, chuyển giường lên cho họ, và tự rủ xuống bếp ngủ khi khách đến.
Nội dung của bài thơ Bầm ơi là câu chuyện về Nguyễn Thị Gái, một người mẹ vô cùng yêu thương con. Trong bức tranh miêu tả về Gia Điền - nơi đóng chân của các nhà thơ, Tố Hữu đã khắc họa sâu sắc tình cảm của mình đối với người mẹ.
Câu hỏi khẩn cấp vang lên từ đầu bài thơ: “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…” Dù thời gian đã qua lâu, khi con phải rời xa quê hương, tình thương mãi không phai nhạt. Bài thơ không chỉ là tác phẩm của Tố Hữu, mà còn là câu chuyện của chúng ta, những đứa con giữ mãi trong lòng niềm nhớ mẹ, chỉ biết thầm thương trong trái tim.
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Âm thanh của lời gọi 'Bầm ơi' không chỉ buồn thương mà còn ấm áp, là tình cảm của đứa con gửi đến mẹ. Hình ảnh mẹ run rẩy, lội dưới bùn trong thời tiết khắc nghiệt làm cho đứa con không kìm được nước mắt.
Mẹ thường muốn đem lại điều tốt nhất cho con. Điều này được thể hiện qua cảnh mẹ lội qua lũ lụt, không chấp nhận rời bỏ. Tố Hữu thấu hiểu tâm trạng của những đứa con có mẹ, dặn dò nhẹ nhàng: 'Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe.' Dù con trở thành người lớn ra sao, khi quay về nhà, con vẫn là đứa trẻ trong trái tim mẹ.
“Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…”
Những người chiến sĩ ra đi không biết khi nào trở về, hứa rằng khi giặc tan, đất nước yên bình, con sẽ về. Tố Hữu gửi những lời động viên đến mẹ để an ủi.
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Người mẹ ở nhà giữ nỗi nhớ thương con, liệu sau chuyến đi này, con có trở về nữa hay không? Nỗi nhớ của mẹ như một chiếc lưới, ôm trọn con. Đoạn thơ cuối cùng khắc họa tâm trạng của mẹ, đau lòng, thảm thiết đến không thể tả.
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Mỗi bước chân của con là một thách thức, một gian nan, nhưng cũng là niềm tự hào của mẹ. Đau khổ, lo âu, nhưng trong tâm hồn mẹ vẫn tự hào vì con, là người con hùng cường và trưởng thành. Bài thơ 'Bầm ơi' là hình ảnh thiêng liêng về tình yêu thương của mẹ dành cho con, như một nguồn động viên và hy sinh vô điều kiện. Đó là những tình cảm không lẫn vào đâu được, là nét đẹp truyền thống vô song của tình mẫu tử Việt Nam.
4. Tài liệu tham khảo số 5
“Bầm ơi” – một trong những sáng tác nổi tiếng của Tố Hữu, được rút từ tác phẩm Việt Bắc, ra đời khi tác giả cùng đoàn văn nghệ sĩ thăm xã Gia Điền, Phú Thọ. Tại đây, cụ Gái - người dân địa phương - đã nồng hậu tiếp đón đoàn và nhường giường cho họ ở trên nhà, còn bản thân cụ, chuyển xuống bếp ngủ. Với tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc, nhà thơ đã sáng tác tác phẩm để bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt dành cho cụ.
Ngay từ đầu, tác giả đặt câu hỏi sâu sắc:
“Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…”
Dù đã rời xa quê hương, tình cảm của tác giả dành cho người mẹ thân thương vẫn như in sâu trong tâm hồn. Bài thơ không chỉ là của Tố Hữu, mà còn là câu chuyện của chúng ta, những đứa con giữ mãi niềm nhớ mẹ, chỉ thầm thương trong trái tim.
“Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!”
Hình ảnh mẹ lội qua lụt, chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non trong thời tiết khắc nghiệt khiến đứa con không kìm được nước mắt. Mẹ không ngần ngại khó khăn, vất vả, vẫn làm việc để ủng hộ chiến sĩ. Mẹ trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp và lòng hy sinh cao cả của phụ nữ Việt Nam.
Đặc biệt là trong thời chiến, khi đất nước còn gian khổ, những người mẹ đã trở thành hậu phương vững chắc, là nguồn động viên to lớn cho chiến sĩ:
“Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.”
Con ở tiền tuyến xa xôi, nhưng không bằng muôn nỗi lo âu của bầm. Tác giả gửi lời thân thương để an ủi: “Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe.” Đó là lời động viên, dặn dò nhẹ nhàng của nhà thơ đến với những người mẹ già mong chờ con trở về.
Con ra đi mang theo cả tình yêu quê hương và tình yêu bầm. Dù con biết rằng con đối diện với những thử thách khó khăn, bầm hãy yên tâm, vì sẽ luôn có đồng đội đi cùng con trên mọi nẻo đường!
“Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con…”
Con không dám hứa trở về, nhưng con hứa sẽ chiến đấu hết mình, đánh đuổi giặc, mang lại tự do cho quê hương. Bầm nhớ con, bầm đừng buồn, vì “giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm”.
Những người trải qua mất mát, đều hiểu cảm giác được đoàn tụ, cảm giác ấm áp khi quay về với gia đình. Bầm ở nhà, với tình cảm mãnh liệt, liệu sau chuyến đi, con có trở về không? Nỗi nhớ thương, tình yêu thương của người mẹ vẫn mãi là bản tình ca không lẫn vào đâu được.
Ngôn từ gần gũi, nhịp thơ nhẹ nhàng, đầm ấm, tác phẩm như một bản nhạc ru dịu dàng đi sâu vào tâm hồn. Tố Hữu thành công khắc họa về những khó khăn, vất vả mà phụ nữ Việt Nam phải trải qua trong thời chiến. Họ kiên cường, là hậu phương vững chắc, là nguồn động viên lớn lao cho các chiến sĩ trên chiến trường.
5. Tài liệu tham khảo số 4
Để phân tích bài thơ 'Bầm ơi' của Tố Hữu một cách sâu sắc, hãy hiểu rõ về bối cảnh sáng tác của tác phẩm này. Theo như ghi chép của tác giả, bài thơ được rút từ tập thơ 'Việt Bắc', xuất hiện vào giai đoạn 1947-1948, khi đoàn văn nghệ sĩ của ông chọn xã Gia Điền, Hạ Hòa (Phú Thọ) làm địa điểm dừng chân và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Trong thời gian đó, ông cùng một số nghệ sĩ khác như Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng ở trọ tại nhà bà cụ Nguyễn Thị Gái. Khi đoàn nghệ sĩ đến, cụ Gái đã nhường giường và không gian trên nhà cho đoàn, còn bản thân cụ xuống bếp ở.
Sinh sống trong tình yêu thương của cụ, Tố Hữu đã tìm thấy nguồn cảm hứng và sáng tác nên tác phẩm nổi tiếng 'Bầm ơi'. Mặc dù không phải con ruột, nhưng tình cảm mà Tố Hữu nhận được từ cụ không kém phần thiêng liêng như tình cảm mẹ dành cho con. Do đó, cái tên 'Bầm ơi' được chọn tự nhiên như một biểu tượng của tình thân thiết và quen thuộc.
Mặc dù đã rời xa vùng đất nghĩa tình đó, nhưng trong tâm hồn của Tố Hữu, hình ảnh của người mẹ già vẫn mãi không phai. Bài thơ bắt đầu với một câu hỏi tu từ và không cần đến lời giải đáp: 'Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...'. Mặc dù đã rời xa, nhưng trong tâm tư của nhà thơ, nỗi nhớ về người mẹ thân thương vẫn hiện hữu và không bao giờ phai nhạt.
Phân tích bài thơ 'Bầm ơi' của Tố Hữu, độc giả có cảm giác như đang đọc một bài cao dao, một bản hát ru thân thương hơn là một bài thơ. Với nhịp thơ lưu loát của bát và đa, tác phẩm truyền đạt được sự ấm áp và thân quen:
“Bầm ơi có rét không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!”
Đầu đoạn thơ là một câu hỏi đong đầy cảm xúc thương xót. Tiếng kêu gọi 'bầm ơi' vừa xót xa vừa tràn ngập tình yêu thương. Hình ảnh bầm lội dưới bùn trong gió núi, mưa phùn, nhưng vẫn tiếp tục công việc cày cấy mạ non, khiến cho tâm hồn độc giả xuyến xao và xúc động. Dù đã già nua, đã trải qua nhiều gian khó, nhưng tâm hồn bầm vẫn tràn đầy yêu thương và hy sinh cho con cái.
Bài thơ như một bức tranh thực tế về cuộc sống, về tình yêu thương và sự hy sinh của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh. Bầm, trong tâm hồn của nhà thơ, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam - chịu đựng, hy sinh, và tràn đầy tình mẫu tử.
Thơ nhẹ nhàng, gần gũi, đầy cảm xúc của Tố Hữu đã thành công trong việc mô tả những khó khăn, vất vả mà phụ nữ Việt Nam phải đối mặt trong thời chiến. Mặc dù cuộc sống khó khăn, nhưng họ vẫn kiên cường, là hậu phương vững chắc, đồng lòng với những chiến sĩ dũng cảm chiến đấu trên chiến trường khốc liệt.
7. Bài tham khảo số 8
'Bầm ơi có lạnh không bầm?
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm rùng
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đồng
Ruột gan bầm lại thương con lẻ loi.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!”
Đầu đoạn thơ là một câu hỏi đong đầy cảm xúc thương xót. Tiếng kêu gọi 'bầm ơi' vừa xót xa vừa tràn ngập tình yêu thương. Hình ảnh bầm lội dưới bùn trong gió núi, mưa phùn, nhưng vẫn tiếp tục công việc cày cấy mạ non, khiến cho tâm hồn độc giả xuyến xao và xúc động. Dù đã già nua, đã trải qua nhiều gian khó, nhưng tâm hồn bầm vẫn tràn đầy yêu thương và hy sinh cho con cái.
Bài thơ như một bức tranh thực tế về cuộc sống, về tình yêu thương và sự hy sinh của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh. Bầm, trong tâm hồn của nhà thơ, trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam - chịu đựng, hy sinh, và tràn đầy tình mẫu tử.
Thơ nhẹ nhàng, gần gũi, đầy cảm xúc của Tố Hữu đã thành công trong việc mô tả những khó khăn, vất vả mà phụ nữ Việt Nam phải đối mặt trong thời chiến. Mặc dù cuộc sống khó khăn, nhưng họ vẫn kiên cường, là hậu phương vững chắc, đồng lòng với những chiến sĩ dũng cảm chiến đấu trên chiến trường khốc liệt.
6. Bài tham khảo số 7
Trong tất cả các tác phẩm về người mẹ, bài thơ Bầm ơi là tác phẩm em yêu thích nhất. Nó xuất phát từ tập thơ Việt Bắc, được sáng tác khi Tố Hữu và đoàn nghệ sĩ đến làm việc tại xã Gia Điền, Hạ Hòa (Phú Thọ). Tại đây, cụ Gái, một cư dân tốt đã nhường giường và không gian nhà trên cho họ ở, trong khi cụ rơi vào bếp ở dưới. Trong tình yêu thương của cụ Gái, Tố Hữu tạo nên tác phẩm nổi tiếng “Bầm ơi”. Bắt đầu với một câu hỏi nhẹ nhàng và không cần đến lời giải đáp:
“Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…”.
Nhịp thơ lục bát da diết, vừa thân thương, vừa quen thuộc khiến người đọc như được nghe một bài ca dao, một giai điệu ru hơn là một bài thơ. Qua bài thơ, tác giả đã tạo nên hình ảnh Bầm - biểu tượng về người mẹ anh hùng của Việt Nam, với sự vất vả, sẵn sàng hy sinh và lao động mệt nhọc trong thời chiến. Em cảm nhận được tình yêu thương và niềm xót xa của những đứa con ở tiền tuyến đối với người mẹ ở quê nhà. Bài thơ không chỉ mô tả về những năm tháng đau thương trong lịch sử, mà còn là hình ảnh của một người mẹ già phải lao động, và những người con trẻ với tâm hồn nhiệt huyết, chiến đấu trên chiến trường nguy hiểm. Hình ảnh ấy thật sự làm xúc động trái tim!