1. Bài tham khảo số 1
Trong văn học trung đại có những bài thơ hay và đặc sắc như bài Mai của Nguyễn Trãi:
Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi,
Ưa mày vì tiết sạch hơn người.
Gác đông ắt đã từng làm khách,
Há những Bộ tiên kết bạn chơi.
Nhưng có lẽ chưa có bài thơ nào miêu tả thiên nhiên mùa xuân đẹp đẽ, tinh khiết, trong lành như trong thơ Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ đầu trong trích đoạn “Cảnh ngày xuân” đại thi hào đã mở ra trước mắt bạn đọc không gian thiên nhiên tươi đẹp, tuyệt mĩ.
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Câu thơ khai báo không gian với hình ảnh én rộn ràng bay giữa bầu trời, tạo nên không gian bao la, rộng lớn. Hình ảnh mùa xuân được làm rõ ở câu thơ thứ hai: thiều quang – ánh sáng mùa xuân rực rỡ đẹp đẽ nhất. Cách tính thời gian của Nguyễn Du thật đặc biệt, mùa xuân đã “chín chục đã ngoài sáu mươi” ấy là khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba, ánh nắng trở nên rực rỡ ấm áp hơn. Bởi vậy làm cho không gian tràn ngập ánh sáng. Câu thơ không chỉ miêu tả khung cảnh mà đằng sau đó còn thể hiện xúc cảm của con người. Hình ảnh “con én đưa thoi” vừa gợi ra không gian bao la, rộng lớn vừa gợi lên sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân ấm áp rực rỡ trôi qua quá nhanh khiến con người không khỏi bâng khuâng tiếc nuối. Cảm quan thời gian của ông thật mới mẻ, hiện đại, không giống như các nhà thơ trung đại khác: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai”, mà tựa như cảm nhận của thi sĩ Xuân Diệu: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”. Đó là nét độc đáo mới mẻ trong sáng tác của ông, tuy có khác về hình thức biểu hiện nhưng điều cho thấy sự luyến tiếc thời gian mùa xuân – tuổi trẻ, trân trọng, nâng niu từng phút giây đó.
Để hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân, Nguyễn Du sử dụng nét bút chấm phá phác họa lên bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa về màu sắc:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Làm nền cho bức tranh mùa xuân là thảm cỏ tươi non, mơn mởn trải dài tít tắp đến tận chân trời. Từ đó làm cho không gian bầu trời mà không gian mặt đất cũng trở nên bao la, khoáng đạt hơn. Trên nền màu xanh non, ngập đầy sức sống ấy hiện lên một vài bông hoa lê mỏng manh, thanh khiết. Ở đây màu sắc bức tranh có sự hài hòa tuyệt đối, màu xanh non của cỏ kết hợp với màu trắng tinh khôi của hoa lê càng làm nổi bật hơn sức sống, sự thanh tao của những cánh hoa lê. Hơn nữa, Nguyễn Du còn tỏ ra đặc biệt tinh nhạy khi dùng động từ “điểm” khiến cho khung cảnh có thần, có hồn chứ không hề tĩnh tại. Kết hợp với đảo ngữ “trắng điểm” một lần nữa nhấn mạnh, tô đậm vào sắc trắng của hoa lê.
Đọc câu thơ của Nguyễn Du ta bất giác nhớ về câu thơ cổ của Trung Quốc:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
Trên cơ sở những tiếp thu về màu sắc, về không gian rộng lớn của bức tranh, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc đáo, khiến cho bức tranh của mình mang vẻ đẹp, mang sức sống riêng. Bức tranh trong thơ cổ nhấn mạnh hương thơm và tập trung vào gam màu xanh non của cỏ, sắc trắng của hoa chỉ là yếu tố phụ, điểm xuyến vào bức tranh ấy. Còn trong bức tranh thu của Nguyễn Du yếu tố ông đặc biệt nhấn mạnh là màu xanh non mỡ màng, tràn đầy sức sống của thiên nhiên. Sắc trắng của bông hoa lê là yếu tố làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh. Có sự hài hòa, quyện hòa tuyệt đối giữa hai sắc màu này. Đặc biệt bức tranh của Nguyễn Du không tĩnh tại mà rất sống động, có hồn. Ông đã sử dụng đảo ngữ “trắng điểm” làm cho bức tranh hiện ra vừa mang nét thanh mảnh, mềm mại, lại vừa sống động. Chính nhờ điểm này đã khiến cho bức tranh xuân của ông thành tuyệt tác trong nghệ thuật tả cảnh.
Chỉ bằng vài nét bút chấm phá, gợi tả, Nguyễn Du đã vẽ một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp. Từ đó người đọc cảm nhận được ngòi bút tài hoa, giàu chất tạo hình của thi nhân, cùng với tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn, nhạy cảm trước cái đẹp.
2. Bài tham khảo số 3
Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du là một kiệt tác nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều là mở đầu cho bức tranh du xuân của chị em Thúy Kiều, bao gồm cảnh thiên nhiên tươi đẹp và thơ mộng.
Câu thơ đầu tiên đã mô tả không khí và thời gian đã trôi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Ngày xuân, cánh én đưa thoi bay lượn trên bầu trời, tượng trưng cho thời kỳ tươi đẹp và rực rỡ nhất của mùa xuân, nhưng cũng là lúc mùa xuân trôi qua nhanh chóng “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” là đã trôi qua sáu mươi ngày, đánh dấu thời gian ở tháng ba. Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã truyền đạt vẻ đẹp của thiên nhiên và không gian xuân.
Trong hai câu thơ sau, tác giả đã mô tả chi tiết hơn về vẻ đẹp của thiên nhiên với hai gam màu chủ đạo là xanh và trắng.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Màu xanh của cỏ non trải dài đến chân trời, một khung cảnh vô tận, được điểm xuyết bởi những bông hoa lê màu trắng. Từ câu thơ cổ của Trung Quốc về vài bông hoa lê, Nguyễn Du đã biến nó thành một bức tranh sống động hơn, làm cho không gian thiên nhiên mở rộng và đẹp đẽ hơn rất nhiều. Chỉ cần một vài bông hoa lê trên nền cỏ xanh đủ làm cho không gian trở nên sống động và đẹp mắt. Bút pháp đảo ngữ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” càng làm cho màu trắng nổi bật hơn giữa không gian xanh, tạo ra một không gian thiên nhiên rộng lớn và phong cách.
Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh của thiên nhiên vào đầu xuân, đem đến sự sống động và phong cách thơ ca. Đây là hình ảnh thiên nhiên đẹp nhất ở phần mở đầu của Truyện Kiều. Bên cạnh đó, bút pháp tả cảnh và ngụ tình của tác giả cũng rất điêu luyện, kết hợp với ngôn từ phong phú để mô tả Cảnh ngày xuân tươi đẹp.
3. Tài liệu tham khảo số 2
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác văn học Việt Nam. Hơn hai trăm năm trôi qua, tác phẩm vẫn được truyền bá rộng rãi và ghi điểm mạnh trong lòng độc giả. Ngoài nghệ thuật miêu tả con người, tác phẩm còn đạt tới đỉnh cao trong việc tả cảnh thiên nhiên. Bốn câu đầu tiên trong trích đoạn “Cảnh ngày xuân” là minh chứng cho bản lĩnh của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả cảnh:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cảnh lê trắng điểm một vài bông hoa”.
Một vài nét bút chấm phá đã làm nên bức tranh mênh mông, bao la. Bầu trời rộng lớn, những chú én mừng xuân bay lượn như những chiếc thoi trên bức tranh bầu trời. Không gian thoáng đãng, trong lành, tinh khôi và đầy sức sống. Bức tranh xuân tươi với màu xanh của cỏ non trải khắp, hoa lê trắng điểm xuyết. Từ chữ “điểm” khiến cho cảnh thiên nhiên trở nên sống động, có linh hồn, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời cho bức tranh tự nhiên và vẻ đẹp thanh khiết, mới mẻ của mùa xuân.
Bằng cách sử dụng tượng trưng, nhà thơ tinh tế gợi ra hình ảnh về sự chuyển động của thời gian. Đất trời đang chuyển từ đầu tháng ba, cũng là thời điểm của lễ Thanh minh. Không gian và thời gian này đem lại cho độc giả cảm giác của sự tươi mới mẻ, hội xuân rộn ràng và tình xuân ấm áp.
Sau đó, Nguyễn Du hướng ánh nhìn xuống mặt đất, mở ra một bức tranh rộng lớn vô tận. Cỏ non trải mềm mại trên bề mặt đất kéo dài tận chân trời xa xăm. Điểm nhấn trên nền xanh vô tận đó là những đóa hoa lê trắng tinh khôi. Biểu hiện đảo ngữ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” làm cho ta cảm nhận như những đóa hoa lê đang bung nở, tô điểm vẻ đẹp của mùa xuân vô tận. Nguyễn Du không chỉ mượn hình ảnh từ thơ cổ mà còn tạo ra những bước sáng tạo độc đáo khi làm cho thảm cỏ trở nên sống động hơn. Thủ pháp đảo ngữ này khiến cho hình ảnh hoa lê trắng trở nên sinh động, lấp lánh. Linh hồn của hoa lê lan tỏa khắp bầu trời xuân tươi.
Thực sự, bức tranh mùa xuân trong thơ đã được vẽ bằng những nét bút chấm phá, với màu sắc, ánh sáng, hương thơm và tình xuân đậm đà của đất Việt.
4. Tài liệu tham khảo số 5
Mùa xuân, nguồn cảm hứng bất tận của văn nghệ sĩ, là đề tài được nhiều tác giả, nghệ sĩ thổi hồn vào bằng từ ngôn. Trong văn học trung đại Việt Nam, những tác phẩm như 'Cáo tật thị chúng' của thiền sư Mãn Giác, 'Cuối xuân tức sự' của Nguyễn Trãi, 'Chơi xuân kẻo hết' của Nguyễn Công Trứ... đã kể lại khía cạnh đặc sắc về mùa xuân. Một tên tuổi khác không thể không nhắc đến khi nói về mùa xuân trong văn học Việt Nam chính là Nguyễn Du với đoạn thơ 'Cảnh ngày xuân'. Bốn câu thơ ngắn gọn, 28 chữ, đã thành công trong việc vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi thắm, tràn đầy sức sống:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Ẩn sau hai câu đầu là hình ảnh thời gian trôi qua nhanh chóng, mặt trời xuân nhẹ nhàng, lan tỏa ánh sáng khắp muôn nơi. Đàn én mùa xuân bay lượn trên bầu trời, dưới đất là thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Từ 'tận' khiến cho không gian mở rộng, bao la và phủ đầy màu xanh của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh, những bông hoa lê trắng điểm tô thêm vẻ tinh khôi, mới mẻ. Chữ 'điểm' làm nổi bật hình ảnh hoa lê trắng giữa cảnh xanh mát của mùa xuân.
Ở hai câu thơ cuối, Nguyễn Du sử dụng tinh tế từ thơ cổ Trung Quốc:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
'Cỏ non' thay cho 'cỏ thơm' (phương thảo), làm nổi bật màu xanh non tươi tắn. Dưới ánh sáng mùa xuân, cỏ non nảy trổ, đầy sức sống. Điểm nhấn trắng của hoa lê trên nền cỏ màu xanh tạo nên bức tranh sống động, lạc quan. Chữ 'điểm' và đảo ngữ là những sáng tạo độc đáo, tô điểm cho vẻ đẹp tươi trẻ, thanh khiết của mùa xuân Việt Nam. Đoạn thơ là minh chứng cho bút pháp tả cảnh độc đáo của nhà thơ.
5. Tài liệu tham khảo số 4
Tác phẩm 'Truyện Kiều' của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ để lại dấu ấn sâu sắc về số phận đắng cay của Thúy Kiều, mà còn là một tác phẩm tuyệt vời về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Trong trích đoạn 'Cảnh ngày xuân', Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh tươi đẹp, thanh khiết và tràn đầy sức sống của mùa xuân Việt Nam.
'Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
Ở hai câu đầu, tác giả mô tả mùa xuân qua hai khía cạnh không gian và thời gian. Tháng ba, những chú én đưa thoi trên bầu trời xanh cao, tạo nên hình ảnh diệu kỳ. 'Con én đưa thoi' không chỉ là hình ảnh chân thực mà còn chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về thời gian trôi qua không chờ đợi. Mỗi đợt thoi của én như là những bước đi nhanh chóng, làm nổi bật sự trôi chảy không ngừng của thời gian, như câu ca dao quen thuộc 'Thời gian thấm thoắt thoi đưa, Nó đi đi mãi có chờ đợi ai'.
Khung cảnh mùa xuân tiếp tục được mô tả qua ánh sáng ban mai tháng ba - 'thiều quang', tạo nên bức tranh rực rỡ và tươi sáng nhất của xuân. Sắc xuân với những tia nắng lấp lánh được tạo nên một cách tinh tế, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp trong trẻo và tươi mới của mùa xuân. Nguyễn Du đã thành công khi lồng ghép hình ảnh của những chú én và vẻ đẹp của ánh sáng, tạo nên một bức tranh tươi sáng, tràn ngập sức sống.
Trên bức tranh đó, sắc xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê là điểm nhấn nổi bật:
'Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
Nguyễn Du đã sáng tạo và kết hợp hai câu thơ cuối với thơ cổ Trung Quốc:
'Phương thảo liên thiên bích
Hoa lê chi sổ điểm hoa'
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Khác với thơ cổ, Nguyễn Du tập trung vào màu xanh của cỏ non, tôn vinh vẻ đẹp của sự sống và sức xuân mới. Màu trắng của hoa lê chỉ là 'điểm' nhẹ nhàng, nhưng đủ để làm tăng thêm vẻ tinh khôi và thanh khiết cho bức tranh xuân. Sự linh hoạt trong sử dụng ngôn ngữ và biện pháp đảo ngữ giúp Nguyễn Du tái hiện một cách xuất sắc bức tranh thiên nhiên Việt Nam, hòa mình trong không khí tươi mới của mùa xuân.
Qua những câu thơ, Nguyễn Du không chỉ thể hiện tình cảm yêu thiên nhiên mà còn chứng minh khả năng nghệ thuật xuất sắc của mình thông qua lựa chọn từ vựng, hình ảnh và các biện pháp nghệ thuật. Đoạn thơ là một minh chứng cho sự tài năng và tâm huyết của đại thi hào với nghệ thuật sáng tác.
6. Tài liệu tham khảo số 7
Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là tác phẩm về số phận bi đát của Thúy Kiều mà còn là bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của thiên nhiên trong mùa xuân. Trích đoạn “Cảnh ngày xuân” là nơi tác giả thể hiện sự tài năng và tinh tế trong việc miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên.
Chỉ trong bốn câu thơ đầu, tác phẩm đã tạo nên một bức tranh mùa xuân tràn ngập trong một năm. Nguyễn Du với những chi tiết tinh tế mang đến hình ảnh đặc trưng của mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”.
Trên bầu trời rộng lớn, những chú én mùa xuân đang bay lượn, và từng chữ “đưa thoi” mang đến hình ảnh gần gũi, sống động. Chúng tựa như những con thoi bay lên và xuống, không chỉ tạo nên hình ảnh mùa xuân mà còn truyền đạt ý nghĩa về sự thoáng qua nhanh chóng của thời gian. Cảnh ngày xuân được miêu tả đơn giản nhưng quen thuộc.
Biểu tượng của mùa xuân là “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Theo tính toán của tác giả, “thiều quang” là mùa xuân chuyển sang tháng ba, kéo dài 90 ngày. Điều này không chỉ là thông tin về thời gian mà còn là cách tốt để diễn đạt thời kỳ tươi đẹp nhất của mùa xuân. Nguyễn Du đã thông qua câu thơ để báo hiệu thời gian và tạo nên bức tranh xuân tuyệt vời.
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.
Chú ý đến cách Nguyễn Du kế thừa từ câu thơ cổ Trung Quốc để tạo nên sự độc đáo trong bài thơ. Trên nền cỏ xanh mát và bầu trời rộng lớn là những bông hoa lê trắng tinh khôi. Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ, đặt từ “trắng” trước động từ để làm nổi bật những bông hoa lê trắng giữa cảnh xanh của đồng cỏ. Màu xanh của cỏ kết hợp với màu trắng của hoa lê tạo nên bức tranh sống động và tinh tế. Sự sáng tạo trong miêu tả của Nguyễn Du thể hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân Việt Nam, hòa mình trong không khí tươi mới của mùa xuân.
Bốn câu thơ đầu tiên tạo ra một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp với hình ảnh của chú én, cỏ xanh tươi và những bông hoa lê trắng nở rực rỡ, kết hợp với hình ảnh những người đang say mê ngắm nhìn thiên nhiên. Qua bức tranh này, tác giả không chỉ thể hiện tình cảm yêu thiên nhiên mà còn cho thấy sự tinh tế và nhạy bén trong cách cảm nhận mùa xuân.
7. Tài liệu tham khảo số 6
Mùa xuân có một sức hấp dẫn kì diệu không biết từ bao giờ đã chiếm trọn trái tim của con người. Xuân là thời kỳ tuyệt diệu, tràn ngập sức sống và tinh khiết, đã làm xiêu lòng bao thi nhân, những người sáng tác văn chương. Mặc dù đã có nhiều bài thơ, bài văn, và nhạc phẩm ca ngợi mùa xuân, nhưng bức tranh xuân chắc chắn sẽ thiếu đi điều kỳ diệu nếu thiếu bản thơ 'Cảnh ngày xuân' của đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã vẽ nên bức tranh tuyệt vời của mùa xuân để truyền đạt qua hàng thế kỷ:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Mở đầu cho bức tranh xuân, tác giả chính thức thông báo về thời gian:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Hình ảnh “con én đưa thoi” mở ra nhiều cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những chú cò đang bay trên bầu trời giống như thoi đưa, vì én thường là biểu tượng của mùa xuân. Ngoài ra, 'con én đưa thoi” cũng có thể hiểu là thời gian trôi đi nhanh chóng như thoi đưa. Nếu hiểu theo cách thứ hai, câu thơ 'Ngày xuân con én đưa thoi' không chỉ đơn giản là mô tả cảnh đẹp mà còn ẩn chứa ý về sự vụt qua nhanh chóng của thời gian. Cách nhìn nhận này dường như hợp lý với câu tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nguyễn Du đã cung cấp một con số cụ thể. Mùa xuân có 90 ngày, nhưng đã qua hơn một nửa (đã ngoài sáu mươi). Câu thơ chứa đựng sự hối tiếc vô hạn của con người trước sự trôi chảy của thời gian. Mùa xuân luôn đến và đi theo quy luật tự nhiên, nhưng ở đây, nhà thơ nhìn nhận dưới góc độ tâm lý cá nhân nên mùa xuân trở nên sống động. Điều này gợi nhớ đến 'hoàng tử thơ ca' Xuân Diệu sau này với câu thơ:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
(Xuân Diệu - Vội vàng)
Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước chuyển mùa xuân giữa hai nhà thơ cách xa nhau nhiều thế kỷ là biểu hiện của sự nhạy bén và tinh tế trong những tâm hồn thơ cao quý. Chỉ những người biết trân trọng và yêu thương thời gian mới có thể cảm nhận được sự trôi chảy, sự vận động không ngừng như thế.
Nếu hai câu đầu tiên của Nguyễn Du tập trung vào việc mô tả thời gian, hai câu sau chủ yếu tập trung vào việc mô tả cảnh sắc:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh xuân đầy sức sống. Mọi thứ đều được mô tả ở trạng thái tốt nhất. Cỏ non xanh ngút ngàn, màu xanh của cỏ nối tiếp màu xanh của trời như một biển vô tận. Màu xanh luôn là màu của sự sống, và xanh non, xanh tươi nữa làm cho sự sống trở nên phong phú, tràn đầy. Nguyễn Du không phải là nhà thơ đầu tiên miêu tả cỏ xuân. Trước ông, Nguyễn Trãi đã viết trong bài thơ Bến đò xuân đầu trại:
Độ đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
(Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời)
Nếu Nguyễn Trãi sử dụng so sánh 'thảo lục như yên' để mô tả xuân như mơ hồ, sương khói trong ngày mưa ở bến đò, thì Nguyễn Du lại chọn cách miêu tả trực tiếp về bức tranh cỏ xuân. Chỉ với câu thơ: “Có non xanh tận chân trời', ông đã đưa người đọc đến với hình ảnh, màu sắc, đường nét và sức sống của cỏ... Tất cả hòa quyện, lưu luyến trong chiều sâu của câu thơ 6 từ tạo nên một đặc trưng xuân rất riêng của Nguyễn Du. Tài năng của đại thi hào không dừng lại ở đó, bức tranh cỏ xuân xanh tươi như làm nền cho sự đột phá ở câu thơ tiếp theo:
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Việc miêu tả những bông hoa lê trắng, tinh khôi chỉ với 'một vài bông hoa' không làm mất đi phép màu của bức tranh xuân. Biện pháp đảo ngữ làm cho màu trắng của hoa lê trở nên đặc sắc hơn. Bằng cách 'trắng điểm', màu trắng của hoa lê càng trở nên rực rỡ. Dù 'một vài bông hoa' nhưng đó đủ làm nên vẻ đẹp tuyệt vời của bức tranh xuân.