1. Bài tham khảo số 1
Trích đoạn chèo Thị Mầu lên chùa là một biểu hiện nghệ thuật xuất sắc của kịch hát Việt Nam. Chủ đề đặc sắc nằm ở sự đối lập của Thị Mầu trong lề lối lễ giáo, thể hiện lòng dũng cảm và tình yêu thú vị với tiểu Kính Tâm. Hình thức biểu hiện chèo với ngôn ngữ dân dụ và tiếng hát lôi cuốn, kết hợp tiếng đế tương tác, tạo nên một trải nghiệm đặc biệt cho khán giả.
2. Bài tham khảo số 3
Nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, hát xẩm luôn thu hút đa dạng thế hệ. Chúng là cầu nối tuyệt vời giữa con người và văn hóa. 'Thị Mầu lên chùa' từ 'Quan Âm Thị Kính' là một trong những tác phẩm chèo nổi tiếng, tận dụng để truyền đạt những bài học đạo đức sống động. Thị Mầu và Thị Kính là những nhân vật tượng trưng, đại diện cho sự đối lập trong xã hội phong kiến.
Tác phẩm vạch ra sự đối lập giữa sự trong sạch và nổi loạn, giữa giá trị đạo đức và lẳng lơ. Thị Mầu, con gái phú ông, là biểu tượng của sự nổi loạn và thách thức xã hội. Ngược lại, Thị Kính là hình ảnh của người phụ nữ đức hạnh, chuẩn mực. Câu chuyện nối tiếp sự trái ngược này, làm nổi bật tính cách và giá trị của từng nhân vật.
Tác phẩm không chỉ chú trọng vào nội dung mà còn chinh phục khán giả bằng nghệ thuật. Lời thoại sôi nổi của Thị Mầu, kết hợp với tiếng đế tương tác, tạo nên một trải nghiệm độc đáo. Sử dụng ca dao và tu từ sôi nổi, tác giả làm cho câu chuyện trở nên sống động và gần gũi với người đọc.
Đoạn trích này không chỉ thể hiện mâu thuẫn giữa hai nhân vật nữ mà còn làm nổi bật sự đa dạng và giàu sức sống của nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Nó đã và đang giữ vững giá trị văn hóa, là nguồn cảm hứng không ngừng cho thế hệ mới.
3. Bài tham khảo số 2
Vở Tuồng Hài 'Nghêu, Sò, Ốc, Hến' là một mẫu mực trong nghệ thuật sân khấu Tuồng. Khác với Tuồng Pho, Tuồng Hài như Nghêu, Sò, Ốc, Hến mang đến không khí hóm hỉnh, vui nhộn và lấy đề tài từ cuộc sống đời thường để giải trí cho dân chúng. Trong số những nhân vật, Hến nổi bật với sự độc lập, phóng khoáng. Nhân vật Hến của Làng Đào Kép, mặc dù đến từ gia đình khá giả, nhưng cuộc sống đầy biến động khiến cô quyết định sống độc thân và theo nghề Cầm đồ. Vẻ ngoại hình quyến rũ của Hến cùng với khả năng diễn Tuồng khi vào vai Đào Lẳng làm cho người xem bị cuốn hút tuyệt đối.
Truyện ngắn này không chỉ mang tính giải trí mà còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Tiếng cười trong vở kịch không chỉ là nguồn giải trí mà còn là nguồn cảm hứng, giúp chúng ta suy ngẫm về những khía cạnh khác nhau của đời sống.
4. Bài tham khảo số 5
Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) - nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch tài năng. Bài thơ Tiếng Việt của ông được nhiều người yêu thích. Ông để lại khoảng 50 vở kịch, thể hiện bút pháp nghệ thuật sắc sảo, nhạy bén, đề cập đến những vấn đề nóng của thời kì đổi mới những năm 80.
Với tư tưởng mới mẻ, xung đột mạnh mẽ và lời thoại sắc sảo, kịch của Lưu Quang Vũ, đặc biệt là đoạn trích từ vở Tôi và chúng ta, phản ánh cuộc đối đầu giữa hai phái mới và cũ tại xí nghiệp Thắng Lợi.
Hoàng Việt - Giám đốc và Nguyễn Chính - Phó Giám đốc là hai đối thủ trong cuộc xung đột giữa hai phái mới và cũ này. Trong lúc Nguyễn Chính đại diện cho quan điểm bảo thủ, Hoàng Việt mang đến quan điểm tiến bộ, chủ động trong kế hoạch sản xuất và thay đổi cơ chế lao động. Cuộc đối đầu này thể hiện sự đấu tranh giữa hai tư tưởng, nêu bật tầm quan trọng của hiệu suất công việc và công bằng trong phân định đối xử với công nhân.
Bằng những ý kiến đổi mới, Giám đốc Hoàng Việt không chỉ thách thức mà còn phá vỡ cơ chế bao cấp quan liêu. Tuy nhiên, sức mạnh của phe bảo thủ không dễ dàng đầu hàng, với sự nham hiểm của Nguyễn Chính và sự ủng hộ từ Trần Khắc, đại diện Ban Thanh tra Bộ.
Bằng cách mô tả cuộc đối đầu này, Lưu Quang Vũ đã mở ra một tầm nhìn sâu rộng về cuộc đổi mới của đất nước, thể hiện sự hiện đại hóa và khát vọng xây dựng một xã hội công bằng và phồn thịnh.
Vở kịch của ông không chỉ là một tác phẩm giải trí mà còn là một bức tranh sống động về thời kì lịch sử đầy biến động và thách thức.
5. Bài tham khảo số 4
Trong tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”, đoạn trích “Huyện Trìa xử án” là một tác phẩm đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Tác giả dân gian thông qua văn bản muốn chỉ trích bọn tham quan và quan lại trong xã hội phong kiến. Cuộc xử án của Huyện Trìa, mặc dù về vụ kiện của Thị Hến, nhưng sự bất công và thối nát của quan lại được thể hiện rõ.
Mâu thuẫn giữa các nhân vật nảy sinh từ việc Thị Hến mua tài sản của Ốc và Ngao từ nhà phú hộ Trùm Sò. Vợ chồng Trùm Sò kiện cáo với hy vọng đòi lại công bằng. Tuy nhiên, bên trong vụ kiện là sự mâu thuẫn trong chính người thực thi công lý. Huyện Trìa, một quan tri huyện, có quyền lực và giàu có, nhưng lại sống không hạnh phúc và có mối quan hệ phức tạp với thân tín Đề Hầu.
Trong xét xử, Huyện Trìa phê phán Đề Hầu và thể hiện tính châm biếm. Mối quan hệ tôi - tớ bất ổn được thể hiện rõ. Khi Thị Hến kêu oan, cách xử án của Huyện Trìa làm cho bức tranh thối nát của hệ thống quan lại và sự bất công hiện rõ. Thị Hến, mặc dù có tội, nhưng trước mặt quan lại, lại kêu oan và lợi dụng tình hình. Quan tri huyện không làm theo luật, phán quyết xằng bậy để trục lợi.
Tác phẩm không chỉ thể hiện sự xót thương đối với vợ chồng Trùm Sò, mà còn khám phá sự thất vọng và bất lực của những người bị đối xử bất công trong xã hội phong kiến. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và mô tả nhân vật rất chi tiết và rõ ràng, làm cho độc giả dễ dàng đồng cảm và đánh giá được bức tranh bất công trong xã hội.
Một tác phẩm đặc sắc, “Huyện Trìa xử án” làm cho độc giả cảm nhận rõ hơn về những bất công và thách thức của xã hội phong kiến. Tác phẩm giữ vững văn hóa nghệ thuật dân gian Việt Nam và là một tác phẩm tiêu biểu trong lịch sử nghệ thuật dân gian của đất nước.
6. Tham khảo số 7 - Sự Tích Mặt Trời và Mặt Trăng
Trong số những vở chèo nổi tiếng như 'Trương Viên', 'Chu Mãi Thần', 'Kim Nham', 'Lưu Bình - Dương Lễ', 'Quan Âm Thị Kính', vở chèo 'Thị Mầu lên chùa' là một trong những tác phẩm kinh điển của nền chèo cổ Việt Nam. Tính cách và tương tác của Thị Mầu và Kính Tâm trong đoạn chèo này là nguồn cảm hứng sâu sắc về tình yêu và xã hội xưa.
Thị Mầu, với vẻ lẳng lơ và phóng túng, mang đến cho người xem những cảm nhận về sự tự do và nổi loạn. Cô không quan tâm đến định kiến xã hội và tận hưởng mọi khoảnh khắc. Sự ve vãn và tán tỉnh của Mầu đối với Tiểu Kính được diễn đạt qua lời nói và hành động táo bạo, thậm chí là bài hát. Cảm nhận về tình yêu của Mầu là sự tự do và thoải mái, vượt lên trên mọi rào cản xã hội.
Ngược lại, Tiểu Kính - người mang vẻ đẹp đoan trang và phẩm chất đáng quý, đại diện cho phụ nữ đức hạnh trong xã hội phong kiến. Lời nói và hành động của Kính Tâm luôn tuân theo quy tắc và giáo lí nhà Phật, thể hiện sự trang nghiêm và lòng tin. Thái độ kiên nhẫn và tôn trọng của Kính Tâm trước sự lẳng lơ của Thị Mầu làm nổi bật sự đối lập giữa hai nhân vật.
Đoạn trích này không chỉ là một phần trong vở chèo, mà còn là diễn đạt của tác giả dân gian về tình yêu và giá trị nhân văn. 'Thị Mầu lên chùa' là một tác phẩm văn hóa sâu sắc, giữ vững giá trị qua thời gian và là nguồn cảm hứng vô tận về con người và xã hội.
6. Tài Liệu Tham Khảo
Nghệ thuật, từ khi ra đời, đã tạo nên mối liên kết sâu sắc với cuộc sống, luôn tiến triển trong sự kết nối tự nhiên với thực tế. Nhờ vào việc trung thực phản ánh thực tế đó, nghệ thuật thật sự tham gia vào quá trình phát triển của xã hội như một vũ khí sáng tạo khám phá miền đất thực tại của thời đại.
Liều lĩnh đối mặt với thực tế, đoạn trích “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” đã thể hiện sự bất công trong xã hội phong kiến giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trích từ vở chèo: “Quan âm Thị Kính”. “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” là một tác phẩm chèo cổ điển của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Trong đoạn trích, hai giai cấp rõ ràng: giai cấp thống trị là Xã Trưởng, đại diện cho chính quyền làng xã thời kỳ phong kiến, tộc quyền Việt Nam và Mẹ Đốp chuyên đi đánh mõ và báo cáo sự thật cho dân làng, đại diện cho tầng lớp nhân dân thời kỳ đó, được coi là tầng lớp hạ lưu của xã hội.
“Xã Trưởng-Mẹ Đốp” là đoạn hài đặc sắc của sân khấu chèo với hề áo ngắn và hề áo dài. Các nhân vật chèo thường bao gồm kép, đào, hề, mụ, lão. Kép thường là những sĩ tử chân chính, hiếu học; đào (nữ chính) bao gồm đào thương, đào lệch hay đào lẳng, đào pha; hề; mụ và lão. Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ với tính cách ổn định. Trong đó, nhân vật hề là phổ biến.
Trong “Xã Trưởng-Mẹ Đốp”, Hề áo ngắn đó là Mẹ Đốp, đại diện cho tầng lớp nhân dân bị trị luôn tìm cách đả kích, châm chọc giai cấp thống trị là Xã Trưởng, gây tiếng cười hóm hỉnh, sâu cay, chua chát, sảng khoái qua những hành động ngu dốt, vô nhân đạo hàng ngày.
Nhân vật thứ hai là hề áo dài, cụ thể là Xã Trưởng, một chức quan mua tại hương thôn, ngu dốt nhưng lại háo sắc, tham lam, dối trá, hà hiếp dân lành, thường bị người nông dân chơi khéo. Nhân vật hề áo dài trên sân khấu chèo truyền thống, bản thân nhân vật không tạo ra tiếng cười, nhưng qua phong cách biểu diễn, nhân vật tỏ ra hai mặt rất sâu sắc, gây tiếng cười chua chát, cười đến nước mắt.
Là đại diện cho giai cấp thống trị, Xã Trưởng không thoát khỏi bản chất thối nát của xã hội phong kiến. Một quan lại mang đầy những đặc điểm tiêu cực của phần “con” trong con người. Chẳng có gì lạ khi hắn tự mãn khi được chọn làm lí trưởng, đứng trên tất cả mọi người. Hắn tự tin chà đạp người dân, thách thức và khinh bỉ thân phận của người khác.
Ngược lại, Mẹ Đốp, đại diện cho giai cấp bị trị, bị đàn áp, nhưng Mẹ Đốp đã khéo léo khiến hổng mặt, làm nhục kẻ tham quan háo sắc bằng cách nhắm thẳng vào ngu dốt của Xã Trưởng.
Trong xã hội nhan nhản những hành vi dơ bẩn, quan lại áp bức, nứng loạn, lợi dụng người dân yếu đuối, sự căm ghét của nhân dân đối với quan lại càng trở nên sâu sắc hơn. Xung đột giữa hai giai cấp bị trị và thống trị ngày càng trở nên căng thẳng. Do đó, chẳng có lý do gì người dân không châm biếm quan lại.
Xã Trưởng có vẻ như là người kém học, không viết văn thơ, nhưng khi Mẹ Đốp nói, hắn chẳng hiểu gì mà vẫn tin theo lời Mẹ Đốp. Điều này làm cho hắn trở thành đối tượng châm biếm: “Con này mày láo”.
Trong cuộc đối thoại, Mẹ Đốp như là người xoay dây cương khiến Xã Trưởng hoa mắt, ngớ người. Mỗi câu thoại của Mẹ Đốp làm cho Xã Trưởng ngớ người. Hết câu này chẳng hiểu, lại đến câu khác chẳng hiểu. Dù là xã trưởng nhưng tâm trí hạn hẹp, ngu dốt nên bị Mẹ Đốp và nhân dân châm chọc, nhưng vẫn được sự tin tưởng của nhân dân vì những hành động không hài hòa.
Xã Trưởng tỏ ra láo liêng, chớp nháy và vẻ cười gian tà qua những câu thoại, đủ để hình dung một kẻ tham quan, háo sắc. Đối mặt với sự sàm sỡ của Xã Trưởng, Mẹ Đốp tỏ ra tỉnh táo, mạnh mẽ và khôn khéo, khiến hắn phải rao mõ: “Thôi đi rao mõ đi!
Hành động bốc mồm của Xã Trưởng là chi tiết châm biếm mạnh mẽ. Trong xã hội xưa, phụ nữ thường bị coi là thấp hèn, vì vậy việc Mẹ Đốp bốc mồm cũng là cách châm biếm sự bẩn thỉu. Khi Mẹ Đốp bốc mồm, là lúc mỉa mai những từ hắn thốt ra được thể hiện rõ sự xấu xa.
Khi nhận ra mình bị mụ đàn bà chơi khăm, Xã Trưởng cậy đà bắt nạt, làm trò hóm hỉnh. Điều này chính là đặc điểm của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, không phải tất cả đều như vậy, cũng có người có nhận thức và không bị quần xã. Cũng là kẻ dối trá, ngu ngốc và chấp nhận sự thống trị, nhưng Xã Trưởng cũng tự nhận ra sự đau đớn và sợ hãi, phải đầu hàng trước dư luận: “Thôi, thôi!
Đây là một chi tiết châm biếm mạnh mẽ, làm nổi bật giá trị vật chất và tinh thần của đồng tiền trong xã hội. Xã Trưởng dùng tài sản để che đậy bất công và sự thật. Người dân từ bỏ cuộc chiến đấu vì vật chất.
Vở chèo là biểu tượng của sự châm biếm của nhân dân đối với giai cấp thống trị, mang lại tiếng cười sảng khoái cho khán giả. Với những lời thoại biểu cảm, giọng điệu phù hợp với tính cách nhân vật, vở chèo thể hiện đầy đủ hình ảnh đại diện của Xã Trưởng và Mẹ Đốp. Vở chèo giữ nguyên sự giản đơn, gần gũi với người Việt Nam.
Chèo cổ thường xoay quanh giáo dục cách sống, cách ứng xử giữa con người theo quan điểm dân gian hoặc tư tưởng Nho giáo. “Xã Trưởng-Mẹ Đốp” luôn thể hiện tinh thần đó.