- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 1: Thị Kính là hình ảnh của người phụ nữ hiền thục, sống trong bất công và ngang trái. Phẩm chất và số phận của nàng được thể hiện rõ trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng.
- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 3: Thị Kính trở thành biểu tượng của sự hiền thục và bất công trong thế giới văn hóa chèo. Cuộc sống của nàng đảo lộn từ khi bị hiểu lầm vì một hành động vô tình.
- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 2: Thị Kính là người phụ nữ nết na, hết mực lo toan cho gia đình và yêu thương chồng. Tuy nhiên, hành động vô tình khiến nàng bị vu oan giết chồng, trải qua nỗi đau khổ tột cùng.
- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 5: Thị Kính là biểu tượng của sự yêu mến với tâm hồn đẹp và đồng thời làm ta xót xa trước số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 4: Thị Kính trở thành nạn nhân của bi kịch 'Nỗi oan hại chồng'. Hình ảnh bi thảm của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến được thể hiện rõ.
- - Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 6: Thị Kính, sinh ra trong gia đình nghèo, bị gả cho Sùng Thiện Sĩ. Bị vu oan giết chồng, nàng trải qua sự tủi nhục cực khổ và bế tắc tột cùng.
1. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 1
Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, Thị Kính là hình ảnh của người phụ nữ hiền thục, nhưng sống trong bất công và ngang trái. Phẩm chất và số phận của nàng được thể hiện rõ trong đoạn trích Nỗi oan hại chồng.
Thị Kính, cô gái xinh đẹp, nết na, con nhà nghèo, hạnh phúc với chồng Thiện Sĩ. Nhưng một hôm, vì một hành động vô tình, nàng bị vu oan giết chồng. Trước sự ác độc của mẹ chồng và sự nhu nhược của chồng, Thị Kính trải qua nỗi đau khổ tột cùng, buộc phải rời bỏ hạnh phúc gia đình, tìm kiếm sự bình an ở cửa Phật.
Qua nhân vật Thị Kính, tác giả đã lên án sự bất công, đau thương của người phụ nữ xưa trong xã hội. Tác phẩm là lời kêu gọi nhân bản về lòng nhân ái và sự công bằng trong xã hội.
Hình minh họa (Nguồn internet)2. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 3
Trong thế giới văn hóa chèo, 'Quan Âm Thị Kính' nổi bật với chi tiết và ý nghĩa sâu sắc. Đoạn trích Nỗi oan hai chồng là điểm mở đầu đầy xúc động, nơi Thị Kính trở thành biểu tượng của sự hiền thục và bất công. Cuộc sống của cô đảo lộn từ khi bị hiểu lầm vì một hành động vô tình, khiến gia đình và xã hội phong kiến gán cho cô tội giết chồng.
Sự nghi ngờ và đánh đồng của mẹ chồng và chồng khiến Thị Kính chịu nhiều đau đớn. Cảnh cha chồng bất lực trước sự đàn áp của vợ và mẹ tạo nên bức tranh bi thảm của người phụ nữ thời bấy giờ. Dù có sự bào chữa, nhưng trong xã hội địa vị phụ nữ bị coi thường, nỗ lực của Thị Kính trở nên vô ích.
Thị Kính là biểu tượng cho những người phụ nữ bị hiểu lầm và chịu đựng nhiều bất công trong xã hội cổ truyền. Đoạn trích làm tăng thêm sự đau đớn và nổi bật nỗi oan hại, làm dấy lên tình cảm của độc giả về những người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng bị xã hội khắc nghiệt đẩy vào bế tắc.
Hình minh họa (Nguồn internet)3. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 2
Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, chèo là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, là một thể loại kịch sân khấu mang đậm tính dân tộc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhiều yếu tố khác nhau như kịch, múa, hát, kể chuyện,... Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự phát triển của nghệ thuật, chèo vẫn giữ được vị trí quan trọng, góp phần bồi đắp, nuôi dưỡng tâm hồn những người con đất Việt với nhiều tác phẩm độc đáo, đặc sắc và vở chèo "Quan Âm Thị Kính" là một trong số những vở chèo như thế. Vở chèo "Quan Âm Thị Kính" nói chung, đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" nói riêng đã thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp cũng như nỗi oan khuất, sự bế tắc của nhân vật Thị Kính.
Trước hết, nhân vật Thị Kính hiện lên là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp - dịu dàng, nết na, hết mực lo toan cho gia đình và yêu thương chồng. Thị Kính là con gái trong một gia đình nông dân nghèo nhưng đẹp người, đẹp nết và có lẽ chính vì cảm mến dung nhan, phẩm hạnh của nàng nên Thiện Sĩ đã cưới nàng về làm vợ. Kết hôn với Thiện Sĩ, Thị Kính luôn là một người phụ nữ nết na, hết mực lo cho chồng.
"Đạo vợ chồng trăm năm kết tóc,
Trước đẹp mặt chồng sau đẹp mặt ta.
Râu làm sao một chiếc trồi ra?
Dị hình sắc dưới cằm mọc ngược
Khi chàng thức giấc biết làm sao được.
Nay đang cơn giấc ngủ mơ màng,
Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an
Âu dao bén, thiếp xén tày một mực.
Những lời nói, lời bày tỏ ấy của Thị Kính đã cho thấy nàng là một người phụ nữ chăm chỉ, chịu thương, chịu khó với công việc thêu thùa, may vá mỗi ngày. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự chu đáo, quan tâm chồng của nàng khi nàng vừa may vá vừa quạt cho chồng ngủ. Nhưng có lẽ không dừng lại ở đó, những lời bộc bày ấy của nàng còn cho thấy sự yêu thương, lo lắng và thương chồng của Thị Kính, bởi nàng thấy đẹp mặt chồng cũng chính là đẹp mặt mình và hơn ai hết, nàng có trách nhiệm, nghĩa vụ chăm lo cho vẻ đẹp của chồng. Lòng thương chồng ấy đã khiến nàng quyết định cầm dao cắt râu cho chồng nhưng đâu ngờ rằng, chính hành động ấy đã khiến nàng phải chịu một nỗi oan, nỗi uất ức sau này.
Là một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đáng ra Thị Kính phải có một cuộc sống êm ấm, hạnh phúc và vui vẻ, thế nhưng người phụ nữ ấy lại có một số phận đầy đau khổ và bất hạnh. Vì muốn cắt cái râu mọc người cho chồng, Thiện Sĩ tỉnh giấc khi chưa hiểu rõ ngọn ngành đã hét lớn, cho rằng Thị Kính muốn giết mình. Trước sự việc ấy, Sùng bà - mẹ của Thiện Sĩ đã dùng những lời lẽ cay độc, tàn nhẫn để mắng chửi, sỉ nhục và thậm chí còn đẩy ngã Thị Kính. Tuy nhiên, trước những lời nói và hành động của mẹ chồng, Thị Kính vẫn rất hòa nhã, nàng phân bua, hết lần này đến lần khác kêu oan nhưng tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Với Sùng bà, những lời nàng nói như chỉ thêm dầu vào lửa, như nước đổ lá khoai, bởi bà đã cho rằng Thị Kính là người có tội, là kẻ tàn ác và bất nhân. Quá bất lực trước hành động và lời nói của mẹ chồng, nàng tìm đến chồng với hi vọng Thiện Sĩ sẽ hiểu và giúp nàng minh oan. Nhưng trái với suy nghĩ của mình, Thiện Sĩ cũng không thể giúp gì cho nàng, bởi lẽ chàng là một con người nhu nhược và hơn thế nữa, cũng vì Thiện Sĩ chưa hiểu rõ mọi chuyện đã hét toáng lên khiến Thị Kính bị mang oan. Đau đớn và bất lực, Thị Kính tìm đến Mãng Ông nhưng ông cũng không thể làm gì khác để có thể giúp cho con. Như vậy, dù bị oan, nhưng đến cuối cùng, không ai có thể đứng ra để giúp đỡ hay minh oan cho Thị Kính, một mình nàng phải chịu nỗi oan vô lí trong sự vô tình của mọi người với nỗi đau khổ và bất lực đến tột cùng.
Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan khuất không thể lí giải còn cha của nàng thì bị đẩy ngã. Chắc hẳn sẽ chẳng có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của Thị Kính lúc này - hôn nhân, gia đình tan vỡ, mất lòng tin ở chính những người thân trong gia đình và hơn thế nữa đó chính là việc nàng đã phải chứng kiến cảnh cha mình bị làm nhục. Tận cùng của nỗi đau và sự bất lực và có lẽ cũng không còn sự lựa chọn nào khác, Thị Kính quyết định ra đi. Trước khi từ giã tổ ấm của mình, nàng vẫn không quên ngoái đầu nhìn lại thúng khâu, chiếc kỉ, thúng sách,... - những kỉ vật của một thời hạnh phúc, ấm êm nhưng nó lại cũng chính là nhân chứng cho nỗi oan ức của nàng.
Ngoái nhìn lại tất cả với một nỗi đau đớn, xót xa và cả sự luyến tiếc. Rời khỏi nhà, nàng quyết định nương nhờ nơi cửa chùa. Sự lựa chọn ấy của Thị Kính như một lẽ tất yếu, bởi lẽ nàng đã bị đuổi khỏi nhà chồng, càng không thể trở về nhà cha mẹ đẻ bởi đó là điều lễ giáo phong kiến không cho phép. Nàng giả trai đi tu, nương nhờ cửa Phật với mong mỏi sẽ có được cuộc sống yên bình và nơi thanh tịnh ấy sẽ chứng minh cho sự trong sạch của nàng. Nhưng đồng thời, sự lựa chọn ấy của nàng cũng cho thấy sự sự bế tắc của nàng nói riêng, của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung bởi đấy là sự lựa chọn thụ động trước sự nghiệt ngã, xô đẩy của hoàn cảnh.
Tóm lại, vở chèo "Quan Âm Thị Kính" nói riêng, trích đoạn "Nỗi thương mình" nói riêng với cách xây dựng xung đột kịch gay gắt cùng cách miêu tả nhân vật độc đáo, hấp dẫn đã thể hiện được những nét đặc sắc về nhân vật Thị Kính - một người phụ nữ với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu nỗi oan khuất bi thảm, bế tắc. Thị Kính chính là hình ảnh đại diện cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)4. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 5
Thân phận của những người nhỏ bé trong xã hội thường đầy những đau đớn, làm ta cảm thấy xót xa, thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” cũng không ngoại lệ, mang đến sự yêu mến với tâm hồn đẹp và đồng thời làm ta xót xa trước số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Thị Kính, người con gái xuất thân từ gia đình nghèo, nhưng lại toát lên vẻ đẹp tâm hồn. Ban đầu, nàng là người vợ tận tụy, hết lòng vì chồng và gia đình. Hành động nhỏ như để ý rằng chồng có cái râu mọc ngược và muốn cắt nó để làm đẹp cho chồng, thể hiện tình yêu sâu sắc. Tuy nhiên, điều này lại bị hiểu lầm và dẫn đến sự bất công cho nàng. Mối quan hệ lạc quan giữa vợ chồng trở thành nỗi đau thầm kín của Thị Kính.
Với xuất thân thấp cổ bé họng từ nhà nghèo, Thị Kính phải đối mặt với số phận khó khăn. Các quy tắc nặng nề và hà khắc của xã hội làm nàng phải chịu cảnh đau đớn. Thậm chí, một hành động nhỏ như việc bị vu oan về ý mưu sát chồng cũng là do những định kiến và quy tắc cổ truyền. Trước sự bất công, Thị Kính không đối đầu bằng lời lẽ cay độc, chỉ mong có sự thấu hiểu và đồng cảm.
Dù cha nàng có ý thức về nỗi oan của con, nhưng ông không thể nói lên điều gì. Sự bất lực và bất công trước xã hội khiến Thị Kính quyết định giả làm chú tiểu, tìm sự nương nhờ tại cửa Phật. Hành động này không chỉ thể hiện lòng hiếu thảo mà còn là biểu tượng của sự thụ động trước số phận khó khăn.
Thị Kính, bằng những hành động nhỏ và tích cực, trở thành biểu tượng cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cổ, nơi đau thương và bất công là điều tất yếu. Cuộc đời của nàng không phải là chuỗi lỗi lầm, nhưng lại là sự đối mặt không công với số phận. Người đọc không chỉ cảm thông mà còn trân trọng vẻ đẹp và lòng thuần khiết của một người con gái trong bức tranh xã hội đầy mâu thuẫn.
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)5. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 4
Quan Âm Thị Kính, một vở chèo cổ danh tiếng, hé lộ những mảnh đời đau thương của người phụ nữ Thị Kính. Với ba phần Án giết chồng, Án hoang thai, và Oan tình được giải, vở chèo tận diệt khán giả với bi kịch thân phận và lòng nhân ái. Những tình tiết như oan hại chồng, án hoang thai là bức tranh tâm huyết của cuộc sống dưới triều đại phong kiến. Sự phân biệt đối xử, bất nhân bất nghĩa, cùng với sự hi sinh và lòng nhân ái của Thị Kính đã tạo nên một tác phẩm chèo ý nghĩa và sâu sắc.
Hình minh họa (Nguồn: Internet)
6. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 7
Nước ta từng chứng kiến nhiều loại nghệ thuật phong phú, nhưng có một loại nghệ thuật đặc biệt và vẹn nguyên đến ngày nay, đó là chèo. Chèo không chỉ là sự kết hợp của kịch, múa và diễn thuyết, mà còn là cách diễn đạt nghệ thuật trên sân khấu. Chèo thu hút sự quan tâm của đông đảo người yêu nghệ thuật và là điểm đến giải trí không thể bỏ qua.
Vở chèo “Quan Âm Thị Kính” không chỉ nổi bật trong nghệ thuật chèo mà còn là biểu tượng của sự cảm nhận về nhân vật Thị Kính trong chương trình Ngữ Văn lớp 7. Thị Kính, đại diện cho phụ nữ thời phong kiến, trải qua gian khổ, oan trái, nhưng cuối cùng lại trở thành nương nhờ của Phật. Bài viết dưới đây là một minh họa xuất sắc cho cách mà các bạn có thể tiếp cận đề bài. Chúc các bạn thành công.
Trong vở “Quan Âm Thị Kính”, đoạn Nỗi oan hại chồng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tác phẩm và văn học kịch bản. Đây là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Thị Kính – nhân vật chính của vở chèo.
Thị Kính, lớn lên trong gia đình nghèo, kết hôn với Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh tuấn tú và siêng năng học. Một lần, khi Thiện Sĩ ngủ quên sau giờ đọc sách, Thị Kính nhìn thấy sợi râu mọc ngược ở cằm chồng. Cầm con dao nhíp trong thúng đồ may, Thị Kính định cắt sợi râu đó. Nhưng Thiện Sĩ bất ngờ tỉnh dậy, nhìn thấy vợ cầm dao, liền kêu lên, nghĩ rằng vợ muốn giết mình. Thị Kính bị buộc tội và bị chồng đuổi đi, xã hội lên án. Thị Kính trở thành nạn nhân của bi kịch “Nỗi oan hại chồng”.
Trong đoạn trích, 6 lần Thị Kính khóc lóc và van xin, nhưng mẹ chồng không thèm để ý. Nỗi oan này chỉ có thể kêu trời, vì bị vu oan là giết chồng, tội ác không thể tha thứ. Mẹ chồng chửi mắng thậm tệ hơn mỗi khi Thị Kính khóc. Thị Kính trải qua sự tủi nhục cực khổ khi bị đuổi về nhà mẹ đẻ. Đây là hình ảnh bi thảm của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến.
Sinh ra trong nghèo đói, Thị Kính mong rằng việc kết hôn với người có học sẽ mang lại cuộc sống ấm êm. Nhưng ngược lại, gia đình giàu có khinh miệt nghèo đói, coi Thị Kính như cỏ rác. Chồng nhu nhược và vô tâm. Ngay cả cha Thị Kính cũng bị ông Sùng khinh bỉ, mặc dù cả hai là thân nhân. Cha con Thị Kính cùng khóc, mà nỗi đau này không lẽ nào chẳng thấu hiểu. Thị Kính van xin Thiện Sĩ, nhưng anh ta không chút động lòng. Nỗi oan của Thị Kính được người cha cảm thông:
“Con ơi!
Dù oan dù nhẫn chẳng oan,
Xa xôi cha biết nỗi con thế nào?”
Mãng Ông an ủi con gái, khuyên con về nhà. Cuối đoạn, Thị Kính lặng lẽ rời đi, là hình ảnh thể hiện niềm tin thánh thiện: con đường tu hành dẫn đến cửa Phật là con đường sáng.
Người ta tin rằng chỉ qua cửa Phật, con người mới có thể tránh bụi trần, trở nên thiện lành và nhân ái hơn. Cách Thị Kính đối mặt với số phận là minh chứng rõ ràng cho sự bế tắc không chỉ của bản thân cô mà còn của cả xã hội. Họ lên án mạnh mẽ xã hội thối nát, nhưng đồng thời mơ ước về một xã hội tốt đẹp hơn, như thế giới tu chẳng hạn. Đây thực sự là tình trạng bế tắc, sự buông xuôi trước số phận của một xã hội chưa trải qua cách mạng.
Thấu hiểu qua nhân vật Thị Kính, chúng ta hiểu rõ hơn về số phận của phụ nữ thời xưa trong một xã hội đầy thách thức. Thị Kính là biểu tượng của người phụ nữ khổ cực trong xã hội phong kiến. Đoạn trích và vở chèo nói chung mang đến giá trị nhân đạo sâu sắc và ý nghĩa.
Hình ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
7. Phân tích nhân vật Thị Kính trong vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' số 6
Phụ nữ xưa luôn phải đối mặt với bất công và khổ đau, không có nơi để tâm sự. Trong tác phẩm 'Quan Âm Thị Kính', đặc biệt đoạn 'Nỗi oan hại chồng' chi tiết khắc họa rõ hình ảnh người phụ nữ đối mặt với bi kịch trong cuộc sống. Thị Kính, sinh ra trong gia đình nghèo, bị gả cho Sùng Thiện Sĩ, một thư sinh giàu có.
Một đêm, khi Thiện Sĩ đang ngủ sau khi học, Thị Kính thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng. Nàng cắt sợi râu đó, nhưng Thiện Sĩ tỉnh dậy, tưởng Thị Kính muốn giết mình và kêu lên. Gia đình chồng không phân biệt đúng sai, kết án Thị Kính giết chồng và trả về cho Mãng Ông – cha nàng.
Thị Kính về nhà cha nhưng giữa đường, nàng quyết định từ biệt cha mẹ, giả trang nam giới và đi tu hành. Dù nghèo khó, Thị Kính là người con gái đoan trang, nhân hậu, thương yêu chồng. Đây là hình ảnh chung của phụ nữ xưa: 'thân em vừa trắng lại vừa tròn, Bảy nổi ba chìm với nước non'. Nhưng dưới bất công của xã hội xưa, nàng bị vu oan giết chồng mà không thể bào chữa. Trong xã hội tôn trọng giá trị phụ nữ, nàng bị chồng bỏ rơi và chịu đựng oan ức sự bế tắc, bị đối xử tệ bạc.
Thị Kính, mặc dù bị đối xử tệ, vẫn tha thứ 'Oan cho con lắm mẹ ơi', 'Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi'... Nàng mong muốn được cảm thông, nhưng nhận lại sự phũ phàng, mẹ chồng mắng chửi thậm tệ hơn. Đây là số phận đau lòng của người phụ nữ xưa: thấp bé, dễ dàng bị chà đạp. Mẹ chồng cuối cùng cũng không thông cảm cho Thị, đuổi nàng về nhà mẹ đẻ. Với nàng, đó là đau khổ và tuyệt vọng tột cùng.
Người duy nhất hiểu 'Nỗi oan' của Thị Kính là Mãng Ông, nhưng ông không có tiếng nói trong xã hội xưa, khiến cho mọi người vẫn chỉ trích. Mãng Ông thất vọng than rằng: 'Con ơi/ Dù oan dù nhẫn chẳng oan/ xa xôi cha biết nỗi con thế nào?' Khi không được sự thấu hiểu, nàng cầu mong 'Nhật nguyệt rang soi' cho nỗi oan, xin lỗi cha mẹ và 'Quyết tâm trá hình nam tử đi tu hành'.
Hành động của Thị Kính thể hiện sự đau khổ và bế tắc tột cùng. Sự bế tắc này không chỉ thuộc về Thị Kính mà còn của một lớp người, một giai cấp nhỏ trong xã hội xưa. Tiếng nói của họ là lời phê phán mạnh mẽ xã hội thối nát, đồng thời thể hiện ước mơ về cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng chỉ có thể đạt được khi nương nhờ cửa Phật.
Qua nhân vật Thị Kính, chúng ta thấy số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ, đối mặt với bất công. Tác phẩm cũng thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh.
Hình minh họa (Nguồn: Internet)