1. Bài văn phân tích hình tượng người bà trong 'Đò Lèn' số 1
Hình ảnh của người bà luôn là một đề tài mang đầy nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam. Trong khi Bằng Việt vẽ hình ảnh người bà nồng thắm bên bếp lửa, thì ở Nguyễn Duy, chúng ta được chiêm ngưỡng hình ảnh của người bà sớm hôm, mải mê với những hoạt động buôn bán ngược xuôi. Đây chính là hình ảnh người bà trong tác phẩm “Đò Lèn”.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả mô tả hình dáng của một cậu bé tinh nghịch, với những trò chơi thú vị của tuổi thơ:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Cậu bé ấy chính là Nhà thơ Nguyễn Duy, hình ảnh nhỏ bé của cậu hiện lên vô cùng đáng yêu khi đi câu cá, níu váy bà đi chợ. Không chỉ thế, trong tâm tưởng của cậu bé, không có sự nhận thức về sự uy nghiêm tại nơi Phật tỏa, dẫn đến những trò chơi mà không e sợ sự quở trách từ đức Phật. Điều này thể hiện sự ngây thơ của cậu bé Nguyễn Duy, không biết đến sự uy nghiêm, từ đó thấy được tuổi thơ giản dị, nghịch ngợm nhưng đối với trẻ thôn quê, hành động vặt trộm nhãn chùa Trần không phải là điều xấu xa, mà đơn giản chỉ là một trò nghịch ngợm của trẻ con làng quê.
Hình ảnh của cậu bé Duy, tinh nghịch khi đi lễ phật cùng bà, làm tôn lên tính hiếu động, nghịch ngợm của cậu. Cậu bé này vẫn còn rất nhỏ để hiểu rõ sự trang nghiêm tại nơi đền Cây Thị:
“Thuở nhỏ tôi lên chơi chơi xổ sốn Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Đó là những kí ức đẹp của nhà thơ với người bà, những khoảnh khắc êm đềm khi có bà bên cạnh. Bà mang theo nhà thơ mọi nơi, là những ký ức đáng nhớ của cậu bé khi đi lễ phật, đi chợ hoặc chơi. Đây là những khoảnh khắc quý báu, khi cậu bé đi chân đất xem lễ đền Sòng. Tuổi thơ không chỉ liên quan đến hình ảnh cánh đồng mát, diều trắng bay trên bầu trời, mà còn là những phút giây nghịch ngợm của cậu bé ấy ở lễ đền và chùa. Cậu nghịch ngợm giữa không gian uy nghi, ngất ngưởng với mùi huệ và hương trầm. Một điệu hát văn với hình dáng lảo đảo của cô đồng đã in sâu trong tâm trí non nớt của cậu bé.
Ngây thơ của cậu bé khiến anh ta không hiểu rõ những vất vả của bà. Thậm chí, anh ta chưa nhận ra sự uy nghiêm của nơi Phật tỏa, đến mức không biết đến những khó khăn của bà. Trẻ con, giống như tờ giấy trắng, ngây thơ của chúng có thể trở thành vô tâm đối với người thân yêu. Nhưng điều này chỉ là quan sát sau này khi chúng ngẫm lại, không phải là lý trách đối với trẻ con:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Tác giả diễn đạt “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế” như một bản trình bày về những thử thách mà bà đã phải đối mặt, nhưng tâm hồn của nhà thơ lúc đó không thể hiểu rõ về khổ cực là gì. Tâm hồn đó chỉ dành cho những niềm vui và trò chơi. Bà không chỉ phải mò cua và bắt tép, mà còn phải gánh chè xanh đi bán. Những đêm lạnh, bà còn thập thững đi Quán Cháo, Đồng Giao. “Thập thững” mô tả tất cả khó khăn và nguy hiểm đối với tuổi tác và sức khỏe yếu đuối của bà. Tuy nhiên, mỗi đêm, bà làm những công việc đó vì đứa cháu yêu quý.
Tuổi thơ của Nguyễn Duy đã trải qua những năm kháng chiến quyết liệt, đau thương. Hình ảnh củ rong giếng luộc sượng thể hiện nghèo đói trên khắp đất nước. Người bà kiên cường kia không chỉ là người bà, mà còn như một người cha, người mẹ, với sự cống hiến không ngừng để nuôi sống cậu bé Nguyễn Duy. Bà trở nên giống như tiên nhân, phật tổ:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Nhưng không chỉ nghèo đói, tuổi thơ bên người bà của nhà thơ còn phải trải qua những năm tháng đau khổ với bom đạn chiến tranh:
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Đó là những ngày tháng khó khăn trong cuộc đời tác giả và người bà. Hình ảnh nhà bà bay còn là biểu tượng của sự mất mát không chỉ là ngôi nhà mà còn cả những chùa chiền linh thiêng. Bà bắt buộc phải thay đổi công việc, từ trứng vịt, bà đi bán trứng ở ga Lèn. Những hình ảnh kia thể hiện sự kinh hoàng của chiến tranh, không chỉ phá hủy nhà cửa mà còn làm mất đi những nơi thờ cúng.
Khi người cháu nhận ra những đau thương, khó khăn của bà, đã quá muộn vì bà đã rời đi và sang thế giới bên kia. Nhưng sự ra đi của bà không làm mất đi bà trên thế gian này, bởi vì bà vẫn sống mãi trong tâm tư và tình cảm của người cháu:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!”
Kết luận bài thơ là một lời than thở, một nỗi nhớ và tình cảm hồi tưởng. Hình ảnh người bà mưu sinh vất vả, yêu thương vô bờ dành cho cháu sẽ luôn in sâu trong tâm trí người đọc. Bà quay về với đất, “chỉ còn là một nấm cỏ thôi” nhưng hình bóng và tình thương của bà sẽ sống mãi trong cuộc đời.

2. Phân Tích Hình Tượng Người Bà trong 'Đò Lèn' số 3
Thời thơ ấu của chúng ta không chỉ là kỷ niệm với bạn bè, mà còn là những ký ức với những người thân yêu, trong đó có người bà. Những câu chuyện cổ tích mà bà kể, những món quà quê đơn giản nhưng ý nghĩa mà bà tặng, đã tạo nên những kí ức đáng nhớ trong lòng chúng ta. Trong văn học Việt Nam, bài thơ 'Đò Lèn' của Nguyễn Duy có lẽ là một trong những tác phẩm làm nổi bật hình tượng người bà với độc giả.
Trong tác phẩm, hình tượng người bà hiện lên như một người phụ nữ yêu thương cháu một cách vô điều kiện:
'Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi chơi xổ sốn Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng'
Với chỉ có hai bà cháu, người bà luôn đưa cháu theo mọi nơi. Đứa bé tinh nghịch này đã 'níu váy bà đi chợ Bình Lâm', và nắm tay bà đi đến những địa điểm linh thiêng như cửa Phật, chùa chiền, đình đền để ngắm hát văn, cô đồng và lễ đền Sòng. Chính ở những nơi này, người cháu cảm nhận được mùi 'thơm lắm' của hoa huệ trắng kết hợp với khói trầm. Những trò 'bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật' hay trò ăn trộm nhãn ở chùa Trần cũng xuất phát từ đây. Chỉ khi có tấm lòng thiện, người bà mới thường xuyên đưa cháu đến những nơi linh thiêng như thế. Có lẽ, khi đưa cháu đi, bà mong muốn cháu sẽ phát triển tâm hồn thiện lương, luôn hướng về điều tốt lành, góp phần vào cuộc sống? Sống trong thời chiến tranh, sự khó khăn, gian khổ của người bà càng trở nên khắc nghiệt hơn:
'Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn'
Bà không ngần ngại những công việc nặng nhọc, ngược lại, bà còn làm nhiều công việc khác nhau để nuôi nấng đứa cháu trở thành người lớn. Sau cùng là mò cua xúc tép, bà lại đi gánh chè xanh, rồi mỗi đêm lạnh giá, bà thập thững qua Quán Cháo, Đồng Giao. Bà không sợ khó, không sợ khổ, bà chỉ muốn đảm bảo cuộc sống của người cháu đầy đủ nhất. Đối với bà, đó không chỉ là trách nhiệm, mà còn là tình yêu thương cá nhân của bà dành cho đứa cháu bé. Chiến tranh mang đến mất mát, đói kém. Trong những năm đói, hai bà cháu phải ăn 'củ dong riềng luộc sượng' để sống sót. Bởi vì bà hi sinh như vậy, tác giả đã viết:
'Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần'
Bà cao quý như những thánh thần, tiên phật. Bà là người hiền lành, nhân hậu như những bà tiên trong truyện cổ tích. Bà đã đảm nhận cả trách nhiệm của bố mẹ đối với đứa cháu, nên bà luôn nỗ lực để chăm sóc cuộc sống của cháu một cách toàn diện, dù đời sống có phải trải qua bao gian khổ. Chiến tranh không khiến con người chùn bước, chán nản, mà nó còn khiến họ trở nên kiên cường hơn, và người bà cũng thế. Bom Mỹ không làm bà sợ hãi, mà ngược lại, chúng làm bà trở nên kiên cường, dũng cảm hơn:
'Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn'
Khi bom Mỹ đổ xuống, cũng là lúc những nơi linh thiêng như chùa chiền, đình đền 'bay tuốt' không còn lại, những lễ hội hay điệu hát cô đồng cũng mất đi. Lúc này, bà rời nhà đi 'bán trứng ở ga Lèn'. Khó khăn không làm bà khuất phục, bom Mỹ không khiến bà chùn bước. Bà chính là một người phụ nữ anh hùng, là biểu tượng của bao phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh. Hình tượng người bà trở nên linh thiêng, bất tử khi người cháu quay về quê ngoại và hối hận sâu sắc vì ngày thơ ấu đã không hiểu được những khó khăn của bà:
'Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi'
Dòng sông cũ vẫn mặc dù không đổi, nhưng bây giờ 'bà chỉ còn là một nấm cỏ'. Có gì đau đớn hơn khi người thân yêu nhất không còn ở bên ta và họ không còn tồn tại nữa? Ở thời điểm này, người cháu mới nhận ra giá trị quan trọng của người bà đối với cuộc sống của mình. Anh ấy thương xót khi thấy mọi nỗ lực, mọi gian khổ bà đều gánh chịu một mình. Bà là người anh hùng trong cuộc đời anh ấy, là người đã có công lao lớn trong việc dạy dỗ anh trở thành người, và cũng là người mà anh ấy có lẽ sẽ không bao giờ quên trong đời.
Nguyễn Duy đã miêu tả người bà ngoại của mình với sự kính trọng và tình cảm sâu sắc. Mặc dù bà đã ra đi, hình tượng người bà kiên cường và tràn đầy yêu thương vẫn được giữ gìn vững chắc.

3. Tìm Hiểu Về Hình Tượng Người Bà trong 'Đò Lèn' số 2
Gia đình là nơi có tình cảm thiêng liêng nhất, là bến đỗ an toàn trong khó khăn và hạnh phúc. Người bà, biểu tượng của tình mẹ, thường xuất hiện trong văn học như một nguồn yêu thương và chăm sóc. Trong bài thơ 'Đò Lèn' của Nhà thơ Nguyễn Duy, hình tượng người bà trở thành biểu tượng của những người phụ nữ Việt Nam trong cuộc chiến chống Mỹ.
Người bà thể hiện tình cảm với cháu một cách sâu sắc. Chúng ta thấy bà tham gia các nghi lễ tôn giáo như chùa Trần, Phật Tổ, đánh bắt chim sẻ và thậm chí ăn trộm nhãn chùa Trần. Điều này thể hiện lòng tin tưởng và sự hướng dẫn tâm linh từ người bà. Hương thơm của huệ trắng và khói trầm trong các đêm lễ tạo nên không khí thiêng liêng, đánh thức tâm hồn cháu bé.
Người bà không chỉ là người dạy dỗ tâm linh mà còn là người thương yêu và chăm sóc. Đưa cháu đến các đền đình, chợ Bình Lâm, và chơi đêm tại đền Cây Thị, người bà tạo nên những kí ức đáng nhớ và gắn bó với văn hóa tâm linh của dân gian.
Hình ảnh người bà không chỉ đẹp về tâm linh mà còn về những công việc khó khăn và đầy trách nhiệm. Trong thời chiến tranh, bà mò cua, gánh chè xanh Ba Trại, và thậm chí là bán trứng ở ga Lèn để nuôi sống gia đình. Sự kiên cường của người bà trước bom Mỹ khiến cho ngôi nhà bay mất, đền Sòng bay tuốt, nhưng bà không chùn bước. Thậm chí, bà tiếp tục cuộc sống bằng cách bán trứng. Hình tượng người bà trở nên linh thiêng, là biểu tượng của lòng kiên cường, sự hy sinh, và tình mẫu tử.
Người cháu, sau khi trưởng thành, trở lại quê ngoại và nhận ra giá trị quý báu của người bà. Làm lính, khi nhìn thấy những nỗ lực và khó khăn của bà, anh ấy hối hận vì không hiểu rõ hơn về người bà hồn nhiên trong thời thơ ấu.

4. Nghiên Cứu Về Hình Tượng Người Bà trong 'Đò Lèn' số 5
Đò Lèn là tác phẩm Nguyễn Duy viết năm 1983 trong dịp trở về quê hương. Những hồi ức về quê hương đã thôi thúc nhà thơ viết về những ngày thơ ấu của mình, đó là những kỉ niệm bên người bà yêu thương. Trong bài thơ hình ảnh người bà hiện lên gần gũi, chân thực mà cũng vô cùng cảm động. Những kỉ niệm giản dị nhưng sâu nặng bên bà của tác giả có sức lay động chân thành, nó cũng như “tấm vé” đưa chính những độc giả về với tuổi thơ của chính mình.
Mở đầu bài thơ, tác giả nhớ về những ngày thơ ấu, những trò chơi thân thuộc thuở nhỏ. Và ngay trong những dòng hồi ức đầu tiên, hình ảnh người bà cũng xuất hiện thật tự nhiên với bao tình cảm thân thương nhất:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
Níu váy bà đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần”
Từ khi còn rất nhỏ, tác giả Nguyễn Duy từng “níu váy” bà để đến những phiên chợ quê, từng vui chơi những trò chơi con nít quen thuộc tại vành tai tượng phật và những trò chơi nghịch ngợm “ăn trộm nhãn chùa Trần”. Người cháu cũng từng theo bà đến những chùa chiền để cầu mong những điều tốt đẹp “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng”, hương thơm của huệ trắng và hương trầm cũng đã trở thành một phần của tiềm thức tuổi thơ.
“Thuở nhỏ tôi lên chơi chơi xổ sốn Cây Thị
Chân đất đi đêm xem đèn Sòng
Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Có thể thấy tuổi thơ của tác giả cũng bình dị như bao đứa trẻ nào khác lớn lên ở miền quê, cuộc sống có thể thiếu thốn về vật chất nhưng lại vô cùng đủ đầy về tinh thần. Hình ảnh người bà thân yêu của tác giả còn hiện lên qua những công việc nặng nhọc để nuôi lớn đứa cháu thơ “bà mò cua xúc tép ở đồng Quan”, đi “gánh chè Ba Trại”.
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập từ những đêm hàn”
Từ nhỏ tác giả đã sống cùng với bà nên bà không chỉ đóng vai trò là một người bà mà còn thực hiện trách nhiệm của người bố, người mẹ. Bao gánh nặng gia đình đều đè nặng lên đôi vai gầy yếu của bà. Sự thơ ngây của tuổi thơ khiến người cháu chưa thấu hiểu được nỗi vất vả của bà nhưng trong cảm nhận của người cháu bà cũng hiền từ, bao dung như tiên, phật, thần thánh.
“ Tôi trong suốt giữa hai bờ hư- thực
Giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
Không chỉ giàu yêu thương, tần tảo mà bà còn là một người phụ nữ kiên cường hơn bất cứ ai. Trong mưa bom bão đạn bà vẫn kiên cường chống đỡ để trở thành chỗ dựa vững chắc cho đứa cháu:
“Bom Mĩ dội, nhà bà tôi bay mất
Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Trong cái dữ dội của cuộc chiến tranh, bom Mĩ đã tàn phá hết quê hương, xóm làng, cả ngôi nhà nhỏ của hai bà cháu cũng bị phá hủy. Cả chùa chiền, thánh, phật cũng bay theo bom đạn của giặc Mĩ. Thế nhưng một người trần mắt thịt như bà lại vẫn kiên cường đứng ở ga Lèn bán trứng. Cái khốc liệt của chiến tranh có thể làm mất đi đời sống tâm linh nhưng sức sống mạnh mẽ của con người thì không gì có thể phá hủy nổi. Bà vẫn đi bán trứng để mưu sinh, để chăm lo cho sự lớn khôn của đứa cháu.
Khi đã trưởng thành, đi lính người cháu đã thấu hiểu được những vất vả hi sinh của bà nhưng cũng đã muộn vì bà đã không còn “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”. Dù có xót xa, nuối tiếc nhưng tình cảm thiêng liêng của người cháu dành cho bà vẫn luôn đáng trân quý, đáng trân trọng như thế, tình cảm ấy như ánh sáng soi đường để người cháu tiếp tục cầm súng thực hiện trách nhiệm bảo vệ sự sống, sự bình yên của đất nước, quê hương.

5. Bài văn phân tích hình tượng người bà trong "Đò Lèn" số 4
Nguyễn Duy đã rất thành công trong việc miêu tả thành công nhân vật người bà trong tác phẩm, đó là hình tượng thành công trong sự nghiệp văn học của ông. Hình ảnh đó đã trở thành một hình mẫu văn học đẹp trong văn học.
Có thể thấy trong nền văn học Việt Nam, hình tượng người bà khá là phổ biến và nó là một hình mẫu đẹp trong nền văn học, tất cả những hình ảnh đó đang dần trở thành một đề tài mà mỗi nhà thơ đều khai thác và đi sâu vào nghiên cứu rộng, chính vì vậy, muốn phát triển thêm cho hình tượng của mình, mỗi tác giả phải có cái nhìn riêng, những trải nghiệm, những khám phá đặc sắc về nhân vật đó. Trong bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy ông đã tận dụng tối đa chất liệu từ chính cuộc đời với người bà của mình.
Hình ảnh người bà tần tảo luôn làm mọi điều để cho cháu được sống cuộc sống đầy đủ nhất, hình ảnh người bà trong tác phẩm này thể hiện một mẫu hình lý tưởng, đó là một mẫu hình đẹp trong con mắt của tác giả, một người bà luôn hy sinh, chịu sự vất vả khó khăn, bươn trải kiếm sống:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Bà cực khổ, kiếm sống hàng ngày, đi bán hàng để lấy tiền kiếm sống, đi mò cua xúc tép, đi bán chè ở xanh Ba Trại, rồi đi bán cháo trong đêm lạnh giá, tất cả những hình ảnh đó đã thể hiện sự hy sinh, luôn hết mình vì cuộc sống của hai bà cháu, tần tảo sớm hôm để kiếm sống, hết mình vì cháu. Những hình ảnh trên thật xúc động, nó gợi nhớ cho tác giả, một hình ảnh người bà, với sự tần tảo sớm hôm, luôn hết mình vì cuộc sống, sự vất vả đó được thể hiện ngay trong câu cảm thán: “tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Dường như tác giả đang choáng ngợp trước sự vất vả, sự hy sinh của người bà. Tuổi thơ tác giả là đứa trẻ vô tư, không lo nghĩ gì đến sự vất vả, sự hy sinh của người bà, chính vì thế, khi lớn lên, tác giả đang dần choáng ngợp trước sự vất vả đó, đã biết thương bà nhiều hơn, luôn lo lắng, quan tâm đến bà, hình ảnh đó đã thể hiện sự hy sinh, sự thầm hiểu sâu sắc nỗi khổ đau mà bà đang gặp phải.
Bà không phải làm một nghề mà làm rất nhiều nghề để kiếm sống, lo cho cuộc sống của cháu, chính vì thế nỗi khổ đau dường như lại tăng lên gấp nhiều lần hơn. Giờ đây người cháu đã thấu hiểu nỗi khổ của người bà, biết thương bà nhiều hơn, biết quan tâm và yêu thương, trân trọng trước hình ảnh của người bà, những tình cảm đó thật chân thành, da diết và yêu thương biết bao.
Hình ảnh của người bà, đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam, những người luôn biết hy sinh, tần tảo cho gia đình. Luôn hết mình vì con cháu, chính vì thế đây là hình mẫu cho những người phụ nữ đẹp. Trong tác phẩm tác giả đã kể lại những quãng thời gian đã sống bên bà, cùng bà đi chợ, lên chùa, ăn trộm nhãn… Rất nhiều hình ảnh được tác giả hình dung lại, qua đó nó nổi lên hình tượng người phụ nữ Việt Nam. Và đặc biệt trong tác phẩm này đó là hình ảnh người bà tần tảo, luôn hết mình vì cháu.
Sự hy sinh đó chỉ muốn cho cháu có cuộc sống tốt hơn. Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh người bà, một người luôn hết mình vì cháu. Đây có lẽ là một hình tượng được xây dựng thành công trong tác phẩm của Nguyễn Duy, nó tăng lên khả năng hấp dẫn bởi những hình ảnh gợi hình, đầy xúc động.
Trong tác phẩm, ngoài miêu tả hình ảnh người bà qua những chi tiết tần tảo, tác giả còn miêu tả công việc, miêu tả hành động, và hơn nữa đến khi cuối đời, tác giả nuối tiếc về quãng thời gian đã đi qua, bà giờ cũng không còn nữa, chỉ còn là nấm mồ thôi.
Tác giả đã thổi hồn mình vào trong từng con chữ để làm tăng lên giá trị biểu đạt cho cả tác phẩm, hình tượng người bà là một hình mẫu đẹp, làm tăng lên giá trị biểu đạt trong tác phẩm, đó là hình ảnh đẹp, mang hình mẫu lý tưởng trong tác phẩm.

6. Bài văn phân tích hình tượng người bà trong "Đò Lèn" số 7
Tuổi thơ của ai chẳng có những kí ức về người bà của mình. Khó có thể quên những đêm trời lạnh được bà ôm trong lòng và nghe những câu chuyện cổ tích bà kế. Chính vì vậy, viết về người bà, chính là một mảng để tài thu hút khá nhiều cây bút. Tiêu biểu là Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt, và “Đò lèn” của Nguyễn Duy.
Bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy được viết nãm 1983, trong một dịp nhà thơ trở về quê hương, sống với những hồi ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu. Trong dòng hồi ức xưa hình ảnh người bà trong kí ức của tác giả đã hiện lên thật đặc biệt. Nguyễn Duy sống với bà ngoại từ nhỏ cho nên bà ngoại là hình ảnh rất đỗi gần gũi và quen thuộc đô'i với nhà thơ. Trước hết, hình tượng người bà hiện lên với sự vất vẳ, lam lũ:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.
Trước khi nhận ra sự cơ cực, vất vả để lo toan cho cuộc sống của người bà, tác giả đã tái hiện lại tuổi thơ của mình:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bỉnh Lăm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
thuở nhỏ tôi lên chơi chơi xổ sốn Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền sòng”
Tác giả đã nhìn lại chính minh một cách chân thực, đó là sự vô tư, ham chơi và đôi khi còn có cả những trò nghịch dại. Và khi tác giả nhận ra “Tôi đâu biết, bà tôi cơ cực thế”. Câu thơ như sự giật mình của tác giả về sự vất vả của bà. Từ “thập thững” đã nói lên tất cả. Nếu trong bài thơ Bên kia sông Đuông, nhà thơ Hoàng Cầm viết:
“Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút”
“Bước cao thấp” mới chỉ gợi lên liên tưởng đến hình ảnh con đường không bằng phẳngnhưng khi Nguyễn Du viết “Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn” Thì bạn đọc không chỉ thấy hiện ra một con đường gồ ghề, một đêm đông buốt giá mà từ “thập thững” còn đem lại cảm giác gánh hàng đang nặng trĩu trên vai người bà. Chính những vất vả ấy đã khiến tác giả không chỉ thương bà mà tác giả còn thấy bà có những vẻ đẹp của tiên, phật, thánh, thần
“Tôi trong suốt đời giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, phật, thánh, thần”
Không những thế, hình tượng người bà trong bài thơ còn có tinh thần lạc quan, vượt lên mọi khó khăn mà cuộc chiến tranh đem lại.
“Bọn Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"
Vậy là, chỗ che mưa, che nắng, sớm tôi đi về đã bị bom Mĩ đánh bay mất nhưng không vì thế mà bà đầu hàng trước khó khăn trái lại bà vẫn vượt lên hoàn cảnh để lao động. Có thể thấy tình thương của bà dành cho tác giả luôn thầm lặng, bà luôn mong mỏi những điều tốt đẹp nhất đến với người cháu của mình:
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”
Khép lại bài thơ là một nỗi buồn của tác giả khi bà đã không còn, người cháu giờ đây đã lớn trở về thăm bà thì “ bà chỉ còn là một nấm cỏ”.
Bài thơ Đò Lèn không chỉ đơn thuần là đòng hoài niệm về tuổi thơ xừa mà bài thơ còn là lòng cảm ơn của người cháu đối với bà.

8. Phân Tích Hình Tượng Người Bà trong 'Đò Lèn' số 7
Nếu trong thơ của Bằng Việt hình ảnh người bà được gắn với hình ảnh bếp lửa thì trong thơ Nguyễn Duy hình ảnh người bà lại gắn với những vất vả, cơ cực của cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh ấy đã gợi nhắc cho chúng ta nhớ về mối tình cảm thiêng liêng đó chính là tình bà cháu.
“Đò Lèn” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1983 trong một lần nhà thơ trở về quê hương, sống với những kí ức đan xen nhiều buồn vui thời thơ ấu. Hình ảnh người bà hiện lên là một người yêu thương cháu tha thiết. Ngay từ thuở nhỏ, nhà thơ đã níu váy bà đi chợ và đi đến những nơi chùa chiền để cầu mong những điều tốt đẹp. Người bà luôn giữ cho mình cái tâm hướng thiện. Chẳng vậy mà tác giả ngay từ nhỏ đã rất quen thuộc với việc:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi chơi xổ sốn Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Nhờ có bà mà người cháu không chỉ biết đền Cây Thị, đền Sòng, biết mùi huệ trắng, khói trầm mà còn biết cả điệu hát văn của cô đồng. Đó là những kí ức về tuổi thơ tuy gian khó, thiếu thốn về mặt vật chất nhưng đời sống tinh thần thì khá phong phú.
Hình ảnh người bà còn hiện lên qua những công việc vất vả như “bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan”, đi “gánh chè ở Ba Trại”, “bán trứng ở ga Lèn”,… Người bà ấy như gánh thêm cả phần trách nhiệm của cha mẹ đứa cháu, gánh bao nỗi cơ cực, đắng cay trên đôi vai đã yếu dần đi theo thời gian. Tác giả vì mải chơi, vô lo vô nghĩ nên không biết bà cơ cực thế, bà đã hi sinh rất nhiều cho cậu vậy mà cậu lại trả ơn bà bằng sự vô tâm. Người bà thật giống với tiên, Phật, thánh, thần bởi tình yêu thương bao la, sự nhân hậu, hiền từ đối với người cháu nhỏ. Không chỉ vậy, bà còn là một người phụ nữ kiên cường, anh hùng biết nhường nào:
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”
Những năm chiến tranh, bom Mĩ dội xuống nước ta rất khốc liệt, nó đã làm bay căn nhà của bà, bay cả đền, chùa, cả thánh với Phật, đời sống tinh thần, tâm linh của bà cũng bị bay theo bom đạn của Mĩ. Vậy mà bằng sức mạnh của mình, bà vẫn đi bán trứng ở ga Lèn. Mất mát, sự phá hủy của cuộc chiến tranh phi nghĩa không làm bà chùn bước mà ngược lại, nó tiếp thêm cho bà sức mạnh để bà kiên cường đấu tranh với chính cuộc sống nghèo khó này. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống mưu sinh nhưng cũng là để chăm sóc, lo cho từng bữa ăn của người cháu.
Và đến cuối bài thơ, người bà hiện lên trong sự tiếc nuối ngậm ngùi của tác giả. Khi tác giả biết thương bà, nhận ra được sự vất vả của bà thì đã quá muộn, vì lúc đó “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”. Còn gì đau xót hơn như thế khi chúng ta không biết yêu thương, trân trọng, hiểu ra nỗi cơ cực của bà để đến khi bà đã xa về một thế giới khác.
