1. Khu di tích Đền Cẩm Sơn
Khu di tích Đền Cẩm Sơn có niên đại khởi dựng từ rất sớm gắn liền với quá trình sinh tồn và phát triển của văn hóa làng xã. Ngôi Đền ngự trên đầu rồng của dãy núi Cẩm Sơn mặt hướng về đất Tổ Hùng Vương bên hữu ngạn dòng sông Hồng và sông Đà giao nhau bởi “ngã ba Hạc” cuộn sóng, là nơi chứa chất bao huyền thoại từ thủa bình minh. Từ núi Cẩm Sơn ngắm địa thế làng Cổ Đô như một thung lũng xanh trù phú mà thiên nhiên đã ưu đãi ban tặng. Với địa thế trước mặt là dòng Sông Hồng đỏ nặng phù sa, sau lưng là dãy núi Cẩm Sơn.
Theo quan niệm Phong thủy thì Khu di tích Đền Cẩm Sơn đã ở trên một mảnh đất có long mạch tốt. Khu di tích Đền Cẩm Sơn ở trên nền cao mang yếu tố Dương, dòng sông nước chảy tượng trưng cho yếu tố Âm. Theo quan niệm xưa Âm - Dương luôn phải được giao hòa, cân bằng thì vạn vật mới, trường tồn và phát triển. Trong chiều dài lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước, thì Vương triều nhà Trần xuất hiện những vị vua, vị tướng anh minh tài giỏi, kiệt xuất cứu dân, hộ quốc, lúc còn sống thì giỏi đánh giặc, lúc mất đi thì trở thành phật thánh như “Vua, Phật Hoàng Trần nhân Tông, Đức Quốc công tiết chế Hưng đạo Đại vương Đức thánh Trần...
Khu di tích Đền Cẩm Sơn từ khi được lập đến nay, có bề dày lịch sử trên 700 năm. Trải qua nhiều lần tu sửa, ngôi Đền vẫn giữ được phong cách kiến trúc truyền thống, mang phong cách nghệ thuật độc đáo đan xen của các triều đại nối tiếp nhau.
Ngày 11/3/2018, Huyện ủy, UBND huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội đã trao Bằng xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa - Nghệ thuật Khu di tích Đền Cẩm Sơn của UBND Thành phố Hà Nội cho người dân thôn Cổ Đô, xã Cổ Đô - mang lại niềm tự hào to lớn đối với người dân Cổ Đô.

2. Viện Bảo tàng Mỹ thuật Cổ Đô
Làng Cổ Đô nổi tiếng là ngôi làng của những nghệ sĩ tài năng, với hơn 30 họa sĩ là thành viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam và 2 viện bảo tàng nghệ thuật.
Viện Bảo tàng Mỹ thuật Cổ Đô ra mắt khán giả từ đầu năm 2016 và trở thành nơi trưng bày những tác phẩm độc đáo của cộng đồng nghệ sĩ tại Cổ Đô, đồng thời là địa điểm tổ chức các khóa học nghệ thuật miễn phí cho trẻ em trong khu vực.
Ông Đỗ Văn Sự, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Mỹ thuật Cổ Đô, cho biết các họa sĩ tại đây chủ yếu tập trung vào chủ đề quê hương, sử dụng nhiều loại chất liệu như sơn dầu, sơn mài, và màu nước để thể hiện nét đẹp của cánh đồng, con trâu, cây rơm, và góc vườn… những điều mà họ gắn bó từ thuở nhỏ.
Làng nghệ sĩ Cổ Đô thật sự là điểm đến độc đáo của Thủ đô, không kém cạnh những làng nghệ sĩ nổi tiếng khác như Đường Lâm, đặc biệt với Viện Bảo tàng Mỹ thuật Cổ Đô.

3. Đình làng Cổ Đô
Đình làng không chỉ là biểu tượng kiến trúc quan trọng của cả làng mà còn chứa đựng những câu chuyện lịch sử, thể hiện ước vọng của cộng đồng qua từng đường nét kiến trúc, những họa tiết khắc trên từng góc đình.
Theo tài liệu nghiên cứu và di tích lưu giữ, đình làng Cổ Đô được xây dựng vào giữa thế kỷ 17, với kiến trúc hùng vĩ. Tuy nhiên, trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, đình đã bị Pháp đốt cháy hoàn toàn, được gọi là Đình Cháy.
Sau hòa bình, người dân Cổ Đô đã khôi phục đình làng với kiến trúc giản đơn, là nơi thờ Thành hoàng của làng. Ngôi đình được xây ở trung tâm làng, có khuôn viên rộng rãi và thoáng đãng. Tòa đại đình có diện tích lớn, lợp ngói mũi, với bốn mái xòe rộng tạo nên vẻ nhẹ nhàng. Điểm đặc biệt của kiến trúc đình là bốn đầu mái đao cong vút lên, tạo nên hình ảnh đẹp mắt. Bên cạnh kiến trúc đình, các tượng thờ, hoành phi câu đối... đều kể lên câu chuyện của làng, mang ý nghĩa lịch sử và văn hóa.
Nơi đây hứa hẹn sẽ là điểm du lịch văn hóa hấp dẫn, thu hút du khách khi ghé thăm Cổ Đô.

4. Khu đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vào ngày 08/07/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Cổ Đô trong chiến dịch diệt sâu, chăm sóc đê kè chống lụt bão. Sự kiện này làm cho cả làng tự hào về Chủ tịch.
Chuyến thăm khiến mọi người ấn tượng khi Bác tham gia bắt sâu, thăm đê với hình ảnh giản dị, ấm áp. Người ta như mơ khi thấy Chủ tịch nước dành thời gian làm những công việc nhỏ như vậy. Bác ăn mặc giản dị, chân đi dép cao su... Trong lòng nhân dân, Bác trở nên gần gũi, đầy nhân ái. Bác Hồ cùng nhân dân Cổ Đô đã vượt qua khó khăn, giành chiến thắng trước giặc sâu, giữ vững con đê an toàn.
60 năm sau sự kiện này, để tri ân Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Cổ Đô xây dựng một đền thờ Bác tại nơi Bác đã nói chuyện với nhân dân. Ngôi đền được UBND thành phố Hà Nội công nhận và đặt biển di tích lịch sử kháng chiến xã Cổ Đô, ghi chép lại những kỷ niệm đáng nhớ.

5. Bảo tàng họa sĩ Sỹ Tốt
Sỹ Tốt, sinh năm 1920, được xem như người sáng lập nền họa sĩ làng Cổ Đô. Từ khi còn nhỏ, Sỹ Tốt thể hiện niềm đam mê với nghệ thuật vẽ, với bút chì, đôi khi chỉ là cục than, ông tái hiện những hình ảnh của làng quê như đình làng, cổng chùa, cánh đồng quê...
Sau khi gia nhập bộ đội và có cơ hội học tập tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam với sự hướng dẫn của danh họa Tô Ngọc Vân, tài năng hộa sĩ của ông phát triển mạnh mẽ.
Trở về quê hương, Sỹ Tốt sử dụng bảng màu của mình để ghi lại hình ảnh của làng quê và những người nông dân lao động vất vả nhưng đầy nhân ái. Sỹ Tốt truyền đạt tình yêu nghệ thuật miễn phí cho cộng đồng, giúp phát triển đội ngũ họa sĩ trẻ của làng.
Với những tác phẩm nổi tiếng như Tiếng đàn bầu, Bế con... được lưu giữ tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia, Sỹ Tốt là người sáng tạo khoảng 1.000 bức tranh trong suốt sự nghiệp của mình. Tên tuổi và đóng góp của ông đã ghi dấu trong lịch sử nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Các họa sĩ trẻ như Sĩ Tuấn, Sĩ Thiết, Ngô Bình Thiểm, Sao Mai, Giang Khích, Nguyễn Thạch, Trần Hòa... đều được ông dạy dỗ và hướng dẫn.
Khi đến Cổ Đô, đừng quên ghé thăm Bảo tàng họa sĩ Sỹ Tốt, nơi lưu giữ vô số tác phẩm nổi tiếng của ông.

6. Nhà thờ Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân
Cổ Đô không chỉ nổi tiếng với những di tích lịch sử, mà còn là quê hương của Lục bộ Thượng thư Nguyễn Bá Lân, tác giả của bài thơ Ngã Ba Hạc Phú nổi tiếng. Ông xuất thân từ xã Hoài Bão, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc. Gia phả dòng họ Nguyễn Bá Lân ghi chép rằng tổ tiên ông đến Cổ Đô, sống bằng nghề dạy học, và ông đã nhập tịch ở đây.
Nguyễn Bá Lân sinh năm 1700, là con trưởng của Nguyễn Công Hoàn, một nhà tài tử nổi tiếng thời đó. Ông được biết đến với tài năng văn xuất chúng, nhưng vận mệnh về khoa cử không thuận lợi. Ông dạy học khắp nơi và chỉ trở về chăm sóc con khi Nguyễn Bá Lân 15 tuổi.
Khi 18 tuổi, Nguyễn Bá Lân đỗ đầu kỳ thi Hương và tiếp tục đỗ đầu kỳ thi Hội, nhận được danh hiệu Giải nguyên. Ông đỗ kỳ thi Đình năm 1731, niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3, trở thành Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ.
Ông từng làm Thượng thư ở 6 bộ của triều Lê, có phong tước Lễ Trạch hầu, hàm Thiếu bảo, bậc Ngũ hầu Lão Chúa. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương khen ngợi sự trong sạch, cao quý và liêm khiết trong cuộc đời làm quan của ông.
Ngày 18/02/2004, mộ và đền thờ Nguyễn Bá Lân tại xã Cổ Đô được xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 04/2004.

7. Nhà thờ Lưỡng Quốc Thượng Thư Nguyễn Sư Mạnh
Cổ Đô, vùng đất phúc lợi, người ta thường nói 'đất lành chim đậu'. Một gia đình từ Cẩm Thủy, trấn Thanh Hoa, vì nghèo đến Cổ Đô, sinh ra Tiến sĩ Nguyễn Sư Mạnh. Cha mất sớm, ông thi thiếu nên khi 27 tuổi mới lên đường thi. Ông đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ, niên hiệu Hồng Đức thứ 15 (1484). Sư Mạnh có công lao được ban quốc tính họ Lê, làm Thượng thư bộ Lễ, tước Sùng Tín hầu. Gia phả họ Nguyễn kể về cuộc sứ mệnh vẻ vang của ông đi sứ nhà Minh.
Khi yết kiến vua Minh, ông trả lời một cách khôn ngoan khiến vua ấn tượng. Sự hiểu biết sâu rộng của ông được thể hiện qua việc hoàn tất việc chép thiên Vi Chính trong thời gian ngắn. Vua Minh thậm chí phong chức Thượng thư và tặng áo mũ, thẻ bài như một quan Trung Quốc. Chữ 'Lưỡng quốc Thượng thư' từ họ Nguyễn ánh vàng tại Cổ Đô, nhắc đến chuyến sứ vẻ vang đó.
Nguyễn Sư Mạnh được nhà Lê tin dùng, phong chức Vinh Lộc Đại Phu, kiêm trông coi Viện Hàn lâm và Đông các Đại học sĩ. Nhà thờ Nguyễn Sư Mạnh tại Cổ Đô là Di tích quốc gia lưu niệm danh nhân.
