1. Đoạn tham khảo số 1
Dáng đứng Việt Nam là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ – chiến sĩ Lê Anh Xuân, được sáng tác tháng 3/1968 trong những ngày khói lửa của cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân. Tác giả hy sinh hai tháng sau đó tại vùng phụ cận Sài Gòn khi còn rất trẻ, để lại mùa xuân của cuộc đời cho mùa xuân đất nước.
Nhà thơ Lê Anh Xuân (tên thật là Ca Lê Hiến) sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước tại Bến Tre, năm 14 tuổi theo gia đình tập kết ra Bắc, học phổ thông sau đó học khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục, sau chuyển về Hội Văn nghệ Giải phóng.
Tốt nghiệp ngành Sử học, nhưng Lê Anh Xuân rất yêu thơ và sáng tác khá nhiều, từng đoạt giải Nhì cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Những bài thơ nồng đượm tình yêu đất nước, quê hương, ngập tràn lí tưởng cách mạng và vững vàng niềm tin chiến thắng của Lê Anh Xuân đã trở thành những giai điệu nằm lòng một thời của nhiều thế hệ trẻ. Tuy nhiên, đoạn văn được độc giả biết đến nhiều nhất vẫn là Dáng đứng Việt Nam – bức tranh về một Việt Nam kiêu hùng, bất khuất.
Viết về sự hi sinh của lính trong chiến đấu, nhưng bao phủ Dáng đứng Việt Nam không chỉ là âm hưởng bi thương của nỗi đau và mất mát, mà còn là sự tôn vinh cái đẹp và sự cao cả, trở thành biểu tượng chiến thắng của lí tưởng cách mạng. Hình ảnh chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất với tư thế hiên ngang, lẫm liệt trong Dáng đứng Việt Nam đã trở thành một tượng đài đầy biểu cảm:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Hình ảnh bi tráng về tư thế hi sinh của chiến sĩ giải phóng quân đã làm cho quân địch vô cùng kinh hãi:
Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công.
Việc kết hợp hai phạm trù thẩm mĩ tương phản trong cùng một đoạn thơ đã tạo nên tác phẩm đặc biệt, là sự đối lập giữa tư thế hiên ngang của chiến sĩ giải phóng quân và nỗi đớn hèn, kinh hãi của địch Mĩ. Những câu thơ được viết bằng một trường liên tưởng hết sức mãnh liệt của tác giả khiến hình ảnh chiến sĩ giải phóng quân trở nên lớn lao và tráng lệ.
Thơ Lê Anh Xuân rất sâu sắc về “những phẩm chất cao đẹp của dân tộc”, và đoạn thơ Dáng đứng Việt Nam là một minh chứng cho điều này, đặc biệt ở cuối đoạn thơ:
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
…..
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Với những câu thơ mang đầy cảm xúc sử thi và chất trữ tình đậm đà, tư thế hi sinh của chiến sĩ đã trở thành biểu tượng của cái đẹp và sự cao cả, hình ảnh của anh là hình ảnh của những thế hệ trẻ Việt Nam hùng dũng ra trận với niềm tin lớn lao và mạnh mẽ về một ngày độc lập tự do của đất nước.
Nhiều người đã ngã xuống, và cũng như chiến sĩ giải phóng quân kia, họ không để lại tuổi tên, địa chỉ, nhưng họ không bao giờ vô danh trong trái tim dân tộc, vì thân thể và máu xương của họ đã hòa vào đất mẹ, làm nên hình ảnh của đất nước, tạo dựng nên Dáng đứng Việt Nam vững mạnh trong thế kỷ.
2. Đoạn tham khảo số 3
Đoạn thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân là một tác phẩm điển hình thể hiện nguồn cảm hứng thi ca dân tộc về những anh hùng thầm lặng, hy sinh cao cả vì đất nước. Bài thơ làm cho chúng ta hồi tưởng về thời kỳ kháng chiến chống Mỹ gian khổ nhưng hùng vĩ của tổ tiên chúng ta.
Ngay từ bốn câu đầu tiên, tác giả đã làm nổi bật nét hùng vĩ của người chiến sĩ:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chiến sĩ đã chiến đấu hết mình vì đất nước, cho đến khi sức lực cạn kiệt, anh ta phải ngã xuống trên bãi đường băng Tân Sơn Nhứt. Sự sống sót của anh không còn, nhưng sứ mệnh của anh với tổ quốc vẫn tiếp tục. Anh vẫn cố gắng đứng dậy, nâng súng lên trên xác trực thăng để bắn vào quân địch. Những giọt máu rơi xuống cũng là những chiếc mảnh xác tên lĩnh Mỹ. Anh ra đi với tư duy kiên trung, anh chết khi vẫn đang đứng dậy bắn.
Chính tư duy kiên trung ấy đã làm cho quân giặc phải kính phục, khiếp sợ.
Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Mặc dù lực lượng của chúng ta yếu hơn so với địch, nhưng với tinh thần kiên cường, chúng ta đã chiến thắng vũ khí hùng mạnh. Anh để lại một bảng anh hùng dũng cảm, anh ra đi nhưng tư thế đứng của anh vẫn là minh chứng cho tâm hồn của một người con của cách mạng, người dùng của nhân dân.
Lê Anh Xuân đã mô tả hình ảnh đôi dép như biểu tượng cho sự hi sinh của chiến sĩ, mặc dù cái chết của anh chỉ là bình thường như một đôi dép, nhưng lại tạo nên những điều lớn lao.
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như một bức tượng đồng
Như đôi dép dưới chân Anh đạp lên xác Mỹ
Mà vẫn giữ được vẻ đẹp bình dị, tinh khôi
Không một bức hình, không một dòng địa chỉ
Anh ra đi mà không để lại gì cho bản thân trước khi bắt đầu hành trình
Tất cả những đóng góp thầm lặng của anh là cơ sở để tôn vinh hai chữ thân thương của tổ quốc. Sự ra đi của anh trên đường băng Tân Sơn Nhứt đã xây dựng nên một bảng anh hùng độc lập của dân tộc, máu của anh đã kết hợp với màu cờ phấp phới tung bay của tổ quốc. Đó chính là thành quả của hòa bình, thành quả của tinh thần kiên trung không khuất phục, nét hào hùng của “Dáng đứng Việt Nam”.
3. Đoạn tham khảo số 2
Trải qua những thời kỳ chiến tranh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền cho dân tộc, những người tiền bối của chúng ta đã trở thành những tấm bia anh hùng của dân tộc, để lại di sản vô song cho muôn đời sau. Đối mặt với những gian khổ của những người lính, nhiều nhà thơ đã sáng tác những tác phẩm bất hủ để tôn vinh công lao của họ. Trong số đó, bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân là một biểu tượng nổi bật.
“Dáng đứng Việt Nam” không chỉ là một bài thơ tiêu biểu về người lính trong thời kỳ kháng chiến, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ yêu nước khác. Bài thơ đưa chúng ta quay trở lại những ngày chiến đấu ác liệt, nồng thắm, khiến chúng ta hiểu rõ hơn và tự hào hơn về tinh thần chiến đấu anh dũng của những chiến sĩ oai hùng.
Bốn câu đầu tiên đã mô tả rõ hình ảnh của người lính hiện lên với vẻ oai phong, lừng lẫy:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Mặc dù đã kiệt sức, ngã xuống trước cảnh chiến trường đầy khốc liệt, vì bom đạn nổ trên đường băng Tân Sơn Nhứt. Nhưng tinh thần sắt đá và tình yêu nước đã dẫn dắt người lính vùng dậy bằng những tia sáng cuối cùng để nâng súng lên trên xác trực thăng, tiếp tục hành trình chiến đấu.
Anh hùng ra đi giữa mưa lửa đạn. Mỗi tên địch ngã xuống là mỗi giọt máu của anh, anh đã đánh đổi tất cả, gửi hết trái tim mình vào chiến trường với niềm hy vọng đất nước sẽ độc lập, con cháu sẽ hạnh phúc và ấm no.
Ý chí anh hùng, tinh thần lừng lẫy đó của anh đã làm kinh sợ kẻ thù:
Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Vì Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Cho dù giặc có mạnh đến đâu, họ cũng phải đầu hàng trước ý chí bất khuất của chiến sĩ Việt Nam. Anh hùng ra đi nhưng tâm hồn anh vẫn còn đó, thêm động lực cho những đồng đội trên chiến trường, tạo ra nỗi kinh ngạc cho kẻ thù. Anh hùng ra đi nhưng tinh thần dũng cảm vẫn tồn tại, làm nên bảng anh hùng cho đồng đội nổ súng tiến công. Anh hùng ra đi nhưng công lao của anh vẫn được khắc sâu trong ký ức muôn đời.
Tác giả Lê Anh Xuân đã thành công trong việc vẽ nên bức tượng người lính giải phóng quân kiên trung, bất khuất. Suốt hàng nghìn năm lịch sử, dù đất nước có trải qua những thay đổi, phát triển đến đâu, những tên anh hùng ấy vẫn là bức tượng đài quý giá của dân tộc. Chính họ đã xây dựng dáng đứng oai hùng của Việt Nam.
Anh tên gì hỡi anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như một tượng đồng
Như đôi dép dưới chân anh, bước lên hồn xác Mỹ
Mà vẫn giữ được vẻ đẹp bình dị, tinh khôi
Không một bức hình, không một dòng địa chỉ
Trước khi bắt đầu hành trình, anh chẳng để lại gì cho riêng mình
Anh hy sinh cho tổ quốc mà không cần danh lợi. Những giọt mồ hôi, giọt máu của anh đã hòa quyện với máu của những chiến sĩ khác, tạo ra một màu cờ sắc thắm cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Sự hy sinh của anh đã tạo nên dáng đứng oai hùng, là điểm nhấn của thời kỳ đổi mới của tổ quốc, thời kỳ tiến bộ và hòa bình, nở rộ như mùa xuân.
Lê Anh Xuân đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ hình tượng, cá thể hóa và truyền cảm cao để mô tả rõ nét và nổi bật hình tượng người lính đứng vững với dáng điệu oai hùng, anh dũng.
4. Đoạn tham khảo số 5
Lê Anh Xuân là một trong những nhà thơ nổi tiếng trưởng thành trong cuộc kháng chiến ở miền Nam, điều này khiến bài thơ của ông được viết ra với cả tấm lòng và sự chân thành, giản dị. Nó là hình ảnh chân dung của người chiến sĩ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Chỉ với một số câu thơ đầu, chúng ta đã cảm nhận được hình ảnh của người chiến sĩ vô cùng oai hùng. Khi đó, người chiến sĩ giải phóng đã bị trúng đạn trong lúc đang ôm súng đuổi giặc trên sân bay. Trong cái phút giây anh ngã xuống, anh biết mình không đủ sức để nâng khẩu súng lên được nữa. Và anh đã sử dụng xác trực thăng làm chỗ dựa và bắn tiếp.
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Khí thể của anh đã khiến giặc kinh sợ đến mức phải xin hàng. Sự quả cảm của những người lính đã gây ấn tượng mạnh mẽ. Dù hành trang của anh chỉ là một đôi dép để lại trước khi ra đi. Và có thể nói, nét phi thường của anh được thể hiện trong những điều bình thường nhất. Nó giản dị và đơn sơ như cuộc sống của anh.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Dáng đứng Việt Nam đã khắc họa thành công chân dung của người giải phóng quân anh dũng. Lịch sử sẽ không bao giờ quên những hy sinh anh dũng và thầm lặng của họ. Họ không để lại hình ảnh hay địa chỉ, nhưng mãi mãi được tôn trọng như bức tượng của dân tộc. Và anh giải phóng quân đã tạo ra hình ảnh dáng đứng Việt Nam vĩ đại trong thế kỷ.
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức tượng đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn giữ được vẻ đẹp bình dị, tinh khôi
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước khi lên đường
Điệp từ không nhấn mạnh những phẩm chất cao cả của một người lính dũng cảm. Tên của anh đã trở thành tên của đất nước. Máu của anh đã hòa quyện với máu của những đồng đội khác, làm tô thắm màu cờ của Tổ Quốc.
Cũng như dáng đứng của anh đã ghi dấu mốc rực rỡ trong lịch sử. Sự hy sinh của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất đã làm cho Tổ quốc nâng cao lên tầm cao mới. Đó chính là dáng đứng Việt Nam.
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên anh đã trở thành tên của đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Với bài thơ Dáng đứng Việt Nam, chúng ta như sống lại những khoảnh khắc của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Qua bài viết này, chúng ta muốn gửi lời tri ân sâu sắc đến những người lính đã ngã xuống để bảo vệ đất nước.
5. Đoạn tham khảo số 4
Lê Anh Xuân thuộc thế hệ nhà thơ nổi tiếng, trưởng thành trong bối cảnh máu lửa đấu tranh ở miền Nam. Trong cuộc sống ngắn ngủi của mình, anh để lại thi phẩm tiêu biểu mang tên “Dáng đứng Việt Nam”, một tác phẩm đã đi sâu vào tâm hồn của nhiều thế hệ.
“Dáng đứng Việt Nam” – tên gọi của bài thơ không hề là một lựa chọn ngẫu nhiên. Tác giả đã tận dụng tuyệt vời những chi tiết để mô tả hình ảnh của người chiến sỹ anh hùng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chỉ với mấy câu đầu, hình ảnh của người chiến sỹ đã hiện lên rõ nét:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Người chiến sĩ giải phóng bị trúng đạn khi đang ôm súng truy đuổi giặc trên sân bay. Trong khoảnh khắc “anh ngã xuống”, anh biết mình không đủ sức để nâng khẩu súng, và anh đã sử dụng ngay xác trực thăng giặc như làm chỗ dựa, làm bệ tỳ để tiếp tục bắn. Tinh thần oai hùng và quyết chiến của anh khiến tên giặc phải kính trọng đến mức hoảng sợ:
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công.
Sự quả cảm của anh khiến mọi người phải nể phục. Hành trang của anh chỉ là đôi dép, vẫn giữ nguyên vẻ “một màu bình dị sáng trong”. Nét đặc biệt của anh hiện hữu trong những điều bình thường nhất. Đôi dép anh mang trên đường xuất phát cũng đơn sơ, giản dị như cuộc đời anh:
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho bản thân trước khi lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tượng trưng cho thời kỳ mới.
Điệp từ “không” nhấn mạnh phẩm chất cao cả của một người lính dũng cảm. Sự hy sinh của anh không vì vụ lợi cá nhân, “tên anh đã thành tên đất nước”, máu anh hòa quyện với máu của đồng đội tạo nên màu cờ Tổ quốc Việt, để ngày nay “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Dáng đứng của anh và cuộc đấu tranh sôi nổi của nhân dân miền Nam đã để lại dấu son chói lọi trong lịch sử. Hành động quả cảm của người chiến sĩ trên đường băng Tân Sơn Nhất là điểm đầu đưa đất nước lên tầm cao mới.
Tổ quốc hôm nay đang bay lên trong mùa xuân mới: Mùa xuân của hòa bình, hợp tác và hữu nghị. Thắng lợi ngày nay là kết quả của máu xương của những thế hệ cha anh. Trong những ngày tháng Tư lịch sử này, bài thơ như một lời nhắc nhở thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực học tập, lao động, và đóng góp cho đất nước, để đền đáp công ơn của những người đã hy sinh cho bầu trời xanh của Tổ quốc.
6. Đoạn tham khảo số 7
Trong những ngày tháng tư lịch sử này, nhiều tâm hồn lại hòa mình vào bài thơ Dáng đứng Việt Nam của nhà thơ Lê Anh Xuân. Tác phẩm đó là một khúc tưởng niệm về thời kỳ oai hùng, về những con người anh hùng mà tên tuổi của họ đã trở thành một phần của tên đất nước.
“Anh chẳng để lại gì cho chính mình trước khi bước ra khỏi đời
Chỉ để lại hình ảnh dáng đứng Việt Nam ghi sâu vào thế kỷ”
- Lê Anh Xuân
Đúng từ đầu, Dáng đứng Việt Nam của nhà thơ Lê Anh Xuân đã được coi là một bản ca anh hùng về đề tài chiến tranh cách mạng. Trong đó, hình ảnh của những chiến sĩ hiện lên với vẻ đẹp đầy tính biểu tượng.
Vượt lên trên những đau thương mất mát, bài thơ ca ngợi cái đẹp của sự hi sinh cao cả vì lý tưởng cách mạng. Mặc dù đề cập đến sự hy sinh, nhưng hình ảnh chiến sĩ giải phóng hy sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất đã trở thành một tượng đài đầy ý nghĩa:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Ở đầu bài thơ, hình ảnh của chiến sĩ giải phóng đã hiện lên rất mạnh mẽ. Trong bối cảnh đối đầu với kẻ thù, chiến sĩ đó đã bị trúng đạn. Trong khoảnh khắc anh ngã xuống, anh không khuất phục, không đầu hàng, anh sử dụng xác trực thăng làm điểm tựa để tiếp tục chiến đấu.
Điều đó chính là tư thế mà không chịu lùi bước trước mặt kẻ thù đã khiến cho quân giặc nhận ra rằng sức mạnh của vũ khí hiện đại cũng không thể đánh bại ý chí quật cường của những chiến sĩ giải phóng. Tinh thần quả cảm đó làm cho đối phương khiếp sợ và cuối cùng phải đầu hàng. Hình ảnh này như một biểu tượng phản kháng với máy bay tối tân của quân đội Mỹ, nằm dưới chân anh:
Anh tên là gì hỡi anh yêu quý
Anh đứng im như bức tượng đồng
...
Không hình ảnh, không địa chỉ nào
Anh chẳng để lại gì cho bản thân trước khi ra đi
Bài thơ này có thể được xem là đỉnh cao miêu tả những hy sinh im lặng của chiến sĩ. Những người lính không để lại hình ảnh hay địa chỉ nhưng để lại niềm đau nhớ trong trái tim của nhân dân Việt Nam.
“Không” lại một lần nữa nhấn mạnh những phẩm chất cao quý của chiến sĩ. Họ chiến đấu vì lý tưởng, vì độc lập, vì cuộc sống hòa bình. Đó là sự hy sinh cao cả. Do đó, dáng đứng của những chiến sĩ trên đường băng Tân Sơn Nhất đã đưa Tổ quốc lên tầm cao mới.
Anh là chiến sĩ giải phóng quân.
Tên anh đã trở thành tên của đất nước
Ôi anh giải phóng quân!
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Dáng đứng Việt Nam là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ - chiến sĩ Lê Anh Xuân, viết vào tháng 3/1968 trong những ngày đầy khói lửa của cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân. Bài thơ thành công trong việc miêu tả hình ảnh của chiến sĩ giải phóng, người mà chính anh là một phần của đội ngũ tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, tham gia vào cuộc chiến vào Sân bay Tân Sơn Nhất. Dưới sự chỉ đạo, những chiến sĩ đã vượt qua hàng rào thép gai để chiếm lô cốt của đối phương và xâm nhập vào sân bay, tàn phá máy bay.
Tuy nhiên, lực lượng địch quá đông. Nhiều chiến sĩ bị thương vẫn kiên cường chống trả. Họ đứng dậy, tì súng vào máy bay địch, biến máy bay địch thành nơi che chở. Những hình ảnh mà nhà thơ - chiến sĩ của chúng ta đã chứng kiến và ghi lại bằng những từ ngữ đẫm máu, rồi hai tháng sau khi bài thơ ra đời, nhà thơ, chiến sĩ Lê Anh Xuân đã nằm vĩnh viễn ở một mặt trận ven thành phố Sài Gòn vào ngày 24/5/1968.
Giáo sư John Dumbrell - tác giả của cuốn Rethinking the Vietnam War (Nghĩ lại về Chiến tranh Việt Nam) xuất bản năm 2012 cho rằng: “Sự thất bại của Mỹ tại Việt Nam là trường hợp rõ ràng đầu tiên khi Mỹ để thua một cuộc chiến. Thất bại này dẫn đến sự nghi ngờ sâu sắc trong tâm trí người Mỹ, và tạo ra khủng hoảng bản sắc sâu sắc trong chính trị Mỹ. Làm thế nào để giải thích sự thất bại của cường quốc số một thế giới trước một quân đội cộng sản Việt Nam tương đối nhỏ? Sức mạnh và quyết tâm của lực lượng chống Mỹ, cả ở Bắc và Nam Việt Nam, là một phần của câu trả lời…”
Và một phần của câu trả lời đó chính là tình yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện trong những dòng thơ nồng nàn về tình yêu đất nước, quê hương, tràn đầy lý tưởng cách mạng và niềm tin vững chắc vào chiến thắng. Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân chính là một bức tranh thơ.
Nguồn: Lâm Lâm (baohatinh.vn)
7. Bài tham khảo số 6
Lê Anh Xuân, hay Ca Lê Hiến, ra đời trong một gia đình tri thức yêu nước tại Bến Tre. 14 tuổi, gia đình anh chuyển ra Bắc, và anh học phổ thông trước khi theo đuổi khoa Sử tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân quay về miền Nam, tham gia Tiểu ban Giáo dục và sau đó chuyển sang Hội Văn nghệ Giải phóng. Dù tốt nghiệp ngành Sử học, tình yêu của anh dành cho thơ là không ngừng. Anh từng giành giải Nhì cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Những bài thơ của Lê Anh Xuân, tràn đầy tình yêu đất nước và niềm tin vào chiến thắng, đã chạm đến lòng nhiều thế hệ trẻ.
Mặc dù nói về sự hi sinh trong chiến đấu, Dáng đứng Việt Nam không chỉ là biểu tượng của nỗi đau mất mát mà còn là sự tôn vinh vẻ đẹp và sự cao cả. Hình ảnh chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất, với tư thế hiên ngang, đã trở thành một tượng đài biểu cảm:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Hình ảnh này làm cho quân giặc khiếp sợ:
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công.
Bằng cách kết hợp hai phạm trù thẩm mĩ tương phản, tác phẩm tạo nên sự đối lập giữa tư thế hiên ngang của chiến sĩ và nỗi đớn hèn của giặc Mĩ. Câu thơ đầy cảm xúc này khiến hình ảnh người chiến sĩ trở nên lớn lao và kì vỹ.
Thơ của Lê Anh Xuân rất khái quát, đặc biệt là 'khái quát về những phẩm chất cao đẹp của dân tộc'. Dáng đứng Việt Nam, với những câu thơ đậm đà trữ tình, là biểu tượng của cái đẹp và sự cao cả. Hình ảnh của anh là hình ảnh của những thế hệ trẻ Việt Nam, rùng rùng ra trận với niềm tin lớn lao về một ngày độc lập tự do.
Lê Anh Xuân hi sinh trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, trước khi kịp chứng kiến mùa xuân thắng lợi. Nhưng những vần thơ của anh vẫn sống mãi, trở thành một khúc tráng ca vượt qua thời gian, gửi đến muôn thế hệ những khoảnh khắc lịch sử về một mùa xuân bất diệt của dân tộc.