



Thờ tổ tiên - Kết Nối Huyết Thống Việt
Bàn thờ tổ tiên, ngày càng trở thành trung tâm của mỗi gia đình Việt. Phong tục thờ cúng tổ tiên không chỉ là nét đẹp văn hóa truyền thống mà còn là cầu nối tinh thần giữa thế hệ cha ông và thế hệ hiện đại. Đây là không gian linh thiêng, kết nối huyết thống, nơi tôn vinh công ơn của tổ tiên và thể hiện lòng kính trọng sâu sắc của con cháu.
Ngày nay, Phong tục thờ cúng tổ tiên không chỉ đơn thuần là lễ nghi tâm linh mà còn là dịp để gia đình sum họp, tạo nên không khí ấm cúng và đậm đà nét đẹp truyền thống. Bàn thờ không chỉ là nơi thắp hương, dâng hoa mà còn là ký ức sống về quá khứ, là nguồn động viên cho tương lai. Qua việc thực hiện phong tục thờ cúng tổ tiên, mỗi gia đình góp phần bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc.
Thắp hương, cúng bái, người Việt thể hiện lòng biết ơn, sự tri ân đối với tổ tiên. Bàn thờ không chỉ là nơi tôn vinh các ông bà, cha mẹ mà còn là không gian thể hiện lòng hiếu thảo, sự gắn kết và đoàn kết trong gia đình. Bàn thờ tổ tiên là biểu tượng của truyền thống, là nơi gặp gỡ tinh thần giữa quá khứ và hiện tại, là nguồn động viên tinh thần để mỗi người Việt vươn lên trong cuộc sống.
Thờ tổ tiên không chỉ là lễ nghi mà còn là dịp để mỗi người nhớ về nguồn cội, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống. Bàn thờ, với những nén hương thơm ngát, những đóa hoa tươi, là không gian tâm linh quan trọng, tạo nên không khí trang nghiêm và trang trọng. Phong tục thờ cúng tổ tiên đưa ta đến gần hơn với nguồn gốc, giúp ta hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa, tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Với những giá trị tâm linh và xã hội, Phong tục thờ cúng tổ tiên không chỉ là nét đẹp truyền thống mà còn là nền tảng vững chắc cho sự gắn kết, đoàn kết trong gia đình. Mỗi lễ cúng là dịp để gia đình sum vầy, chia sẻ, tạo nên không khí đoàn viên ấm áp. Bàn thờ tổ tiên không chỉ là nơi thể hiện lòng biết ơn mà còn là điểm tựa tinh thần, là nơi chúng ta nhận thức về giá trị và ý nghĩa của truyền thống văn hóa Việt Nam.
Với sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, Phong tục thờ cúng tổ tiên không chỉ là nghi lễ tôn giáo mà còn là dịp để mỗi gia đình thắp lên những đom đóm tinh thần, góp phần làm nên vẻ đẹp tâm linh của cộng đồng. Bàn thờ tổ tiên trở thành trung tâm gắn kết tình thân, là nguồn động viên và nơi thắp sáng tinh thần con người Việt.
Phong tục thờ cúng tổ tiên, với những giá trị tinh thần sâu sắc, đồng hành cùng người Việt qua thăng trầm của lịch sử. Bàn thờ tổ tiên là biểu tượng của lòng biết ơn, tôn kính và ghi nhớ nguồn cội. Qua từng nét hương, từng bước cúng, chúng ta không chỉ duy trì mà còn phát triển di sản văn hóa, làm cho


4. Tín Ngưỡng và Nghệ Thuật Lễ Cúng
Đón Xuân Sang - Lễ Cúng Táo Quân
Ngày 23 tháng Chạp, Lễ Cúng Táo Quân diễn ra với những nghi lễ trang trọng và ý nghĩa tâm linh. Gia đình Việt tụ tập cúng ông Công ông Táo, người gửi trời báo cáo về mọi sự trong gia đình. Chuẩn bị mâm cỗ cúng cẩn thận, đánh thức tinh thần đoàn kết và chào đón năm mới. Lễ cúng này thể hiện lòng biết ơn và kính trọng đối với Thần Táo, mang lại may mắn và bình an cho mỗi gia đình Việt.


5. Gói Bánh Chưng - Nét Đẹp Truyền Thống
Mùa Xuân Ngọt Ngào - Lễ Gói Bánh Chưng
Ngày Tết, không khí bắt đầu nồng nàn với mùi bánh chưng xanh đặc trưng. Lễ Gói Bánh Chưng không chỉ là nghi lễ, mà còn là dịp sum vầy gia đình, kết nối thêm tình cảm thân thương. Bàn tay tài năng của người Việt hiện lên trong từng cử động cẩn thận, gói bánh chưng như một tác phẩm nghệ thuật truyền thống, kết nối quá khứ và hiện tại, tượng trưng cho sự đoàn kết và may mắn cho mọi nhà.


6. Nghệ Thuật Trồng Cây Nêu - Đón Xuân Sum Vầy
Trải bao năm tháng,từ đời này truyền qua đời khác, cứ mỗi khi đông tàn, tiết xuân lại đến thì toàn thể dân tộc Việt và cả một số dân tộc khác ở phương Đông Châu Á lại nhộn nhịp chuẩn bị Tết. Một trong những phong tục cổ xưa nhất của người Việt làm trong những ngày Lễ Tết nguyên đán chính là trồng cây nêu.
Dù là người thành thị hay nông thôn, mỗi khi nghe câu ca dao đều thấy lòng mình xốn xang rộn rã. Hình ảnh cây nêu được dựng trước cửa ngôi nhà mái tranh luôn gợi cho ta cảnh đón xuân ấm cúng và gia đình xum họp.Ngày nay, người Việt Nam đã bỏ thói quen dựng nêu ngày Tết. Nhưng xưa kia, mỗi lần năm mới đến là phải cắm nêu: Cao nêu, kêu pháo, bánh chưng xanh là những biểu tượng đón xuân không thể thiếu được. Nhưng nêu là thế nào? Vì sao phải dựng nêu? Câu chuyện thực ra cũng không đơn giản.
Trước tiên hãy nói đến cây nêu. Nêu là một cái cây cao, vào dịp năm mới, phải đem ra cắm ở trước sân (hoặc trước cổng, hoặc giữa vườn dóng với cổng chính của nhà). Tết đến, mọi nhà thường dựng nêu vào ngày 30 tháng chạp (nếu tháng chạp thiếu thì 29) Thường thì miền Bắc dựng nêu vào buổi trưa, miền Trung buổi chiều, còn miền Nam thì chạng vạng tối. Tết Nguyên Đán kết thúc chính thức bằng lể Khai Hạ, đồng thời cũng làm lể Hạ Nêu. Lể Khai Hạ được cử hành vào ngày mùng 7 tết. Cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương, phong tục, dân tộc,…
Nêu của người Việt là một cây tre, cao hơn nóc nhà, từ gốc đến ngọn phải róc cành cho trơn tru. Cây tre càng thẳng càng quý. Trên ngọn cây, treo một cái giỏ trong có sẵn trầu cau, vàng mã... gắn quanh cái giỏ ấy có thêm một chùm lá dứa, những cái đèn xếp và những tua giấy mầu đỏ, mầu vàng. Cây nêu hiên ngang, cao vút, chiếm lĩnh không gian của cả nhà, cả vườn, gây ấn tượng huy hoàng và cao đẹp.
Nêu của người Mường cũng là cây tre, nhỏ hơn, có nhiều lá hơn cây nêu Việt một chút. Ngọn nêu buộc một que ngang, treo hai chuỗi vòng, người ta gọi là hoa nêu. Các vòng này đều là vòng tre tiện mỏng, nhiều ít tùy tiện. Người ta gọi đó là chuỗi "của", tượng trưng cho của cải sung túc của gia đình.
Nêu của người Co (Tây Nguyên) thường cắm trong các đám lễ hội Đâm trâu. Cây nêu phải là một đoạn của cây trò, nối với một đoạn của cây lồ ô. Ngọn nêu treo một lá phướn. Trên lá phướn lại là hình một con chim (đan bằng tre). Con chim ấy phải là chim chèo bẻo, tượng trưng cho sự hùng mạnh.
Nêu của người Hoa, chịu ảnh hưởng của lý thuyết đạo giáo nhiều hơn. Nêu được gọi là cây phù đào (phù có nghĩa là bùa). Chuyện kể là cung của bà Tây Vương Mẫu có trồng cây đào. Thần ngự ở cây này chuyên bắt các loại quỷ dữ. Có cây phù đào, là có thần trấn giữ, quỷ không dám đến. Vì vậy, mà nhà người Hoa không có điều kiện trồng nêu, người ta có thể bẻ cành đào treo trước cửa.
Có thể kể thêm tập tục nhiều dân tộc nữa. Nhưng có thể thấy một khuynh hướng tâm linh chung: trừ tà, ma và cầu mong một năm mới đến với nhiều điều tốt đẹp, an lành và hạnh phúc cho gia chủ.
Không biết trên thế giới có nhiều chuyện kể về cây nêu không, chứ câu chuyện của VN thì quả là đặc sắc. Ngược dòng thời gian, ngày xưa Quỷ chiếm toàn bộ đất nước và con người chỉ làm thuê, phải nộp hoa màu cho Quỷ. Quỷ ngày càng bóc lột Người quá tay. Người quá khổ cực nên cầu cứu Đức Phật giúp đỡ. Sau vài lần Người (được Phật chỉ dẫn) đánh lừa Quỷ khi trồng khoai, lúa, ngô để lấy phần thu hoạch về mình, Quỷ đòi lại đất, không cho Người làm thuê nữa. Phật bàn với Người điều đình với Quỷ, xin miếng đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn cây tre. Quỷ thấy không thiệt hại gì nên đồng ý. Khi đó Phật dùng phép thuật để bóng chiếc áo cà sa đó che phủ toàn bộ đất đai khiến Quỷ mất đất phải chạy ra biển Đông. Do mất đất sống nên Quỷ huy động quân vào cướp lại. Trận đánh này bên Quỷ bị thua sau khi bị bên Người tấn công bằng máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột... và Quỷ lại bị Phật đày ra biển Đông. Trước khi đi, Quỷ xin Phật thương tình cho phép một năm được vài ba ngày vào đất liền viếng thăm phần mộ của tổ tiên cha ông. Phật thương hại nên hứa cho. Do đó, hàng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán là những ngày Quỷ vào thăm đất liền thì người ta theo tục cũ trồng cây nêu để Quỷ không bén mảng đến chỗ Người cư ngụ. Trên nêu có treo khánh đất, có tiếng động phát ra khi gió rung để nhắc nhở bọn Quỷ nghe mà tránh. Trên ngọn cây nêu còn buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất trước cửa ra vào trong những ngày Tết để cấm cửa Quỷ. Thế nên mới có câu ca dao:
"Cành đa lá dứa treo kiêu (cao)
Vôi bột rắc ngõ chớ trêu mọi nhà.
Quỷ vào thì Quỷ lại ra.
Cành đa lá dứa thì ta cứa mồm. "
Như vậy, trong truyền thuyết, cổ tích dân gian Việt Nam đã lý giải tại sao ngày tết phải cắm nêu, phải treo cành trúc trước nhà và sự lý giải đó không đi ngoài triết thuyết Phật giáo và Lão giáo. Cây nêu trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa thiện và ác, giữa thiên thần và quỷ dữ nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người. Cây nêu biều tượng cây vủ trụ, vòng tròn biểu tượng cho mặt trời. Cây vủ trụ là nơi đậu của chim thần và mặt trời. Mùa xuân khí dương thịnh, mặt trời lóe sáng, tỏa nắng xuân ấm áp đem sự sống cho muôn loài. Ngày tết thần linh về trời, tất nhiên con người cần có những "bảo bối" của thần nhằm đề phòng cảnh giác, chống lại sự xâm nhập của ác quỷ lúc con người vui chơi. Đặc biệt , trong những ngày tết cổ truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm chỉ đường cho tổ tiên biết đường về ăn tết với con cháu. Trong đêm trừ tịch cũng như ngày mồng một Tết người dân còn treo bánh pháo tại cây nêu đốt đón mừng năm mới, mừng tổ tiên về với con cháu, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới tốt lành. Những vật treo đều tượng trưng về sự bảo vệ và hạnh phúc con người. Lá khóm để dọa ma quỷ vì có gai, tiền mã là cầu tài, lông gà biểu tượng chim thần, cành đa biểu tượng điềm lành và trường thọ, vỏ ốc biểu tượng cho sư sinh nở “con đàn cháu lũ”.
Gắn liền với một sự tích kì lạ, với những ý nghĩa sâu xa trong sự thể hiện đa dạng, phong phú mà đậm tính dân tộc và nhân văn, cây nêu được coi là biểu tượng thiêng liêng nhất của Tết Nguyên đán Việt Nam.
Hiện nay, cây nêu ngày tết vẩn còn tồn tại mọi vùng quê, tuy nhiên ở thành thị dường như dần dần biến mất, chỉ còn lại trong ký ức.


7. Phong tục cưới hỏi
Trải qua hơn bốn ngàn năm văn hiến, với bề dày và sự phát triển của lịch sử Việt Nam ta đã hình thành và gìn giữ được nhiều những phong tục truyền thống tốt đẹp. Đó là điểm nhấn, nét đặc trưng tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong số phong tục truyền thống của người Việt được lưu giữ qua nhiều đời, đó là phong tục cưới hỏi. Dù rằng ngày nay việc cưới xin cũng đã được đơn giản hóa để giảm bớt chi phí, sự rườm rà trong lễ nghi, nhưng trên hết nó vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống cốt lõi, thể hiện sự thiêng liêng trong mối quan hệ vợ chồng chính thức.
Có thể nói rằng, sau hơn nghìn năm Bắc thuộc nghi lễ cưới hỏi của người Việt cũng có phần bị ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên đó là một quá trình chọn lọc, học hỏi và du nhập những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước bạn, đồng thời bằng sự linh hoạt, sáng tạo, người Việt đã tự tạo nên cho mình một tục truyền thống đặc sắc. Lễ cưới xưa bao gồm 6 lễ chính: Nạp thái tức là việc nhà trai mang sang nhà gái một cặp nhạn để tỏ thành ý đã nhắm đến cô gái của nhà này, tiếp theo là lễ vấn danh, nhà trai sẽ mời bà mối đến nhà gái xin họ tên, ngày giờ bát tự sinh của cô gái để nhờ người xem coi có hợp tuổi với chàng trai hay không. Sau khi so sánh bát tự của cặp đôi, nếu thấy hợp nhà trai sẽ làm lễ nạp cát, ý báo cho nhà gái về việc cặp đôi hợp quẻ với nhau có thể tiến hành tiếp việc cưới xin. Không kém phần quan trọng ấy là lễ nạp tệ còn gọi là nạp trưng, chỉ việc nhà trai mang đồ sính lễ đến nhà gái, để khẳng định chắc chắn về cuộc hôn nhân, bằng chứng đã hứa hôn với cô gái của nhà này. Tiếp theo nhà trai sẽ làm tiếp lễ thỉnh kỳ, tức là lễ chọn ngày lành tháng tốt để rước dâu. Cuối cùng quan trọng nhất là lễ nghinh thân, nhà trai tiến hành mang lễ đến rước cô dâu về nhà chồng làm lễ gia tiên, hoàn thành lễ cưới trong ngày giờ tốt đã định sẵn.
Những nghi lễ kể trên là những công việc buộc phải làm trong một lễ cưới truyền thống của người Việt xưa, tuy nhiên ngày nay để giảm bớt sự rắc rối và chi phí cho hai bên gia đình, cũng như áp lực cho đôi tân nhân, hôn lễ đã được thu gọn và tinh giản khá nhiều. Các lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, thỉnh kỳ thường được lược bớt, chỉ tiến hành nội bộ giữa hai gia đình trong một vài buổi gặp mặt và không tổ chức nghi lễ lớn, đồng thời tên gọi của các lễ này cũng được thay đổi cho phù hợp với phong tục Việt Nam. Để tiến hành một cuộc hôn nhân có sự thuận ý của cả hai bên gia đình, đầu tiên người ta sẽ làm lễ Dạm ngõ, nhà trai mang trầu cau, rượu chè sang nhà gái thưa chuyện, hỏi xin cô gái về làm vợ cho con trai mình. Sau đó nếu có điều kiện thì nhà trai tổ chức cả lễ Ăn hỏi (còn gọi là Vấn danh hay lễ Đính hôn) để báo cho mọi người cùng biết việc vui, cũng như việc cô gái đã có nơi có chốn và chỉ định ngày lành tháng tốt để nên duyên về nhà chồng.
Thường lễ ăn hỏi sẽ được tổ chức theo kiểu thân mật giữa hai gia đình, là buổi giao lưu hai họ, để cùng bàn bạc chuẩn bị cho lễ cưới sắp tới. Đặc biệt là phần lễ và phần tiệc đều được tổ chức tại nhà gái. Trang phục đính hôn của cô dâu thường là áo dài được thiết kế tinh xảo với chất liệu ren, lụa và tông màu trắng hoặc đỏ, biểu thị không khí tươi vui, hạnh phúc và may mắn, chú rể thì mặc vest lịch lãm, trang trọng, thể hiện sự trưởng thành, sẵn sàng che chở chăm sóc cho người vợ tương lai.
Trong buổi tiệc đính hôn nhà trai có trách nhiệm chuẩn bị sính lễ để mang tới nhà gái, bao gồm trầu cau, rượu ngon, trà, bánh hỏi, bánh phu thê hoặc bánh cốm, hoa quả tươi, bánh kẹo và mứt sen,... được đựng theo thứ tự trong các tráp phủ vải thêu rồng phượng màu đỏ. Đến giờ lành, nhà trai bưng lễ sang nhà gái, nhà gái sẽ cử người ra đón và hai bên trao nhận lễ, sau khi được sự đồng ý của gia đình nhà gái chú rể sẽ đón cô dâu ra chào hỏi hai bên gia đình, sau đó cả hai cùng thắp hương cúng bái gia tiên bên nhà gái, và tiến hành trao nhẫn đính hôn, thể hiện việc cả hai gắn kết và chính thức trở thành người cùng một nhà, là đôi tân nhân mới. Tiếp theo hai họ sẽ cùng nhau ngồi lại bàn bạc về ngày giờ tổ chức lễ cưới, trình tự rước dâu, cũng như các thủ tục cần làm, trong khoảng thời gian đó cô dâu sẽ cùng chú rể đi mời nước hai họ để chảo hỏi, chụp ảnh lưu niệm và kết thúc bằng việc trả lễ cho nhà trai.
Sau lễ Ăn hỏi, là lễ cưới, ngày cưới cô dâu sẽ thức dậy thật sớm, trang điểm kỹ càng, mặc vào bộ váy cưới xinh đẹp nhất, đợi chú rể đến đón. Trong ngày này, trang phục của cô dâu và chú rể cũng khá tương tự với ngày đính hôn, nếu có khác biệt thì chắc là, trên tay cô dâu cầm thêm một bó hoa và váy cưới ở đây sẽ có phần lộng lẫy hơn ngày lễ ăn hỏi. Cô dâu có thể chọn giữa váy cưới kiểu châu u hoặc áo dài truyền thống còn chú rể thì vẫn trung thành với bộ vest lịch lãm, sang trọng, các màu được ưa chuộng thường là đen, xám hoặc trắng. Trước giờ đón dâu, bên họ nhà trai sẽ cử người đại diện mang theo rượu và trầu cau đến xin dâu, báo trước cho bên nhà gái về việc đoàn đón dâu sắp đến nơi để chuẩn bị nghênh đón.
Trong lễ đón dâu nhà trai sẽ đi thành một đoàn hai hàng, đi đầu là các bậc trưởng bối, người có tiếng nói trong họ, sau đó là chú rể, sau cùng là người bưng theo sính lễ. Khi đến nhà gái, người đại diện nhà trai sẽ vào thắp hương trước bàn thờ gia tiên để báo về việc nhà trai đến rước dâu, sau đó lần lượt cô dâu và chú rể tiến lên thắp hương, khấn vái gia tiên xin cho được thành vợ chồng trước sự chứng kiến của hai họ. Tiếp đến hai vợ chồng sẽ bưng trầu cau ra mời họ hàng hai bên, đồng thời bố mẹ cô dâu, chú rể và người thân cũng lần lượt lên tặng quà cho cô dâu, chú rể, người Việt chủ yếu là cho kiềng, nhẫn, lắc bằng vàng, mục đích là cho của để dành, tạo nền tảng cho cặp đôi mới cưới được vững vàng, yên tâm xây dựng cuộc sống mới. Sau tất cả các nghi thức, nghi lễ, nhà trai sẽ xin rước dâu về, bên họ nhà gái sẽ chọn sẵn một số những cô gái trẻ làm phù dâu, theo cô dâu về nhà chồng, để tạo nhiều may mắn cho cuộc sống mới của con gái. Sau lễ rước dâu sẽ là tiệc cưới, tiệc được tổ chức ra trước là để báo hỷ, thông báo với bà con làng xóm về việc thành hôn của cô dâu, chú rể, đồng thời đây cũng là dịp để gia chủ thể hiện tính gắn kết với cộng đồng, niềm vui khi con cái nên vợ thành chồng, khẳng định sự thành công hoàn thành tốt một việc trọng đại trong đời của bậc làm cha mẹ, cũng như là của đôi vợ chồng mới cưới. Trong lễ cưới, trước khi khai tiệc, cha mẹ của cô dâu và chú rể sẽ lên phát biểu đôi lời cảm ơn, gửi gắm hai con, cô dâu chú rể trao nhẫn cưới cho nhau khẳng định mối quan hệ vợ chồng. Cuối cùng là phần cô dâu, chú rể cùng nhau đi mời rượu quan khách đến dự tiệc. Sau lễ cưới, ở một số nơi người ta còn có tục lại mặt, thường là sau 2 hoặc 4 ngày cô dâu về nhà chồng, thì đôi vợ chồng sẽ cùng trở về nhà ngoại, mang theo lễ vật để cúng gia tiên nhà vợ, đồng thời nhà ngoại cũng làm bữa cơm để chào đón đôi vợ chồng sau tân hôn.
Có thể nói rằng phong tục cưới xin từ truyền thống đến hiện đại của dân tộc Việt Nam ta đều có những nét đặc trưng hiếm có, giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp trong nền văn hóa của dân tộc. Đồng thời nó cũng thể hiện được sự thiêng liêng, gắn bó trong mối quan hệ vợ chồng, khi mà một đám cưới phải trải qua sự chuẩn bị kỹ càng, chu đáo từ hai bên gia đình, trải qua nhiều nghi lễ, cô dâu và chú rể mới chính thức về chung một nhà, xây dựng một tổ ấm mới trong sự chúc phúc và chứng kiến của mọi người. Ngày nay xã hội khuyến khích việc tổ chức lễ cưới một cách đơn giản, tinh gọn, tránh lãng phí, tuy nhiên không vì thế mà chúng ta bỏ quên những phong tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cần linh động, sáng tạo sao cho vừa giữa được nét đẹp truyền thống vừa bắt kịp xu hướng thời đại.

