Nếu bạn từng ghé thăm thị trấn Bần Yên Nhân, huyện Mỹ Hào, bạn sẽ không thể khám phá những cửa hàng tương nổi tiếng của Hưng Yên. Tương Bần, một đặc sản lừng danh từng được dùng để tiến vua, ngày nay vẫn là đặc sản quyến rũ với nhiều người yêu ẩm thực.
Nguyên liệu chính để làm tương là nếp cái hoa vàng, đỗ tương và muối. Quy trình sản xuất tương qua 3 bước: làm mốc, ngả đỗ và phơi tương. Gạo nếp được nấu chín để tạo thành xôi, sau đó được ủ trong nia 2 ngày 2 đêm để xôi mốc xanh. Lá sen cũng được sử dụng để tạo mùi thơm đặc trưng cho mốc. Đỗ tương được rang vàng, xay nhỏ và ngâm trong chum sành từ 7 đến 10 ngày để đạt màu vàng đỏ. Xôi nếp mốc xanh sau đó được tưới nước tương và ủ 1 ngày 1 đêm để mốc có màu vàng. Mốc sau đó được đặt vào chum ngả cùng muối, khuấy đều và phơi nắng. Tương được phơi nắng ít nhất 1 tháng để có hương vị đặc trưng. Tương ngon có màu vàng óng như mật ong.
Tương Bần không chỉ là món nước chấm không thể thiếu khi ăn rau muống luộc, thịt luộc, bánh đúc... mà còn là biểu tượng tự hào của người Hưng Yên. Một câu ca dao đã được truyền miệng qua nhiều thế hệ là:
'Em đi trăm quán ngàn cầu/ Hải vị cũng thuộc, sơn hào cũng quen/Mà sao em vẫn cứ thèm/ Đĩa rau muống luộc, lại thêm tương Bần'.


Cách thành phố Hà Nội khoảng 40 km, làng hương Cao Thôn tọa lạc tại xã Bảo Khê, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, là một trong những làng nghề làm hương quy mô lớn nhất cả nước. Làng Cao Thôn, hay còn được biết đến với tên gốc là Thôn Cao, nằm bên dòng sông Hồng, hòa mình trong không khí thanh bình. Đây được xem là nơi khởi nguồn của nghề làm hương truyền thống, đã tồn tại từ thế kỷ 18. Bà Đào Thị Khương, người con của làng, được coi là người sáng lập nên nghề làm hương và truyền dạy cho người dân trong làng. Bà được tôn làm tổ nghề hương và hiện vẫn được thờ tại nhà thờ tổ họ Đào, làng Cao Thôn. Theo ông Nguyễn Như Khanh, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Cao Thôn: 'Nghề làm hương ở làng Cao Thôn đã tồn tại từ cuối thế kỷ 18 và hiện đã được truyền đời qua gần 300 năm. Cụ Tổ nghề là bà Đào Thị Khương, người Cao Thôn, đã truyền dạy nghề này cho các thế hệ sau. Mỗi năm, vào ngày giỗ cụ Tổ nghề là 22/08 âm lịch, cả làng tụ tập tại nhà thờ để thắp hương tưởng nhớ người đã đặt nền móng cho nghề làm hương, đem lại nguồn sinh kế cho bao thế hệ'.
Nghề làm hương tại Cao Thôn hoạt động quanh năm, cung cấp việc làm cho khoảng 600 lao động trong làng và các khu vực lân cận. Với tính chất không kén chọn lao động, nghề làm hương thu hút tất cả những người có nhu cầu lao động, mọi người đều có thể tham gia sản xuất. Sản lượng hương xạ của cả làng đạt khoảng 10 triệu nén mỗi năm.
Là làng nghề truyền thống lâu đời, Cao Thôn còn là một điểm đỏ trong hành trình du lịch Hưng Yên. Du khách khi đến đây sẽ được trải nghiệm nhiều hoạt động thú vị. Ông Nguyễn Như Khanh chia sẻ: 'Gần đây, có đoàn khách người Anh đến thăm, tôi đã hướng dẫn họ thăm làng và giới thiệu quy trình sản xuất trong vài giờ. Họ không chỉ được quan sát quá trình sản xuất, mà còn được tham gia tự làm, tự thắp hương, nên họ rất hài lòng. Ngoài ra, làng có quần thể đẹp, đường phố sạch đẹp, đình chùa giữ nguyên cảnh quang cổ kính, là điểm đến được nhiều đoàn khách yêu thích. Chắc chắn sẽ có nhiều đoàn du lịch quốc tế đến thăm làng này'.


Với vẻ đẹp trầm mặc và thanh bình, Văn Lâm - Hưng Yên vẫn giữ được bản sắc của làng quê Bắc Bộ xưa, là điểm đến thu hút du khách bởi những di tích lịch sử như làng Nôm cổ với những ngôi nhà cổ, chùa Nôm, chợ phiên, cầu đá và đình Tam Giang. Trên hành trình khám phá văn hóa, di tích và làng nghề truyền thống, bạn không nên bỏ qua nghề đúc đồng Lộng Thượng. Hành trình tìm về những dấu tích của thời gian luôn là lựa chọn hàng đầu của du khách khi đến Hưng Yên.
Đây là cơ hội để mọi người hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của quê hương, cả về khung cảnh và truyền thống văn hóa. Khi ghé thăm làng nghề đúc đồng Lộng Thượng tại xã Đại Đồng, bạn sẽ đắm chìm trong không gian lưu giữ nghề đúc đồng truyền thống sống động.
Làng đúc đồng Lộng Thượng (hay còn gọi làng Rồng, thuộc Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) từng là nơi nổi tiếng thịnh vượng với những sản phẩm được đúc từ đồng như đỉnh đồng, lư hương, lọ hoa,... Những tác phẩm tinh tế của những nghệ nhân tài năng trong làng đã góp phần làm đẹp thêm cho làng nghề ở kinh thành Thăng Long xưa. Dân ca xưa có câu:
“Đồng nát thì về cầu Nôm. Con gái nỏ mồm về ở với cha”
Mỗi sản phẩm đồng được tạo ra đều là sự kết hợp tài năng và tâm huyết của người nghệ nhân. Một thợ đúc đồng giỏi phải thành thục 5 kỹ thuật chính bao gồm: tạo hình; tạo khuôn đúc; pha chế, nấu và rót đồng; trạm khắc trên bề mặt sản phẩm; cuối cùng là đánh bóng. Ngoài kỹ thuật, nghề đòi hỏi sự tỉ mẩn, tinh tế, kiên nhẫn và đặc biệt là đam mê với nghề thủ công mới tạo ra những sản phẩm hoàn hảo.
Thăm làng nghề này, bạn sẽ không chỉ được trải nghiệm và học hỏi kinh nghiệm, mà còn tự tay tham gia vào quá trình làm ra một sản phẩm từ đồng dưới sự hướng dẫn của những người thợ đúc đồng tài năng. Đây thực sự là một trải nghiệm ý nghĩa và độc đáo nếu bạn yêu thích nghệ thuật thủ công.
Ngày nay, làng đúc đồng Lộng Thượng không chỉ mở rộng quy mô sản xuất và tự chủ từng loại hàng như mâm đồng, chậu đồng, đồ thờ cúng, tượng đồng,... mà còn truyền đạt kiến thức và kỹ thuật cho thế hệ trẻ. Lớp nghệ nhân trẻ đang khéo léo kế thừa tinh hoa của ông bố, bà mẹ trong làng và áp dụng những phương pháp mới để tạo ra những sản phẩm không chỉ giữ được bản sắc truyền thống mà còn phản ánh sự sáng tạo và hiện đại hóa. Sự hồi sinh của làng nghề không chỉ giải quyết vấn đề việc làm cho cộng đồng địa phương mà còn là một biểu tượng văn hóa độc đáo của làng quê.
Nếu có dịp đến Hưng Yên, hãy ghé thăm làng đúc đồng Lộng Thượng để chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật từ đồng tinh tế và cảm nhận niềm đam mê của những nghệ nhân tài năng nơi này.


Hưng Yên nổi tiếng với giống nhãn lồng thơm ngon. Ngoài nhãn tươi, Hưng Yên còn chế biến long nhãn đóng hộp. Nghề long nhãn có ở nhiều nơi trong tỉnh nhưng tập trung với quy mô lớn nhất là ở phường Hồng Nam, thành phố Hưng Yên.
Trước đây, người ta đem quả nhãn cho vào lò sấy khô, rồi đem ra bóc thành long, gọi là long tệt. Hiện nay, những quả nhãn được xóay tách hạt rồi sau đó mới cho vào lò sấy khô và đóng hộp, gọi là long xóay. Long nhãn khi sấy xong có màu vàng nhạt, mùi thơm đặc trưng. Long nhãn rất bổ dưỡng có thể dùng để nấu chè, ngâm rượu hoặc ăn trực tiếp. Long nhãn Hưng Yên ngoài cung cấp nhu cầu tiêu dùng trong nước còn được đem xuất khẩu sang các nước như Trung Quốc, Nhật Bản...
Tính đến thời điểm hiện tại, nghề làm long nhãn thì phát triển hơn ở các làng như Ba Hàng, Phương Chiểu, Hồng Nam, Tân Hưng, Hoàng Hanh,... của Hưng Yên. Theo thống kế của thành phố, mỗi mùa nhãn, có hơn 100 hộ gia đình làm nghề, cung cấp sản lượng hơn 100 tấn long nhãn mỗi năm.
Cùng với sự phát triển của xã hội, những làng nghề truyền thống ở Việt Nam rất khó tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, điều này thì dường như không mấy đúng đắn với làng nghề chế biến long nhãn ở Hưng Yên. Tất cả các thế hệ con cháu của mảnh đất Hưng Yên yêu dấu vẫn đang từng ngày lưu giữ, áp dụng phương pháp canh tác mới để phát triển và quảng bá nghề.


Làng quê là nơi mà mỗi người luôn muốn tìm về sau những khoảng thời gian làm việc vất vả, căng thẳng, bộn bề lo toan cho cuộc sống. Một gợi ý khám phá, trải nghiệm khá thú vị cho bạn đó là làng Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Cách thành phố Hưng Yên khoảng 35km về phía Bắc, nơi đây là quê hương của danh tướng Phạm Ngũ Lão - vị tướng tài ba của Trần Hưng Đạo, đã có công đánh tan giặc Nguyên Mông và Ai Lao. Đến đây bạn được chiêm ngưỡng quần thể di tích đền Phù Ủng uy nghi, nghe kể về những giai thoại và những chiến công hiển hách của ngài. Không những thế, làng Phù Ủng còn là nơi gìn giữ và phát triển nghề truyền thống chạm bạc, đó là làng nghề chạm bạc Huệ Lai. Đến với làng nghề bạn sẽ được trải nghiệm các công đoạn làm ra những sản phẩm trang sức vô cùng độc đáo và tinh xảo.
Trong những năm đầu, nghề chạm bạc mới được hình thành còn gặp rất nhiều khó khăn cả về vốn, nhân lực và thị trường tiêu thụ. Khi đó kỹ thuật sản xuất chủ yếu sử dụng phương tiện máy, thiết bị thủ công. Cho đến nay, hầu hết các loại máy, thiết bị được sử dụng động cơ chạy bằng điện như: Các loại máy cườm, cán, cóc, rúc, đúc… Nhờ đó năng suất lao động tăng lên 3 - 4 lần so với trước, chất lượng sản phẩm cũng tăng hơn, thị trường tiêu thụ cũng rộng hơn. Trước thì thị trường tiêu thụ các sản phẩm làm ra chủ yếu ở mấy tỉnh thành lân cận như Hải Dương, Hải Phòng hay Hà Nội, nay đã có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố trong và ngoài nước. Ngoài chế tác theo đơn đặt hàng, những người thợ trong làng thường xuyên sáng tạo ra nhiều mẫu mã, sản phẩm chất lượng cao, được khách hàng ưa chuộng như các sản phẩm: Dây chuyền, nhẫn, vòng tay, hoa tai, vòng cổ…
Để mở rộng thị trường, tăng năng lực sản xuất cho các hộ trong thôn, năm 1998, HTX chạm bạc Phù Ủng được thành lập. Khi mới thành lập, HTX có trên 20 hộ tham gia, đến nay phát triển lên 48 hộ, với 197 lao động tham gia trực tiếp, ngoài ra còn có trên 1 nghìn lao động của các hộ trong xã gia công sản phẩm cho HTX.
Nói đến nghề chạm bạc hay còn gọi là nghề kim hoàn, đặc thù của nghề cũng rất khắt khe, bởi nó không chỉ đòi hỏi sự cần cù, chịu khó, mà còn đòi hỏi đôi bàn tay tài hoa khéo léo để trổ các hoa văn tinh tế trên các sản phẩm. Để làm được điều đó người thợ cần phải có sự kiên trì, nhẫn nại trong từng công đoạn mới có thể cho ra những sản phẩm đẹp và tinh xảo đến vậy.


Xã Hòa Phong (huyện Mỹ Hào, Hưng Yên) nổi tiếng với nghề mộc đã khẳng định được uy tín ở thị trường trong và ngoài nước. Làng nghề mộc mỹ nghệ xã Hòa Phong hiện có 7/7 làng nghề mộc mỹ mghệ và dân dụng, với 1.700 hộ dân làm nghề. Tập trung nhiều nhất ở thôn thôn Vân Dương với gần 430 hộ, thôn Hòa Đam với gần 280 hộ.
Điều đặc biệt là mỗi làng của xã Hòa Phong đều phát triển nghề mộc theo một thế mạnh riêng của mình như: làng Phúc Thọ với nghề mộc dân dụng, làng Phúc Miếu chuyên chạm khắc đồ gỗ mỹ nghệ, đồ thờ và các chi tiết, hoa văn ở các công trình…Sản phẩm mộc ở đây rất đa dạng, tập trung ở các nhóm hàng salon Âu, Á, chạm khắc cây cảnh, con giống và các đồ gia dụng. Đặc biệt, những năm gần đây sản phẩm mộc của xã Hòa Phong được nâng cao, có uy tín trên thị trường nên được nhiều khách hàng ngoài tỉnh và nước ngoài đến đặt mua. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển nghề mộc như ngày nay, những người thợ ở đây cũng phải trải qua nhiều bước thăng trầm


Thôn Đa Quang, xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên có nghề truyền thống làm mành tre từ hàng trăm năm nay. Làm mành là nghề thủ công, mọi công đoạn từ cưa nứa, chẻ nan, đan mành đều cần đến đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của người thợ.
Nứa để làm mành phải chọn cây nứa già, gióng dài, có như vậy mành mới bền. Mành có đẹp, nan có đều hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào đôi bàn tay vừa khoẻ, vừa khéo của người chẻ nan. Sau khi được tuyển chọn, cây nứa được cắt ra từng đoạn theo kích cỡ từng loại mành, pha ra từng mảnh rồi chẻ thành từng nan. Đan mành là công đoạn cuối cùng, từ trẻ nhỏ đến người già ai cũng có thể làm được, quan trọng là thao tác phải nhanh. Để mành bền và đẹp hơn sau khi thành phẩm ta có thể phun thêm một lớp sơn. Đối với người dân làng Cuông, việc làm mành không những đem lại thu nhập ổn định cho dân làng trong những lúc nông nhàn mà còn là niềm vui, là những phút giây thư giãn quý giá của họ. Đôi bàn tay khéo léo của những 'nghệ nhân vót nan' đã biến những cây tre làng chắc chắn, gai góc thành những chiếc nan mành mảnh dẻ, nuột nà để tạo nên những chiếc mành đậm đà bản sắc văn hóa Việt

