1. Tập thơ 'Từ ấy'
Từ ấy là bộ sưu tập thơ đầu tiên của Tố Hữu. Gồm mười năm thơ: 1937 – 1946. Đây là thập kỷ thơ của mười năm hoạt động cách mạng.”
Thời điểm mà Tố Hữu, người chiến sĩ, bắt đầu tham gia cách mạng cũng là thời điểm mà Tố Hữu, nhà thơ, bắt đầu viết thơ. Bài thơ đầu tiên trong tập thơ Từ ấy, cũng là bài thơ đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu – bài Mồ côi, được đăng trên báo Dân – được viết khi tác giả đã tham gia hoạt động cách mạng tại thành phố Huế quê hương.
Điểm khác biệt cơ bản giữa Tố Hữu và những nhà thơ khác như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh Thơ (đã học hoặc đã đọc trong chương trình Ngữ văn lớp 11) hoặc Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Tế Hanh (đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 8), là những người này đã tiếp xúc với thơ từ khá lâu trước khi tham gia vào phong trào đấu tranh cách mạng. Tập thơ Từ ấy bao gồm 72 bài thơ, chia thành 3 phần:
- 'Máu lửa' gồm 29 bài, là những bài thơ phản ánh thời kì Mặt trận Dân chủ, tập trung vào những vấn đề quan trọng của thời đại như chống phát xít, phong kiến, đấu tranh cho hoà bình, cơm áo, vấn đề sống của con người và cách mạng giải phóng dân tộc.
- 'Xiềng xích' gồm 29 bài, được viết trong tù, thể hiện nỗi đau, ý chí và tinh thần kiên cường của người chiến sĩ cách mạng trong những năm tháng bị giam giữ.
- 'Giải phóng' gồm 14 bài, viết từ khi ra khỏi tù đến một năm sau ngày độc lập, chủ yếu ca ngợi lý tưởng, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù, giải phóng quốc gia và niềm vui của chiến thắng.
Từ ấy đã trở thành một trong những tác phẩm quan trọng của văn học cách mạng Việt Nam. Tố Hữu đã kết hợp thành công nghệ thuật và cách mạng, hòa nhập giữa người chiến sĩ và nhà thơ, đóng góp vào quá trình đổi mới thi ca hiện đại của Việt Nam. Tập thơ này có thể được coi là một bài ca hùng tráng của những người hiểu rằng chiến đấu là con đường duy nhất để giành được độc lập, tự do, hạnh phúc, vì thế, họ sẵn sàng hi sinh cuộc đời cho “trận chiến”, không sợ khó khăn, không sợ chết. Đó là tiếng hát tràn ngập niềm tin, lạc quan của những người biết rằng chiến thắng cuối cùng nhất định thuộc về họ.
2. Tập thơ 'Gió mạnh'
Tập thơ 'Gió mạnh' được Tố Hữu sáng tác trong 6 năm từ 1955 - 1961, viết trong thời kỳ đất nước đang tập trung vào hai nhiệm vụ chính: xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ Nguỵ, thống nhất đất nước ở miền Nam. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng vào năm 1954, kế hoạch 5 năm xây dựng đất nước được triển khai. Tập thơ Gió mạnh thể hiện sự hân hoan của những người tham gia xây dựng đất nước: “Gió mạnh đánh bay mây rợp đất trời”.
Tập thơ Gió Mạnh 'khám phá các nguồn cảm hứng lớn, cũng như những tình cảm phổ biến trong đời sống tinh thần của người Việt Nam cùng thời kỳ: niềm vui, niềm tự hào, lòng tin vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tình yêu thương với miền Nam và quyết tâm thống nhất Tổ quốc, tình thương quốc tế vô sản với các nước anh em.' Bên cạnh đó, có sự tin tưởng vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới theo chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tình yêu thương với miền Nam và quyết tâm thống nhất Tổ quốc.
Tập thơ này bao gồm 25 bài thơ nổi bật như: 'Người phụ nữ Việt Nam', 'Tiếng chổi tre',... Tập thơ này mang đậm nét lãng mạn cùng xu hướng sử thi và thể hiện một cái tôi công dân.
3. Tập thơ 'Miền Bắc Việt'
Tập thơ 'Việt Bắc' được công bố lần đầu vào năm 1954, chủ yếu là các bài thơ viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ bao gồm 24 bài (trong đó có 6 bài dịch và 3 bài viết năm 1954) với bài đầu tiên là 'Cá nước', sáng tác năm 1947, và kết thúc với bài 'Lại về'. Nhiều nhà văn đã xem tập thơ Việt Bắc như là một tác phẩm ca ngợi kháng chiến của toàn dân trong suốt tám năm chống lại kẻ xâm lăng.
Tập thơ đã chân thực phản ánh con đường gian khó của cuộc chiến và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những hình ảnh, dấu ấn về cuộc kháng chiến. Tập thơ này đánh dấu một bước tiến mới trong thể loại thơ của Tố Hữu về cả ngôn từ lẫn ý nghĩa. Thơ mang đậm tinh thần dân tộc, với một cách viết thơ bình dị và dễ tiếp cận. Tập thơ 'Việt Bắc' đã đoạt giải nhất về thơ trong Giải thưởng văn học giai đoạn 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam.
4. Tập thơ 'Máu và Hoa'
Tập thơ Máu và hoa (NXB Tác phẩm mới, 1977) bao gồm 13 bài thơ, viết trong 6 năm (1971-1977), mang ý nghĩa tổng kết của quá trình phát triển của dân tộc và cuộc Cách mạng Việt Nam - một hành trình đẫm máu, đẫm hoa, năm mươi năm vượt qua khó khăn.
Máu và Hoa (1972-1977) là giai đoạn phản ánh thơ Tố Hữu trong những năm chiến đấu ác liệt chống lại Mỹ và thắng lợi cuối cùng của toàn dân. Thơ Tố Hữu lúc này là tiếng gọi đi ra trận, là lời kêu gọi, là nguồn động viên hào hùng cho toàn dân trong cuộc chiến ở cả hai miền Nam và Bắc. Thể hiện ý nghĩa lớn lao, cao quý của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với lịch sử và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, phát hiện mới của nhà thơ về dân tộc và con người Việt Nam, điều mà tác giả luôn tự hào và cảm phục.
5. Tập thơ 'Ra trận'
Ra trận là một tập thơ được đánh giá cao của nhà thơ Tố Hữu. Tập thơ gồm 31 bài, viết trong 10 năm chống Mỹ (1962-1971). Ban đầu, Tố Hữu ước ao được viết về những chủ đề về tình yêu, tình thân, nhưng khi miền Nam, sau đó là cả nước, bị cuốn vào cuộc chiến tranh ác liệt, làm thơ về thanh bình trở nên xa vời. Tác giả dành phần lớn tâm huyết để tôn vinh tinh thần anh hùng cách mạng, do đó, tập thơ đầy những giai điệu hùng ca.
Thơ Tố Hữu trong giai đoạn này là lời hát của cuộc ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi, là nguồn động viên hào hùng cho toàn dân trong cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam và Bắc. Khẳng định ý nghĩa to lớn, cao quý của cuộc kháng chiến chống Mỹ đối với lịch sử và thời đại, thơ Tố Hữu cũng thể hiện những suy nghĩ, khám phá mới về dân tộc và con người Việt Nam mà tác giả luôn tự hào và cảm phục.
Ra trận (1962-1971) cùng Máu và hoa (1972-1977) là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ toàn dân chiến đấu kiên cường, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất của con người Việt Nam, đồng thời là bài ca kết thúc cuộc chiến, Bắc Nam hòa mình, non sông liền một dải.
6. Tập thơ 'Ta với ta'
Và cũng trong không khí của thời kỳ hòa bình và đổi mới của đất nước, ở tuổi 80, tác giả vẫn khẳng định sức sống và sự sôi động của tâm hồn mình trong tập thơ Ta với ta. Đây cũng là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu, viết trong khoảng gần chục năm cuối đời (1993- 2001). Tâm trạng thơ trầm lắng, đầy suy tư, bàn tán về cuộc sống, về tâm trạng con người, về sự tạm bợt của thời gian, là nét đặc trưng nổi bật của tập thơ cuối cùng của Tố Hữu, trong vai trò của một con người cá nhân hơn là một người chiến sĩ cách mạng như trước đây.
Khái quát trong giai đoạn từ 1945- 1975, thơ của Tố Hữu vẫn luôn trung thành với lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu đại diện cho trường phái thơ trữ tình chính trị. Thơ của ông kết hợp giữa mục đích tuyên truyền cách mạng và nội dung trữ tình. Xuân Diệu đã phát biểu 'Tố Hữu đã nâng cao thơ chính trị lên tới một tầm cao mới, đó là thơ rất trữ tình'.
7. Tập thơ 'Một tiếng đờn'
Sau Máu và Hoa, ở tuổi trên 70, Tố Hữu tiếp tục giới thiệu tập thơ Một tiếng đờn xuất bản vào năm 1993 với 72 bài thơ sáng tác trong thời kỳ hòa bình kéo dài khoảng hơn mười năm (1978 - 1992). Trong Một tiếng đờn, Tố Hữu vẫn là chính mình, với tiếng thơ quen thuộc nhằm nhắc nhở con người hướng về những tình cảm lớn của dân tộc, những mục tiêu cao cả của cách mạng. Ông vẫn trung thành với chủ đề cuộc sống cách mạng, của cả nước.
Trước hiện thực mới, đã có một giọng nói mới, một tâm trạng mới ở Tố Hữu, là những dòng tâm tư, lo lắng từ mạch cảm xúc trong thời kỳ hòa bình, vì cuộc sống không còn bị ràng buộc bởi nguy cơ chiến tranh, nên xuất hiện những dòng thơ tươi mới - đầy cảm hứng thế sự. Đề tài thơ đa dạng: khen ngợi vẻ đẹp của quê hương, của con người; công cuộc xây dựng đất nước; tình yêu và số phận con người;... Âm điệu thơ không còn phát ra xa (hướng ngoại) mà sâu sắc hơn (hướng nội), đôi khi tưởng chừng như chạm tới một điều gì đó riêng tư của tuổi già nhìn lại: 'Đêm cuối năm riêng một ngọn đèn'. Ở tập thơ này, Tố Hữu trở về bản nguyên nội tâm, gần gũi với thời kỳ 'Từ ấy'. Có một cuộc đấu tranh nội tâm rất mạnh mẽ:'Mới bảy mươi sao đã gọi là già'.