1. Tài liệu tham khảo số 1
Trăng, vị đạo tác đã từng được nhà thơ thắp hương bằng lời thơ muôn thuở, nhưng vẫn luôn mới mẻ trong nền văn hóa Việt Nam. Ánh sáng trăng làm khó kìm lòng trước vẻ đẹp tinh khôi. Dòng thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy mang đến cái nhìn mới lạ về trăng. Đây không chỉ là quá khứ bình yên, mà còn là tri kỷ thân thiết, là bài học nhân văn sâu sắc.
Hai khổ thơ đầu là những ký ức đẹp, những tình cảm mật thiết giữa con người và vầng trăng. Tác giả mở đầu bài thơ bằng hình ảnh trăng trong tuổi thơ và thời chiến tranh: Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỷ Bốn câu thơ gợi lên một quãng thời gian dài từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành, và nhất là trong những năm tháng đầy gian khổ của chiến tranh. Một khoảng thời gian đẹp đẽ với trăng.
Khổ thơ mở ra một thế giới bao la. Trong những hồi ức, tác giả tả đẹp cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên, khẳng định tình cảm mật thiết giữa con người và vầng trăng là 'tri kỷ', 'tình nghĩa'. Trăng là người bạn chia sẻ mọi khó khăn, đồng cảm với nỗi buồn, làm dịu đi những đau thương của chiến tranh bằng ánh sáng mềm mại. Trăng là người bạn đồng hành qua mỗi bước đi trên đường khó khăn, là người đồng hành trung thành trong cuộc sống gian truân, làm dịu đi mọi nỗi buồn, làm ấm áp mọi khoảnh khắc...
Cuối cùng, khi đất nước phát triển, con người quên mất, bỏ lỡ người bạn tri kỷ ngày xưa.
Bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy không chỉ là một lời nhắc nhở về quá khứ, mà còn là lời kêu gọi sống trung thực, sống với những giá trị nhân văn. Hãy sống thủy chung, giữ vững những mối quan hệ, và đừng quên những giá trị tốt đẹp của quá khứ. Những câu thơ như là lời tâm tình của tác giả giúp người đọc hiểu sâu hơn về đạo lý sống đẹp của con người. Hãy nhớ về những người bạn tri kỷ, hãy trân trọng những giây phút gắn bó với thiên nhiên và nhau. Bài thơ Ánh Trăng là một bức tranh tuyệt vời về tình người và tình thiên nhiên, nhắc nhở chúng ta giữ mãi những giá trị đẹp đẽ trong lòng.

3. Bài tham khảo số 4
Ngày xưa, con người hòa mình vào tự nhiên, sống vui vẻ, hồn nhiên. Vầng trăng tỏa sáng trên bầu trời đêm như một người bạn thân thiết của con người. Hai khổ thơ đầu của bài Ánh Trăng là hình ảnh chân thực về mối quan hệ giữa con người và vầng trăng.
Khổ thơ thứ nhất nói lên:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tâm tình và lựa chọn từ ngữ như 'hồi nhỏ, hồi chiến tranh,' tác giả làm cho chúng ta hình dung về quãng thời gian từ tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành, đặc biệt là trong những năm tháng đầy khó khăn của chiến tranh. Từ khi còn nhỏ, con người đã sống hòa mình, gắn bó với thiên nhiên:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ”
Chúng ta nhìn thấy, con người lúc bấy giờ luôn hòa mình, sống thảnh thơi với đồng, sông, bể và rừng. Sự sử dụng từ ngữ như 'với, hồi' kết hợp với việc liệt kê tạo nên một không gian rộng lớn, phong cảnh hạnh phúc của tuổi trẻ khi gắn bó với thiên nhiên và vầng trăng. Khi đi lính, trưởng thành, vầng trăng vẫn là người bạn thân thiết, gắn bó với con người. Trăng và con người đã sống với nhau thân thiết, hồn nhiên và vô tư đến mức 'như cây cỏ'. Giữa họ có một mối quan hệ trong sáng, không mong đợi. Tình cảm chân thành và vững chắc giữa con người và vầng trăng được diễn đạt thông qua so sánh và nhân hóa. Con người coi trăng như tri kỉ, như một biểu tượng của tình nghĩa. Với sự kết nối tình cảm đó, con người đã thốt lên:
“Ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Từ 'ngỡ' nằm ở đầu câu như là một lời tâm niệm sâu sắc, cũng như là dự báo cho một sự thay đổi lớn lao. Qua hai khổ thơ đầu, chúng ta thấy vầng trăng giản dị, mộc mạc cũng giống như tâm hồn trong sáng, hồn nhiên của người lính khi hòa mình với thiên nhiên.

2. Bài tham khảo số 3
Vầng trăng dịu dàng, trắng sáng, vầng trăng kỳ diệu tròn đầy từ lâu đã trở nên thân quen với con người. Người thi tiên Lý Bạch khi ở xa quê nhớ mãi ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi:
“Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nếu Bác kính yêu coi trăng như bạn tri âm “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Nguyễn Duy nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn sáng lung linh để làm sạch tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978) của ông bắt nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như vậy. Bài thơ giống như một câu chuyện, mở đầu bằng lời kể tự nhiên, trôi chảy về mối quan hệ gắn bó giữa trăng và nhà thơ:
Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Chỉ với 4 câu thơ ngắn, Nguyễn Duy đã tái hiện lại cả tuổi thơ và quá trình trưởng thành, một không gian đầy kỷ niệm: đồng, sông, bể. Từ không gian đó, chúng ta cảm nhận được niềm đam mê và sảng khoái của con người trong không khí trong lành, dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lấp lánh trên cánh đồng, dòng sông và bãi biển. Không gian mở rộng liên tục, bao la bát ngát theo nhịp độ trưởng thành của con người. Thời gian không dừng lại và cậu bé từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, bước vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về, làm rối bời tâm hồn. Lúc này, người và trăng lại càng gắn bó, ánh trăng trở thành bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan, thiếu thốn, mọi niềm vui và khổ đau trong những năm tháng chiến tranh của tác giả. Như vậy, tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua. Điều còn lại lúc này là vầng trăng đơn giản, chân thành.
Chữ “hồi” ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 tạo ra một điểm dừng, một ranh giới giữa thế giới ấu thơ và thế giới trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ làm cho tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng và chân thành:
Trần trụi với thiên nhiên
..........
Cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như người bạn, trăng gắn bó sâu sắc với con người mà không có sức mạnh nào có thể tách rời. Những năm tháng con người sống thấu hiểu nhất với bản thân mình, trần trụi, hồn nhiên là khi con người giữ vững một lời thề bền chặt “ngỡ không bao giờ quên, cái vầng trăng tình nghĩa”.

5. Bài tham khảo số 4
Từ thời xa xưa, ánh trăng đã luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi nhân, là đề tài để họ sáng tạo những tác phẩm bất hủ. Đối với họ, ánh trăng không chỉ là bạn đồng hành, người thương, mà còn là tri kỷ. Bác Hồ, như mọi người, cũng mê mẩn ánh trăng, đã viết vô số bài thơ như Vọng nguyệt, Rằm tháng Giêng, ... Nguyễn Duy, một người yêu trăng như nhiều thi sĩ khác, nhưng với ông, ánh trăng không chỉ đơn giản là bạn tri kỷ. Ánh trăng còn là biểu tượng của quá khứ, của tuổi thơ và những năm tháng hào hùng của dân tộc. Ông diễn đạt điều này qua hai khổ thơ đầu bài Ánh trăng:
'Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa'.
Lời thơ ở đây không phô trương, không làm cho lộn xộn, mà mang đặc điểm giản dị, mộc mạc như câu chuyện kể về quá khứ. Bằng bốn câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Duy khắc họa cuộc sống của một con người từ khi còn thơ ấu cho đến khi trưởng thành. Không có sự diễn đạt phức tạp, nhưng đọc giả có thể cảm nhận được hành trình của thời gian từ 'hồi nhỏ' - giai đoạn thơ ấu, đến 'hồi chiến tranh' - giai đoạn thanh niên. Trong suốt thời gian đó, ánh trăng là hình ảnh trung tâm, là hình ảnh liên tục đi kèm với con người. 'Hồi' như làm nổi bật quá khứ đã xa xôi, nhưng vẫn hiện hữu trong tâm trí của nhà thơ. Đó là kỷ niệm về những ngày tháng xưa, những hình ảnh không thể quên từ thời thơ ấu đến khi đi quân sự bên đồng đội, ánh trăng vẫn luôn đi kèm với nhà thơ. Không gian mở rộng từ 'đồng' đến 'sông' và sau cùng là 'biển', theo trình tự tăng dần, là quá trình trưởng thành từ nhỏ đến lớn của nhà thơ, từ quê hương mở ra cả nước.
Khi còn bé, ánh trăng làm bạn với con người. Sau này, khi tham gia chiến trận, 'vầng trăng thành tri kỉ' bởi vầng trăng ấy luôn bên cạnh, cùng con người trải qua những tháng ngày gian khổ chiến tranh, chia sẻ những giây phút tĩnh lặng dọc đường. Như Chính Hữu đã nhắc về vầng trăng trong tác phẩm 'Đồng chí' của mình:
'Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo'.
Đúng vậy, vầng trăng ấy, ánh trăng ấy đã gắn bó sâu sắc, thân thiết với con người, chứng nhận hết thảy những năm tháng vất vả, gian khổ của con người. Vầng trăng ấy với con người không chỉ là một mối quan hệ bạn tri kỷ, mà là một tượng trưng cho quá khứ. Con người sống ở hiện tại, hướng về tương lai nhưng không được quên đi quá khứ, sống chân thành, trọn vẹn tình nghĩa, đúng với tinh thần dạy dỗ của cha ông 'ăn quả nhớ kẻ trồng cây'.
Thể thơ đơn giản, năm chữ, uyển chuyển, không viết hoa chữ đầu dòng, vì mỗi khổ thơ là một câu chuyện, Nguyễn Duy muốn nhấn mạnh ý nghĩa của vầng trăng, nó không chỉ là ánh trăng bình thường, mà còn là nhân vật, là nhân chứng cho quá trình trưởng thành, cho những năm tháng chiến tranh đầy khốc liệt trong quá khứ.
Ánh trăng ở đây không chỉ đơn giản là ánh trăng nữa, mà còn là biểu tượng của quá khứ, của những năm tháng đã từng gắn bó. Qua hai khổ thơ, Nguyễn Duy không chỉ muốn nói về ánh trăng, mà còn muốn nhắc nhở chúng ta một bài học quý giá: không nên quên đi quá khứ, hãy sống chân thành, trọn vẹn tình nghĩa, đúng với tinh thần dạy dỗ của cha ông 'ăn quả nhớ kẻ trồng cây'.

4. Bài tham khảo số 5
Chắc hẳn trong tâm hồn chúng ta, những lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng tràn ngập tình cảm trong bài thơ Tre Việt Nam của tác giả không thể nào phai mờ. Nếu bài thơ Tre Việt Nam là như một khúc đồng dao ngân nga trong lòng, thì khi bước vào thế giới của ánh trăng, chúng ta lại cảm nhận được những dòng thơ chân thành, ẩn chứa niềm băn khoăn, nỗi buồn:
Nhỏ nhưng hồn quê mình
Với sông rừng và biển cả
Chiến tranh ập đến rừng
Vầng trăng trở thành người tri kỉ
Bằng bốn câu thơ ngắn xinh, Nguyễn Duy vẽ lên cả một chặng đường từ thời niên thiếu đến lúc trưởng thành. Khổ thơ nhẹ nhàng dẫn dắt người đọc trở về quá khứ, từ 'nhỏ' ở câu một và ba tạo nên một bước dừng chân lạ kỳ giữa chặng đường ấu thơ và thời trưởng thành. Hệ thống những đồng cỏ, dòng sông, và biển gọi đến một không gian thân thuộc của tuổi thơ, mở rộng theo thời gian trưởng thành của đứa trẻ. Nhưng điều quan trọng nhất là thể hiện niềm vui, hạnh phúc tràn ngập, hòa quyện trong không khí mát lành của quê hương như sữa ngọt.
Trong hai câu thơ 10 tiếng, vần lưng (đồng - sông) kết hợp với từ 'với' lặp lại ba lần, gợi lên hình ảnh tình bạn, tình đồng đội chân thật, sẻ chia, làm tỏa sáng con người. Đồng cỏ hay dòng sông, biển như những người bạn thân thiết. Ở hai câu đầu không đề cập đến vầng trăng. Chỉ khi lớn lên, ánh sáng bạch kim mơ hồ của ánh trăng mới điểm đặt trong ký ức khi phải xa quê hương. Và người dẫn đường cho dòng suy nghĩ đó chính là vầng trăng. Như một ánh sáng trong trắng và lãng mạn, vầng trăng làm tỏa sáng con đường quay về quá khứ. Đối với những người lính, với nhà thơ trong những thời kì chiến tranh ở rừng, vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ:
Chiến tranh nơi rừng sâu thăm thẳm
Vầng trăng trở thành tri kỉ
'Tri kỉ' đồng nghĩa với việc hiểu biết đối phương như hiểu biết chính bản thân mình, bạn tri kỉ là người bạn đặc biệt, hiểu rõ mình nhất. Trăng với những người lính, với nhà thơ trong những thời kì chiến tranh, trở thành đồng đội thân thiết. Trăng đã cùng họ trải qua những niềm vui chiến thắng. Nếu những người tinh thần thường 'đăng lâu vọng nguyệt,' thì những chiến sĩ Cụ Hồ giữa rừng sâu cũng đã lặng lẽ ngắm vầng trăng trên đỉnh đồi cao. Điều thú vị là, vầng trăng từng làm cho nhiều tâm hồn thi sĩ trầm mê, nhưng ở lời thơ của Nguyễn Duy, vầng trăng vẫn xuất hiện mới mẻ, không lặp lại:
Trăng vòng tròn trong bóng mây
Kể lẽ người vô tình
Ánh trăng im bình phàm
Nhưng đủ để ta bừng tỉnh
Sự bừng tỉnh đầy ý nghĩa. Phần kết của bài thơ làm thức tỉnh những suy nghĩ của tác giả, đưa chúng lên một tầm cao triết lí: Ai cũng có thời điểm vô tình quên đi những đẹp đẽ từ quá khứ. Nếu không có sự tỉnh táo, những lúc giật mình nhìn lại từ lương tâm, chúng ta có thể đánh mất chính bản thân mình. Bài thơ tràn ngập trong không khí mát lành của ánh trăng trong trẻo và ấn tượng. Như Lí Bạch đã viết hai câu thơ nổi tiếng:
Bồng bềnh đầu đội trăng thanh
Về đất liền thắp hương cố quận
Ở một miền đất xa lạ nhưng vẫn thuộc về Trung Hoa, Lí Bạch, như một hành khách lạc lõng, nhìn vầng trăng và nhớ về quê hương, như một cách giữ lại những gì quen thuộc để sưởi ấm tâm hồn. Ngược lại, với Nguyễn Duy, vầng trăng sáng trên bầu trời không chỉ gợi nhớ một thời quá khứ, mà còn là biểu tượng của tình nghĩa và vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống. Trăng vòng tròn, tròn đầy như biểu tượng cho quá khứ tươi đẹp, bền vững không bao giờ phai nhòa. Ánh trăng im bình phàm như một người bạn, một nhân chứng vô tình nhưng đầy ý nghĩa. Trăng không đòi hỏi đền đáp, biểu tượng của sự bao dung, lòng nhân ái không có ranh giới, của tình nghĩa thuỷ chung không biến đổi.
Vầng trăng tròn đầy, yên bình làm ta nhớ người vô tình, nhưng cũng làm ta thức tỉnh và trở về với chính bản thân mình.

7. Bài tham khảo số 8
Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, mang đậm triết lý và suy tư về cuộc sống. Bài thơ Ánh Trăng là một tác phẩm nổi bật, là sự kể chuyện về những năm tháng gian lao của cuộc đời lính.
Bài thơ gồm sáu khổ thơ năm chữ, kết hợp tự sự với trữ tình, là hồi ức giản dị về cuộc sống. Ký ức về tuổi thơ bình dị hiện lên qua những đồng ruộng mênh mông, con sông bát ngát, và những cánh đồng trĩu nặng phù sa. Vầng trăng là nguồn cảm hứng trong những đêm quây quần, nghe chuyện xưa, thổi nồi bánh dưới ánh trăng vàng nhạt. Trăng không chỉ là ánh sáng mà còn là biểu tượng của tình nghĩa với quê hương.
Trong những năm chiến tranh, vầng trăng trở thành đồng đội thân thiết, hòa mình với tinh thần lính, tạo ra hình ảnh 'đầu súng trăng treo.' Những khoảnh khắc dưới ánh trăng, hát ca, quây quần dưới tiếng khèn, và ngắm trăng nhớ đến người yêu ở quê nhà, tất cả tạo nên những kí ức vô giá. Trăng và người lính trở thành 'tri kỷ,' biểu tượng của sự gắn bó và tình nghĩa bền vững.

7. Bài tham khảo số 6
Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, sáng tác đậm chất ca dao, dân ca. Ánh Trăng, một tác phẩm mang đầy chất triết lý, là câu chuyện về cuộc đời, con người, và tình yêu quê hương.
Bài thơ bắt đầu với những kỉ niệm êm đềm, tươi đẹp giữa trăng và con người. Ký ức về tuổi thơ bình dị với đồng ruộng, con sông, và những bể biển phù sa, tạo nên một hình ảnh hòa mình với thiên nhiên. Vầng trăng xuất hiện trong những đêm câu cá, thổi nồi bánh, làm bừng tỉnh kí ức ngọt ngào. Trăng không chỉ là ánh sáng mà còn là biểu tượng của sự gắn bó và tri kỷ với quê hương và đồng đội trong những tháng ngày chiến đấu.
Vầng trăng là đồng đội trung thành, đứng cạnh người lính trong những cuộc chiến, làm bứt phá trong đêm tối với hình ảnh 'đầu súng trăng treo.' Trăng và người lính chia sẻ buồn vui, hòa mình trong tiếng hát và khèn, nhớ về người yêu ở quê nhà dưới ánh trăng thanh. Trăng và con người trở thành 'tri kỷ,' biểu tượng của tình bạn và tình nghĩa thân thiết.

8. Tham khảo số 8
Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, được biết đến qua bài thơ Cây tre Việt Nam. Trong thời bình, ông đã đổi mới và sáng tạo nghệ thuật để tìm kiếm triết lý sống của con người, và Ánh Trăng là một minh chứng sáng tác cho điều đó. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ đã để lại ấn tượng sâu sắc:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Tác giả dẫn ta quay về những kỷ niệm thời thơ ấu, những khoảnh khắc trẻ thơ sống tại nông thôn, dạo chơi cùng bạn bè qua đồng, sông, và bể, dưới ánh trăng đầy kỷ niệm. Theo thời gian, cậu bé lớn lên, tham gia chiến trường:
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Đó là những năm tháng gian khổ cùng đồng đội chiến đấu, vầng trăng là nguồn sáng trong đêm hành quân, là tri kỉ trong những giây phút nghỉ ngơi. Tình cảm trong những năm tháng đó là chân thành và mộc mạc:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Hình ảnh trần trụi, hồn nhiên làm cho ta cảm nhận được sự gần gũi giữa con người và thiên nhiên. Đó là tình bạn thơ ấu, tình đồng đội mộc mạc, không vụng trộm. Nhân vật trữ tình nhắc nhở chúng ta không được lãng quên quá khứ bằng những dòng thơ giản dị, ngôn ngữ mộc mạc và giai điệu nhẹ nhàng với thể thơ năm chữ. Đoạn thơ như là lời nhắc nhở về đạo lý sống đẹp của con người, hãy sống trung thành và theo đúng đạo lý dân tộc 'ăn quả nhớ kẻ trồng cây.'
