1. Bài phân tích hình tượng nhân vật khách số 1
Trong lịch sử văn hóa dân tộc, chúng ta được chứng kiến những hình ảnh tuyệt vời. Như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người đã để lại những dấu ấn về tinh thần tướng sĩ trong bài hịch bất hủ. Hoặc vua Lí Công Uẩn, đầy khảng khái, hi vọng về tương lai đất nước trong Chiếu dời đô. Còn Nguyễn Trãi, bậc khai quốc công thần, hào sảng, khí thế trong Đại cáo bình Ngô. Và sau 50 năm chiến thắng trên sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đầy hoài niệm về những chiến công trong lịch sử dân tộc trong Phú sông Bạch Đằng. Tuy nhiên, để bộc lộ, giãi bày xúc cảm ấy, bậc nho sĩ thời Trần đã sử dụng hình tượng nhân vật khách, một sáng tạo thành công về mặt nghệ thuật đưa Phú sông Bạch Đằng trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc của thơ văn trung đại.
Khách, theo đặc trưng của phú cổ thể, là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão). Ở Phú sông Bạch Đằng, khách trở thành hình tượng trung tâm. Tác phẩm vẫn đáp ứng đầy đủ bốn đoạn thông thường (mở, giải thích, bình luận và kết), nhưng cũng hoàn toàn thể cảm nhận bài phú dựa trên mạch cảm xúc của nhân vật khách. Đó là sự bộc bạch cái tráng trí bốn phương tha thiết và là niềm niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng. Có lẽ nhiều người hiểu rằng khách chính là cái tôi của tác giả, là sự hóa thân tài tình của một bậc thi sĩ, một du sĩ và một đấng anh hùng chất chứa nhiều tâm sự về đất nước.
Giương buồm giong gió chơi vơi
…
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao
Thông qua những hình ảnh có tính ước lệ, cường điệu giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, chiều lần thăm khách hiện lên trong dáng vẻ của một con người có tâm hồn khoáng đạt, thích ngao du. Vị mặc khách ấy như thể đang vi vu với gió trăng, trời bể suốt tháng ngày. Hai từ láy chơi vơi, mải miết càng tô đậm thêm sự say mê, đắm chìm trong giấc mộng hải hồ. Liệt kê đã đưa khách viễn du đến những cảnh đẹp của Trung Quốc, rồi lại trở về lướt thuyền tới sông Bạch Đằng. Những vùng đất bắc phương kia, dẫu khách chưa từng đặt chân đến, có khi chỉ biết qua sách vở nhưng đã thể hiện sự hiểu biết rộng của một bậc nho sĩ và cái tráng trí bốn phương của kẻ lãng du.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
…Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu
Theo cánh buồm lướt nhẹ, khách từ từ qua từng điểm rồi đến với sông Bạch Đằng. Và một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt: một khung cảnh tuyệt đẹp của mùa thu. Bút pháp miêu tả đầy lãng mạn, một bức tranh thủy mặc trên dòng sông đẹp ở từng đường nét. Có cái bát ngát sóng kình muôn dặm của một Bạch Đằng không bao giờ ngơi nghỉ, có cái thướt tha của những con thuyền như đuôi trĩ một màu và cảnh trời, sắc nước mênh mông như hòa lẫn vào nhau của một Bạch Đằng thơ mộng, hiền hòa.
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
…Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bút pháp tả thực dường như đã vẽ nên một khung cảnh hoàn toàn đối lập. Khách nhìn về trận địa năm xưa sao ảm đạm, thê lương! Những bờ lau, bến lách qua hai từ láy san sát, đìu hiu mà đượm buồn. Dòng sông cuồn cuộn sóng khí thế năm xưa giờ chỉ còn giáo gãy, xương khô mà bi thảm. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn của mặc khách kia bỗng trùng xuống, có ánh mắt u buồn, có cái nín lặng, cúi đầu mà thương tiếc, xót xa, ngậm ngùi.
Việc trước quay đầu ôi đã vắng
Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng
(Cửa biển Bạch Đằng)
Thế là bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Bởi vậy mới có nhân vật các vị bô lão – những người trong cuộc, đã chứng kiến, đã tham gia, giờ đây tái hiện, phục chế lại quá khứ ấy để gieo vào lòng mặc khách niềm tự hào, kiêu hãnh của những chiến thắng lẫy lừng trên dòng sông lịch sử năm xưa. Ca ngợi sông Bạch Đằng là con sông huyền thoại, nổi tiếng nhất quả không sai. Vì hai trận đánh của Trùng Hưng nhị thánh và Ngô chúa năm xưa đã không cho kẻ thù một chút hiển vinh, làm lay động cả trời đất, vũ trụ là ở con sông ấy. Biết bao nhiêu cảm hứng lịch sử ùa về trong lời kể. Tuy nhân vật khách không hề tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão, nhưng chúng ta vẫn nhận ra khách tuy ẩn đi mà vẫn hiện ra bằng cảm xúc. Lối kể mang đậm chất ước lệ, cường điệu pha lẫn cảm hứng vũ trụ đã tái hiện sống động, hoành tráng, hào hùng những trận đánh năm xưa.
Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao
Phải chăng Bạch Đằng giang cuồn cuộn sóng chảy ra biển Đông cũng là lòng người thi nhân cuồn cuộn sóng? Có cái cuồn cuộn mạnh mẽ về một quá khứ xa xưa, nhưng cũng có cái cuồn cuộn cảm khái, ưu tư về thế thời, xã tắc lúc bấy giờ. Khách bởi vậy mà đã khơi dậy những giá trị lịch sử rất đỗi thiêng liêng của dân tộc, đề cao vị trí, vai trò của con người trong lịch sử nhưng cũng ngầm chuyển tải tâm sự thời thế mà ông chẳng thể nói ra.
Qua bút pháp rất đặc trưng của thơ văn trung đại, nhân vật khách đã được khắc họa thành công trong bài phú, trở thành một hình thượng nghệ thuật đặc sắc của văn học thời kỳ này. Có thể nói, khách đã hội tụ, kết tinh hết thảy những phẩm chất con người của chính tác giả. Khách đã khẳng định cái tôi đậm chất nghệ sĩ hoài cổ mà từ đó giúp Trương Hán Siêu chuyển tải những giá trị tư tưởng có tính lịch sử thiêng liêng và truyền thống vẻ vang của dân tộc trong bài phú.
2. Phân tích đặc điểm của nhân vật khách thứ ba
Sông Bạch Đằng, nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca, chứng nhận bằng những bài văn hùng tráng. Trích từ “Bạch Đằng giang” của Nguyễn Sưởng:
“Mồ thù như núi, cỏ cây tươi
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời.
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết
Nửa do sông núi nửa do người.”
Bài thơ vừa ngắn gọn, vừa hùng tráng, khắc họa bức tranh sông Bạch Đằng lưu giữ những chiến công lịch sử của dân tộc. Trương Hán Siêu cũng tạo nên kiệt tác với “Phú sông Bạch Đằng”, một bức tranh văn học trung đại, đậm chất Đông A. Tác phẩm này không chỉ thể hiện vẻ đẹp của nhân vật khách mà còn nổi bật bản dạng anh hùng thời Trần, khuất phục trong tiếng hùng ca.
Trương Hán Siêu, người Thăng Phủ, quan nhà Trần, là nhà văn lẻ triều Trần với tư cách là học giả và chiến sĩ xuất sắc. Với tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”, ông muốn kể về sự tự hào và lòng yêu nước, qua hình ảnh nhân vật khách khao khát khám phá, học hỏi và tôn trọng lịch sử. Tác phẩm gửi gắm những giá trị lịch sử cao quý, là niềm tự hào của dân tộc. Trương Hán Siêu đưa ra tầm nhìn tổng quan và sâu sắc về quê hương, lịch sử, và con người Đại Việt.
Bài phú phản ánh niềm tự hào của người Việt với sông Bạch Đằng, nơi đã chứng kiến những trận đánh lịch sử. Qua từng dòng văn, khách nhìn nhận sự hùng vĩ của dòng sông, nỗi tiếc thương về những anh hùng đã hi sinh, và lòng biết ơn về những chiến công của Tần Thủy Hoàng và Trần Hưng Đạo. Sự tận tâm và đam mê của khách không chỉ là để thưởng thức vẻ đẹp của đất nước mà còn là để nghiên cứu và trân trọng lịch sử.
Độc giả sẽ cảm nhận được khát vọng lớn lao, hoài bão của nhân vật khách, người như một tráng trí sáng tạo, có tâm hồn phóng khoáng và đam mê khám phá. Việc đi qua những địa danh bằng sách vở và thực tế trải nghiệm là biểu tượng cho sự mở mang kiến thức và tình yêu thiên nhiên của khách. Bài phú vừa là tác phẩm nghệ thuật, vừa là bức tranh sống động về quê hương, lịch sử, và tâm hồn những người con Việt Nam.
Trương Hán Siêu không chỉ là nhà văn lẻ triều, mà còn là người họa sĩ bằng nét bút mượt mà. Ông tài năng diễn đạt những cảm xúc đan xen, từ niềm tự hào đến nỗi tiếc thương, qua hình ảnh như sóng chìm giáo gãy và gò đầy xương khô. Bức tranh của Trương Hán Siêu không chỉ là một bức tranh về cảnh đẹp, mà còn là bức tranh về lịch sử và lòng yêu nước.
Bài phú kết thúc bằng sự ca ngợi hào khí Đông A, khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn đất đai. Khách nối tiếp bô lão, ca ngợi sự anh minh của Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông, đồng thời nhấn mạnh đức độ của lãnh đạo và tinh thần đoàn kết. Bài phú không chỉ là tác phẩm văn học mà còn là thông điệp nhân văn sâu sắc, là nguồn động viên cho tâm hồn yêu nước của độc giả.
Đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, mà còn là bức tranh sống động về quê hương, lịch sử, và lòng yêu nước của những người con Việt Nam. Trương Hán Siêu đã để lại một tác phẩm vĩ đại, là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau.
Qua nhân vật khách và bô lão, Trương Hán Siêu đã truyền đạt một thông điệp sâu sắc về lòng tự hào dân tộc, lòng yêu nước và tình yêu thiên nhiên. Bài phú không chỉ là một tác phẩm văn học mà còn là biểu tượng cho lòng kiêu hùng của nhân dân Việt Nam, là nguồn động viên và gợi cảm hứng cho những người yêu văn hóa Việt Nam.
Lời ca của khách đánh dấu kết thúc bài phú với sự hào hứng và tình cảm sâu sắc. Sông Bạch Đằng, chứng nhân của lịch sử, đã trở thành mồ cổ anh hùng, là biểu tượng cho lòng tự hào và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
3. Phân tích đặc điểm nhân vật khách số 2
Trương Hán Siêu, một tâm hồn phóng khoáng, đặc sắc của đời Trần, để lại dấu ấn sâu đậm qua Bạch Đằng giang phú. Nhân vật 'khách' trong tác phẩm, với tâm hồn tự do, du ngoạn bốn phương, đã mô tả những chân trời tươi đẹp từ Nguyên Tương đến Cửu Giang. Hình ảnh sông Bạch Đằng vừa hùng vĩ, vừa u buồn, với sóng biển kinh thắm, là ký ức của chiến công lịch sử. Bức tranh đẹp đen trắng với bờ lau san sát, bến lách đìu hiu, gợi nhớ về những anh hùng đã nằm xuống. Nhân vật 'khách' bày tỏ lòng biết ơn và tự hào về đất nước qua những dòng thơ tình cảm.
Điều đặc biệt là nhân vật 'khách' không chỉ mê du ngoạn mà còn mang theo tâm hồn lịch sử, muốn hiểu rõ về dân tộc thông qua những hành trình của mình. Từ sự say mê, hào hứng, đến sự chấp nhận và tiếc nuối, ông đã chuyển đổi cảm xúc một cách tinh tế, khiến người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương và lòng yêu nước sâu sắc.
Bài phú của Trương Hán Siêu không chỉ là tác phẩm văn học mà còn là di sản văn chương góp phần làm giàu tinh thần dân tộc. Bằng lối văn hùng biện, nhân vật 'khách' đã truyền đạt những giá trị nhân văn cao cả, khẳng định lòng tự hào về lịch sử, văn hóa của Việt Nam.
Trương Hán Siêu, một danh sĩ hiếm có, đã để lại dấu ấn vĩ đại không chỉ trong lòng dân tộc mà còn trong triều đình đời Trần. Bài phú Bạch Đằng giang là một tác phẩm tinh túy, góp phần làm sáng tỏ tâm hồn, truyền thống anh hùng của Việt Nam.
4. Phân Tích Nhân Vật Khách Số 5 - Hành Trình Khám Phá Đầy Bí Ẩn
Trong hành trình lịch sử chống giặc, Bạch Đằng nổi tiếng với những trận chiến vang dội. Nguyễn Trãi viết Bạch Đằng hải khẩu, Nguyễn Sưởng sáng tác Bạch Đằng giang, và tuyệt tác Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu đặc sắc với hình tượng nhân vật khách.
Nhà thơ Trinh Đường viết về Bạch Đằng như biểu tượng vinh quang của dân tộc, nơi diễn ra những trận đánh lịch sử. Các chiến công nổi bật như của Ngô Quyền năm 938 và vua Trần năm 1288 đã làm cho sông này trở thành biểu tượng của chiến thắng. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu nổi bật với hình tượng nhân vật khách, thể hiện lòng tự hào và tình yêu quê hương.
Bài phú đặc sắc khi kể về sự kiện lịch sử và tâm trạng của nhân vật khách. Hình tượng nhân vật này thể hiện lòng ham hiểu biết, tìm tòi văn hóa, lịch sử của dân tộc. Được mô tả như một người trữ tình, nhân vật khách của Trương Hán Siêu là người yêu thiên nhiên, sáng tạo và tự do.
Bạch Đằng giang phú không chỉ là một tác phẩm ca ngợi về chiến công anh hùng mà còn là bức tranh về vẻ đẹp và bi tráng của quê hương. Sự kết hợp tài năng nghệ thuật của tác giả đã tạo nên một tác phẩm lưu danh về sông Bạch Đằng và lòng hồn của nhân vật khách đầy tình cảm.
4. Đánh giá hình tượng nhân vật khách số 4
Trong sự nghiệp văn học của mình, Trương Hán Siêu đã sáng tác không nhiều, nhưng Bạch Đằng giang phú của ông đã đủ để làm nên tên tuổi. Trong bài ca, nhân vật 'khách' được xem là sự phản ánh của chính tác giả, và sự xuất hiện của 'khách' mang ý nghĩa quan trọng.
Mở đầu bài phú, hình tượng 'khách' hiện lên với tư thế thú tiêu dao. 'Khách' đi tham quan phong cảnh để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nghiên cứu cảnh đẹp đất nước, bổ sung tri thức. Tư thế của 'khách' là của người có tâm hồn khoáng đạt, hoài bão lớn lao:
Nơi có người đi đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
Tráng chí của 'khách' thực ra cũng chính là tráng chí của Trương Hán Siêu. Nó được gợi lên từ các địa danh mà 'khách' đã đi qua. Có những địa danh 'khách' đi qua bằng sách vở, bằng trí tưởng tượng:
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt
Không gian 'khách' đi qua thường là không gian rộng lớn như biển lớn (lướt bể chơi trăng), sông hồ (Cửu Giang, Ngũ Hồ), là những vùng đất nổi tiếng như Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng… Những chuyến phiêu lưu trong tưởng tượng như thế thể hiện tráng chí bốn phương của 'khách'. Điều đáng quí là không vì mải miết chơi xa mà 'khách' quên yêu những thắng cảnh của đất nước mình. Và đó là lí do 'khách' dùng chân ở sông Bạch Đằng:
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Để rồi, thuyền trôi đến nơi đâu trên dòng sông ấy, trong lòng 'khách' cũng sông lên những cảm xúc tự nhiên, chân thành. Có khi tráng chí cất cánh cùng thiên nhiên hùng vĩ:
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Cũng có khi lòng 'khách' lắng vào cảnh vật ảm đạm, hiu hắt:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô
Sự xuất hiện của 'khách' trong Bạch Đằng giang phú gắn với hình ảnh thiên nhiên thể hiện tâm hồn lãng mạn và lòng yêu quê hương đất nước của nhân vật hay cũng chính là của Trương Hán Siêu. Ở phần tiếp của bài ca, nhà văn đã để nhân vật 'khách' đối thoại với các bô lão xung quanh chủ đề: cuộc chiến đấu và chiến thắng của quân đội nhà Trần trước quân Nguyên Mông. 'Khách' được các bô lão kể về chiến tích Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã. Sau lời kể về trận chiến là lời bình luận và suy ngẫm của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Trong cuộc đối thoại, nhân vật 'khách' đóng vai trò là người lắng nghe câu chuyện, đồng thời là người nói lời cuối cùng, kết lại lời kể và bình luận của các bô lão:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
Có thể nói tư tưởng nhân văn của Trương Hán Siêu được thể hiện đậm nét trong những câu ca này và chính 'khách' là người phát ngôn thay cho tác giả. Lời ca của 'khách' khẳng định vai trò, vị trí quyết định của yếu tố con người trong công cuộc trùng hưng đất nước. Theo Trương Hán Siêu, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người. Không có con người thì những yếu tố 'thiên thời, địa lợi' cũng không giúp con người chiến thắng. Lời ca của nhân vật 'khách', thể hiện rõ sự tôn kính đối với hai vị vua triều Trần (Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông). Ngợi ca công lao nghìn năm tiết rỡ của con người là cách Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn có tầm triết lí sâu sắc.
Như vậy, nhân vật 'khách' xuất hiện trong tác phẩm cùng với những ý nghĩa quan trọng. Đây chính là hình ảnh trữ tình của nhà văn Trương Hán Siêu. 'Khách'vừa là hình tượng nhân vật trong bài phú, vừa thể hiện lòng yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc cũng như tinh thần nhân văn cao cả. Từ nhân vật này, ta có thể hình dung một cách rõ ràng về nội dung tư tưởng của sáng tác và tấm lòng yêu nước của Trương Hán Siêu.
6. Phân Tích Nhân Vật 'Khách' số 7
Người khách là bức tranh sống động của tác giả, đam mê khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, sống hòa mình với tự nhiên và tìm hiểu lịch sử đất nước. Hai câu đầu tiên phản ánh tâm hồn mê đắm, tươi vui, và rộng lớn của người khách. Những địa danh Trung Hoa được kể đến để làm phong phú thêm câu chuyện, tác giả đã trải qua những hành trình tưởng tượng qua sách vở. Tâm hồn và kiến thức của người khách trở nên phong phú và sâu sắc. Tuy nhiên, khát vọng của tác giả vẫn chưa được đạt, mong muốn 'vẫy vùng' trong biển tri thức để thoả mãn tâm hồn rộng lớn.
Tác giả cho rằng mình như Tử Trường (Tư Mã Thiên) đang du ngoạn. Điều này thể hiện tác giả không chỉ yêu thiên nhiên mà còn có ý thức nghiên cứu lịch sử dân tộc, mong muốn lưu giữ những câu chuyện, chiến công của nhân dân qua các thế hệ. Ý thức lịch sử và tình thần dân tộc của học giả đáng được ca ngợi. Trong hành trình trở lại những danh thắng của đất nước, tác giả tỏ ra hạnh phúc và tự hào:
Qua cửa Đại Than, vượt bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Đây là địa điểm mà tác giả đã mong đợi, ao ước được chiêm ngưỡng trực tiếp, hiểu rõ hơn về vẻ hùng vĩ và không khí náo nhiệt của miền đất phồn thịnh. So sánh với danh thắng của Trung Hoa, tác giả tự hào vì đất nước mình cũng có những điểm đẹp không kém. Tác giả không chỉ đến để ngắm cảnh, mà còn để tìm hiểu lịch sử, nhìn nhận dòng sông qua lớp sóng của thời gian, cảm nhận hình ảnh chiến trận và những anh hùng nay đã trở thành huyền thoại:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Âm thanh của lời ca trầm lắng, mang theo suy tư về cảnh đẹp bát ngát, tinh khôi nhưng đầy xúc cảm, buồn bã. Lời ca chứa đựng sự u hoài, mộng tưởng. Trong đó, tình cảm buồn thương với sự biến đổi của thời gian hiện rõ. Hình ảnh của người khách ở đoạn đầu thể hiện tâm hồn đẹp và lòng kính trọng đối với tiền nhân.
Trận chiến Bạch Đằng xưa được tái hiện qua lời kể của bô lão. (Từ câu: Bền sông các bô lão... đến câu: Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh). Bô lão đại diện cho những người dân địa phương, có thể cũng là tác giả. Thái độ của bô lão đối với người khách là kính trọng (vái tạ) và nhiệt tình, chăm sóc trong việc kể chuyện xưa. Họ tự hào về quê hương lịch sử của mình qua bài ca dài như một bức tranh lịch sử:
Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt
Ô Mã cũng là bãi đất xưa, thuở trước
Ngô chúa phá Hoằng Thao.
Họ tái hiện cảnh chiến trường bằng cách diễn đạt:
Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời chừ sắp đổi.
Cách kể chuyện khéo léo, súc tích, chỉ tập trung vào những điểm chính để tạo nên bức tranh, diễn biến và không khí chiến trường. Cuộc đối đầu trên sông hấp dẫn, kịch tính, với những hình ảnh nổi bật như long trời lở đất, khói lửa mịt mù. Biện pháp diễn đạt thực sự thể hiện sức mạnh ngất ngưởng, và chiến thắng cuối cùng thuộc về quân ta, làm nổi bật 'hào khí Đông A' một thời.
Đối thủ tham lam và bất nhân đánh bại. Điều này là biểu tượng của sự thất bại không thể phai nhòa và là bài học lịch sử: Cho đến nay, sông vẫn chảy mãi Mà nhục của kẻ thù không bao giờ rửa sạch! Chiến thắng của chúng ta là nhờ vào địa thế khó khăn và tài năng của con người. Lời nhận xét đồng thời tự hào và kính trọng, ca ngợi lịch sử anh hùng giữ nước:
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cùng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.
So sánh trận Bạch Đằng với các trận chiến nổi tiếng của Trung Hoa như Xích Bích, Hợp Phì, thể hiện sự ngang tầm, khẳng định tài trí của Ngô Quyền và vua Trần là vĩnh cửu. So sánh còn thể hiện niềm tự hào dân tộc. Đoạn tự sự đậm chất sử thi, ca ngợi anh hùng và tự hào về lịch sử qua giọng điệu hào hứng, trang trọng. Lời kết của bô lão:
Sông nước hùng vĩ chảy muôn đời.
Anh hùng chính nghĩa sẽ để lại dấu ấn cho muôn đời sau.
Đó là chân lý vĩnh cửu. Lời ca vui mừng, tự hào vang mãi trên sông nước, và hình bóng của bô lão cũng dần khuất sau bờ lau cao.
Lời ca của người khách tiếp theo: (Còn lại)
Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch hai lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Tác giả cũng khen ngợi công đức và tài năng của hai vị vua Trần: Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, nhưng khác với bô lão, Trương Hán Siêu nhấn mạnh vai trò của con người, không chỉ nhờ vào địa thế khó khăn và đạo đức của giống nòi. Đó là chân lý, lẽ phải làm nên chiến thắng.
Lời kết thúc bài phú vừa thể hiện lòng tự hào dân tộc, vừa truyền đạt tư tưởng nhân văn cao quý. Giá trị nội dung: Bằng cách tái hiện chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng và bình luận, bài phú khen ngợi sự anh hùng, tự hào dân tộc và tư tưởng nhân văn cao quý. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của thơ văn yêu nước thời Lí – Trần. Giá trị nghệ thuật: Cấu trúc đơn giản nhưng hấp dẫn, kết cấu chặt chẽ, ngôn ngữ trang trọng và sức biểu hiện phong phú, hình tượng nghệ thuật sinh động (người khách, bô lão, cảnh chiến trường…), giọng điệu đa dạng…
6. Đánh Giá Chi Tiết Nhân Vật Khách Số 6
Sông Bạch Đằng, tên gọi quen thuộc, đã là chứng nhân của những trang sử hùng vĩ của dân tộc. Nơi đây là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng, như Bạch Đằng Giang của Trần Minh Tông, Bạch Đằng Giang Phú của Nguyễn Mộng Tuân hay Bạch Đằng Giang của Nguyễn Xưởng. Trong số đó, Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu nổi tiếng với hình tượng và cảm xúc của nhân vật 'khách'.
Trương Hán Siêu, nhà văn và chính trị gia xuất sắc thời Trần, đã để lại ấn tượng mạnh mẽ với tác phẩm này. Bài phú không chỉ là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần, mà còn được coi là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Nó được sáng tác sau chiến thắng quân Mông - Nguyên, khi nhà Trần bắt đầu suy thoái.
Phần đầu của tác phẩm đưa ra hình ảnh của nhân vật 'khách' trong những chuyến du ngoạn trên các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc và Việt Nam. Tác giả kể về sự thơ mộng hùng vĩ của sông Bạch Đằng, như 'Bát ngát sóng kình muôn dặm', nhưng cũng không thiếu nỗi buồn thương trước những dấu vết lịch sử và chiến trường xưa.
'Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu,
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá.
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.'
Nhân vật 'khách' trở thành bức tranh sống động, là tâm hồn của Trương Hán Siêu, hiện diện giữa cảnh đẹp và lịch sử của đất Việt. Những cảm xúc, niềm tự hào và lo lắng của nhân vật là nguồn động viên cho những phần tiếp theo của bài phú, làm nổi bật tác phẩm trong văn chương nước nhà.
'Khách đứng lặng giờ lâu,
Bâng khuâng, hụt hẫng trước chiến trường xưa.
Nỗi buồn thương, niềm tiếc thương.
Một tác phẩm văn học vĩ đại, kể lên không chỉ vẻ đẹp của đất nước mà còn tâm hồn và tư tưởng của những con người yêu nước. Phú Sông Bạch Đằng, một bức tranh sáng tạo về lịch sử và văn hóa, tôn vinh tinh thần anh hùng và sự hy sinh cho đất nước.
'Phú sáng tác từ trái tim yêu nước,
Nhấn chìm trong biển cảm xúc và lưu luyến.
Bạch Đằng, tình yêu bất tận!'
8. Đặc điểm nổi bật của nhân vật thứ 8
Trong bài “Bạch Đằng giang phú”, nhân vật “khách có kẻ” thực sự là bản lĩnh và tâm hồn của Trương Hán Siêu. Không chỉ xuất hiện trong bài phú của ông mà còn là biểu tượng cho tấm lòng trữ tình và trí tuệ của một người sĩ tử. Mạc Đĩnh Chi (?-1346) trong bài phú “Ngọc tỉnh liên phú” cũng sử dụng nhân vật “khách” để miêu tả tâm hồn thanh cao và tài năng của một kẻ sĩ. Trương Hán Siêu, với ước mơ tự do và lòng yêu thiên nhiên, đã thể hiện điều này qua câu chuyện của “khách có kẻ”.
Tính cách của “khách” là sự hòa mình với thiên nhiên, như một tao nhân rong ruổi với rượu túi thơ, đồng hành cùng gió và trăng qua mọi miền sông biển. Tận hưởng cuộc sống đầy đủ và tự do, “khách” du ngoạn qua những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Nguyên Tương, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt. Đây chỉ là biểu tượng, ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn đầy niềm lạc thú, sự tự hào về lối sống “giang hồ” của nhân vật.
Với đoạn văn mô tả sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã khắc họa một cảnh đẹp hùng vĩ, oai hùng của Đại Việt. Sông rộng lớn, cuồn cuộn sóng biếc, và “khách” đắm chìm trong vẻ đẹp thiên nhiên này. Câu văn tả nước, mô tả con sóng đánh bại đối phương, đều là những hình ảnh sâu sắc, gợi lên những ký ức về chiến trường xưa, những anh hùng đã hi sinh. Bức tranh của sông Bạch Đằng trở nên sống động qua từng từ ngữ của Trương Hán Siêu.
Đặc biệt, nhân vật “khách” khi đứng trước Bạch Đằng cảm nhận nhiều tâm trạng và cảm xúc. Sự vui mừng trước vẻ đẹp hùng vĩ của sông nước, lòng tự hào trước chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, đồng thời, ông cũng bộc lộ nỗi buồn thương và nuối tiếc trước những chiến trường đã qua, nơi chỉ còn lại những dấu vết phai mờ. Tâm trạng của nhân vật “khách” chính là tâm trạng của Trương Hán Siêu, là tâm trạng của một người yêu nước, lo lắng cho tương lai dân tộc.
Bài phú Bạch Đằng giang của Trương Hán Siêu không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là bức tranh sống động về lịch sử và tâm hồn của nhân dân Việt Nam thời xưa.