1. Triệu đoá hoa hồng
Cuối tháng Bảy, lòng người Việt tràn đầy cảm xúc. Nỗi nhớ, lòng tri ân, và niềm tự hào hòa quyện khi nhớ đến những anh hùng liệt sĩ, thương binh trên cả nước. Ngày 27-7 như một bản hòa nhạc bi tráng, vang lên suốt 74 năm. Đó là ngày không thể quên và không được phép quên!
Ngày 27-7, những gia đình đã lấy ngày này để tưởng nhớ liệt sĩ, dù không biết chính xác ngày họ hy sinh. Cũng có những gia đình biết ngày, nhưng vẫn coi 27-7 là ngày giỗ chung, ngày cả nước hướng về các Anh, những người đã hy sinh cho dân, cho nước.
Một số làng, thị trấn tổ chức giỗ chung vào ngày này. Ở thị trấn Thạch Tân, có 262 hộ dân với 203 liệt sĩ. Trong số họ, nhiều liệt sĩ không biết ngày tháng, người chưa có hài cốt về nên gia đình chọn 27-7 làm ngày giỗ. Đây là dịp để những người còn sống nhớ về cội nguồn và nhắc nhở con cháu về truyền thống hào hùng, quý báu của ông cha để lại.
Trong những ngày này, nhiều nghĩa trang liệt sĩ còn đón đủ màu áo của đoàn viên, thanh niên, các tổ chức đoàn thể, tu sửa, thắp hương, dâng hoa cho những anh hùng liệt sĩ. Hương thơm, sen hồng, nến lung linh gửi tới những người đã hy sinh. Ở một góc nghĩa trang, hình ảnh người mẹ lặng lẽ gầy gò, lần tay trên ngôi mộ con là bức tranh bi thương nhưng cảm động.
Chiến tranh đã qua, nhưng những hậu quả nó để lại vẫn còn hiện hữu. Nhiều lính ra đi vẫn chưa trở về, những người còn sống ngóng trông, mong tìm thấy đồng đội của mình. Không chỉ những người đồng đội, mà còn hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những người đã mãi mãi không gặp lại người thân yêu nhất của mình.
Những năm qua, công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ được toàn xã hội quan tâm thực hiện. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trở thành nét đẹp của văn hóa con người Việt Nam.
Trong những ngày tháng Bảy linh thiêng này, chúng ta tri ân các Mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh, bệnh binh, gia đình có công với nước! Cảm ơn các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc - họ là những đoá sen hồng thơm ngát.
Mạnh Thường


2. Mỗi Ngôi Mộ, Một Câu Chuyện Kể
Mỗi ngày 27/7, tôi và gia đình lại hành hương đến nghĩa trang để tưởng nhớ ông nội. Bia mộ nhỏ bé chỉ chứa tên và năm hi sinh. Cảm xúc trào dâng khi nhìn những hàng bia mộ trắng xóa, là những người con quê hương tôi đã hy sinh. Mỗi ngôi mộ là một câu chuyện đằng sau, là một đời sống và tình yêu không kể ai biết.
Những bia mộ được sắp xếp gọn gàng, là những người lính trẻ tuổi, hi sinh khi tuổi xuân rực rỡ. Tên tuổi và năm mất trên mỗi ngôi mộ là những con số thấp, là những cuộc đời trẻ trung đã dừng lại. Mỗi ngôi mộ là một câu chuyện, một câu chuyện mà người làng tôi đều biết đến.
Ngôi mộ của Nguyễn Văn Duật nằm gần bên mộ ông tôi. Chú mới cưới được 7 ngày, bỏ lại vợ mới cưới để nhập ngũ. Chiến tranh đến gấp, chú mang theo chiếc khăn tay và ảnh vợ, niềm nhớ và lo lắng trên từng bước đi. Nhưng chiến tranh không tha thứ, chú Duật nằm lại trên chiến trường, bỏ lại hứa hẹn với vợ. Chú không biết rằng vợ chú đã mang thai và chưa kịp gặp con trai mình. Một lá thư cuối cùng và tờ báo tử, đó là tất cả mọi thứ mà con trai biết về cha mình.
Vợ chú không bao giờ từ bỏ tìm kiếm. Một ngày may mắn, họ tìm thấy nhân chứng chia sẻ về cuộc đối đầu và nơi chú Duật hi sinh. Họ đào xới đến khi tìm thấy một nắm xương còn sót lại, với chiếc khăn tay và ảnh vợ chú vẫn nguyên vẹn. Đó là niềm hy vọng cuối cùng và sự đoàn tụ với người lính quê hương.
Chú Duật được đưa về quê hương và được đưa vào nghĩa trang. Một lần nữa, người làng tôi tập trung để tưởng nhớ. Mọi người chia sẻ những chiếc điếu thuốc và nến đỏ rực trên mộ, tạo nên không khí của sự hội ngộ vĩ đại.
Mỗi ngôi mộ là một câu chuyện, như chú Toan, người hi sinh tại Quảng Trị. Chú mới cưới và hứa sẽ gặp lại vợ trong bài hát quan họ quê hương. Nhưng chú không quay trở lại, và vợ chú, sau nhiều năm, vẫn chung thủy với ký ức và tình yêu.
Quê hương tôi có nghĩa trang, mỗi người lính vô danh đều góp phần vào dải đất này. Cả những người không có mộ cũng được nhớ đến. Chiến tranh có thể đã qua, nhưng những câu chuyện và ký ức vẫn sống mãi.
Nguyễn Thanh Nga


3. 27/7 - Kỷ niệm không phai, không bao giờ quên!
Đất nước ta giành được độc lập, tự do với một giá đắt: mồ hôi, máu, và nước mắt của những người con xuất sắc. Bao nhiêu anh hùng đã gục ngã, bao nhiêu người trở về mang theo những thương tích không lời...
Dù chiến tranh đã trôi qua nhiều năm, những dấu vết mà nó để lại vẫn còn đọng mãi. Để quốc gia tự do, những giọt mồ hôi, giọt máu và giọt nước mắt đã rơi xuống mảnh đất yêu dấu. Bao người xuất sắc đã hy sinh, bao người trở về mang theo thương tích vĩnh viễn. Hàng triệu gia đình liệt sỹ, cha mẹ, vợ chồng, con cái, vẫn mãi không thể ôm trọn trong lòng người thân yêu nhất của mình.
Những bài hát cảm động như: “Ba lần tiễn con đi/Hai lần khóc thầm lặng lẽ/Các anh không về/ Mình mẹ lặng im..., những bài thơ đầy tình cảm dành cho những người đã 'nằm xuống': “Đò lên Thạch Hãn xin… chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm...” luôn làm rung động trái tim khi nhớ về những thời khắc đau lòng.
Đánh dấu công lao to lớn ấy, suốt 68 năm, bất kể khó khăn đến đâu, Đảng và Nhà nước chúng ta đã thực hiện những chính sách đặc biệt đối với những người có công, cũng như gia đình và con cháu của họ. Ngoài chế độ trợ cấp, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi như: Hỗ trợ nhà ở cho người có công; đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người có công và con cháu; chăm sóc sức khỏe; tham gia các hoạt động xã hội, thực hiện chính sách và pháp luật về người có công. Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ, xây dựng và tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ đã được toàn xã hội quan tâm. Đáng mừng, phong trào Đền ơn đáp nghĩa trở thành nét đẹp văn hóa của người Việt Nam.
Chúng ta đã đạt được nhiều thành công, nhưng vẫn chưa thể đền đáp hết công lao hy sinh của những anh hùng liệt sỹ, thương binh đã hi sinh cả cuộc đời mình, tính mạng mình vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Tháng 7 đã trở lại! Trong những ngày này, các nghĩa trang liệt sĩ trên khắp cả nước luôn đón nhận những cuộc thăm, những nén hương tỏ lòng kính trọng, biết ơn đối với những liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hãy đến Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia Đường 9 và nhiều nghĩa trang khác, đứng trước những ngôi mộ, theo dõi từng dòng tên, quê quán, ngày nhập ngũ, ngày hy sinh… từ trái tim, bạn sẽ cảm nhận được niềm xúc động, nỗi lòng đau thắt... nhưng cuối cùng là niềm tự hào, động viên bản thân sống tốt hơn, xứng đáng với những hi sinh, mất mát của cha ông.
Ngày 27/7, hàng triệu gia đình tôi đặt làm ngày giỗ cho những liệt sĩ vô danh. Nhiều gia đình biết ngày hy sinh của liệt sĩ, nhưng trong những ngày này, hương khói, nến và lời cầu nguyện vẫn tràn ngập, coi đó là ngày giỗ chung, ngày cả nước hướng về những người hùng, những người đã hy sinh xương máu cho hòa bình, tự do của dân tộc.
Ngày 27/7 là một kỷ niệm không phai, không bao giờ quên!
Xin gửi tới các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, các thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ và những gia đình có công với nước những tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc! Xin thắp nén hương tri ân đến các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh tối cao cho độc lập, tự do của Tổ quốc!
Kim Thanh


4. Hồi ức của tháng bảy
Tháng Bảy là khoảnh khắc hòa mình vào biển ký ức, từ quá khứ đến hiện tại, đan xen những cảm xúc thăng trầm như những lá cờ tung bay dưới bầu trời xanh.
Trong tháng Bảy, cả đất nước hướng về những anh hùng liệt sĩ, những tâm huyết trải nghiệm cho đến giây phút cuối cùng. Tại thành cổ Quảng Trị, tâm hồn chìm đắm trong những dòng thơ của nhà báo Lê Bá Dương, một chiến sĩ anh dũng đã trải qua những trận đánh khốc liệt.
Ngày 27/7, gia đình tôi lại làm một bữa cơm trang trọng dành cho chú ruột đã hy sinh. Chú ấy nằm ở nơi nào, gia đình chẳng biết. Nhưng tình cảm và hồn đồng đội mãi mãi theo dõi chú ấy, vẫn đậm sâu như những lá thư xưa kia.
Tháng Bảy còn là thời điểm của những điều kỳ diệu, những khát vọng được đặt ra và đôi khi là những thất bại. Có những bức tranh nắng mưa hòa quyện, có những giọt nước mắt vẫn còn đọng lại dưới ánh mặt trời. Tháng Bảy là kỳ thi của tuổi trẻ, là những câu chuyện đẹp về sự cố gắng và thành công.
Tháng Bảy mang theo hương hoa hướng dương, tượng trưng cho sự viên mãn và thành tựu. Những người sinh trong tháng này thường được tặng hoa hướng dương, như một lời chúc mừng sự lớn lên và phát triển.
Trong lòng Hà Nội, hoa xà cừ nở rộ, như một ký ức về những ngày học trò vui tươi. Mỗi cành hoa là một câu chuyện, là những kỉ niệm về những ngày tháng hạnh phúc.
Tháng Bảy là thời điểm của mưa, là cầu vồng nở rộ trên bầu trời. Có những lời ước khi nhìn thấy cầu vồng, những điều mơ ước được thả vào gió và đi xa mãi mãi.
Đêm Tháng Bảy, những hạt mưa rơi nhẹ nhàng như những ký ức êm đềm. Có những câu chuyện về lòng nhân ái, những sự hy sinh vì đồng đội và đất nước, những tình cảm mãi mãi trong lòng mọi người.
Vy Anh


5. HỒI SINH 'ĐÀO MÀU ĐỎ'
Mỗi khi tháng Bảy trở về, Đoàn trường của tôi tổ chức buổi lễ 'Tri ân đèn nến' tại nghĩa trang liệt sĩ xã vào tối ngày 27/7. Đây là hoạt động tri ân ý nghĩa của tuổi trẻ dành cho những anh hùng liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Nó cũng là cơ hội để tuổi trẻ Việt Nam tự hào về truyền thống hào hùng của cha ông, tiếp bước công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong những ngày tháng Bảy này, tôi thường mê mải nghe bài hát 'Màu hoa đỏ' của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu và nhạc sĩ Thuận Yến.
“Có người lính
Mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo
Có người lính
Mùa xuân ấy ra đi từ đó không về
Dòng tên anh khắc vào đá núi
Mây ngàn hóa bóng cây tre
Chiều biên cương trắng trời sương núi
Mẹ già mỏi mắt nhìn theo...
Việt Nam ơi ! Việt Nam !
Núi cao như tình mẹ bốn mùa tóc bạc nỗi thương con
Việt Nam ơi ! Việt Nam !
Ngọn núi nơi anh ngã xuống
Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa
Rực cháy lên màu hoa đỏ phía hoàng hoàng hôn”
Không phải tôi hát hay, nhưng khi hát bài hát này của nhạc sĩ Thuận Yến, tôi lại cảm nhận sâu sắc. Có lẽ vì tôi đang đắm chìm trong cảm xúc của nhà thơ và nhạc sĩ; thực sự sống với linh hồn của bài hát; hoá thân vào hình ảnh của những nhân vật trong bài ca: 'Có người lính, mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo; có người lính, mùa xuân ấy ra đi từ đó không về'.
Chao ôi! Nghe thật xót xa. Thật trầm hùng. Nhưng không bi luỵ. Có đau thương nhưng xiết bao tự hào. Những người lính ra đi khi còn trẻ, mơ mộng. Những đứa con sinh ra từ bụng mẹ. Tiễn con đi đánh giặc, mẹ đã gửi nụ cười của mình cho người mẹ chung, vĩ đại, cao cả hơn: Mẹ Tổ quốc. Các anh ngã xuống, máu thắm đỏ quốc kì bay trong gió, ngạo nghễ, kiêu hùng. Các anh không về, lòng mẹ lặng đi, đau thương, nghẹn ngào! Vì đất nước quên mình, vì nhân dân hi sinh, tên tuổi của các anh đã chạm khắc vào đá núi, hồn cốt của các anh đã hoá vào cỏ cây; mãi mãi, muôn đời trường tồn cùng non sông, đất nước. Chiều biên ải xa xôi, sương giăng trắng núi đồi, ở quê nhà, mẹ đang mỏi mòn, ngóng trông, dõi nhìn về nơi ấy, lòng mẹ hoá đá đợi con về.
Sau giai điệu trầm hùng, bi tráng ấy là điệp khúc nức nở, đau thương, vút cao, vang vọng: “Việt Nam ơi Việt Nam, núi cao như tình mẹ, bốn mùa tóc bạc nỗi thương con”. Các con của mẹ ngã xuống, hi sinh vì nước, vì dân. Mẹ, đã hoá thân vào non sông. Mẹ, đã hoá thân vào đất nước. Mẹ, đã đồng điệu cùng Tổ quốc, quê hương. Mẹ, vẫn là người mẹ bằng da bằng thịt ấy nhưng vì đức hi sinh, dâng hiến này, mẹ đã là núi, là sông, là đồng, là bể, là Tổ quốc, là đất nước rồi, mẹ ơi! Lời ca nức nở gọi tên Tổ quốc, ngợi ca tình mẹ, gợi tả sâu sắc nỗi đau thương, mất mát của chiến tranh, cảm nhận sự bất tử của người lính trong sắc đỏ của 'màu hoa đỏ phía rừng xa, màu hoa đỏ trước hoàng hôn'. Nghe sao cứ thấy cuộn lên trong lòng bao nhiêu cảm xúc nghẹn ngào, da diết, bi hùng đến thế!
Sau những từ ngữ đầy xúc động đó, người hát và người nghe hiểu thêm về sự hi sinh cao đẹp của người lính; hiểu thêm về đức hi sinh cao cả của những bà mẹ Việt Nam anh hùng; hiểu nỗi đau thương, mất mát của chiến tranh; hiểu ý nghĩa của cuộc sống tươi đẹp hôm nay và giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc; tự hào, sẵn sàng tiếp bước cha anh khi Tổ quốc cần.
Trong cuộc sống hối hả, hãy dành vài phút trong đêm 27/7 để cảm nhận và tri ân những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì quê hương. Khó diễn đạt thành lời. Chỉ biết cảm nhận lòng rưng rưng, nhất là khi đèn tắt, nhạc trầm tưởng nhớ cất lên giữa ngọn nến lung linh, hương thơm và giọng dẫn chương trình truyền cảm. Các em học sinh ngồi thắp nến, thắp hương tri ân liệt sĩ. Không biết trong lòng các em nghĩ gì, nhưng thấy các em có ý thức và tôn trọng. Hình như có sự kết nối tâm linh. Lòng cầu nguyện cho quốc thái, dân an, hòa bình trên khắp thế giới.
Ý Nhi


6. Trầm trồ trước vẻ đẹp cổ kính
Hương khói linh hồn liệt sĩ Bùi Văn Bình và đồng đội!
Mê man Thành Cổ, không phải vẻ đẹp của Quảng Trị, không phải đau thương của Quảng Trị, không chỉ là khói lửa của Quảng Trị. Mê man là cách những tâm hồn trẻ trải nghiệm quá khứ để tìm kiếm hướng tương lai.
Tôi biết đến Thành Cổ Quảng Trị lần đầu qua lá thư cuối cùng mà bác tôi viết về gia đình. Mẹ luôn giữ chúng gọn gàng trong chiếc va ly của mình. Có lẽ bác tôi đã mãi yên nghỉ tại đó và không bao giờ trở về. Liệt sỹ Bùi Văn Bình, tuổi đôi mươi.
Với tôi, không cần phải hiểu chiến tranh có ý nghĩa hay không, có nhân đạo hay không. Chiến tranh đơn giản chỉ là ngăn chặn những người rời đi từ việc quay trở về. Vâng, chiến tranh là tàn bạo.
Một chiều ở Quảng Trị, một chiều mê man, một chiều khói nhang trải dài trong hình hài đỏ lửa. Tôi rung động, trăng vàng bừng sáng, đẩy ánh hoàng hôn vào những vết đạn pháo ám ảnh linh hồn, đậu trên tường gạch khôn khuây quanh đây.
Không đến Quảng Trị, khó có thể tưởng tượng được mức độ tàn khốc của bom đạn rơi xuống bao quanh. Một bức tường, thậm chí một viên gạch, không còn lành lặn. Chỉ có đoạn tường bao quanh Thành Cổ vẫn đứng vững, nhưng cũng đầy những dấu vết hủy diệt của bom đạn.
Tôi hiểu rằng nhờ những hy sinh, trong đó có phần máu thịt của bác tôi, nhờ máu của những chiến sĩ chảy trong Thành Cổ và trên khắp chiến trường Miền Nam đã làm nên chiến thắng rực rỡ cho dân tộc. Hơn 40 năm trôi qua và mặc dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng vết thương vẫn chưa lành trong trái tim những người con Việt Nam.
“Thưa ông bà: Kể từ ngày cháu bước chân trên con đường “Vạn lý trường chinh” tới nay đã hơn một tháng trời, cháu đã viết về nhà ba lá thư, cả thư này là lá thư thứ tư và có lẽ từ nay cháu không còn điều kiện để viết thư và bỏ thư về nhà nữa đâu. Nhưng cháu vẫn luôn nghĩ đến quê hương, ông bà, thầy mẹ và các em. Vì sự nghiệp chung của toàn dân nên cháu lên đường đi chiến đấu…Thầy mẹ yên tâm, mẹ cố gắng giữ gìn sức khỏe, để một ngày không xa nữa con sẽ trở về sống bên tình thương của thầy mẹ…”
Dạo quanh những tường hào của Thành Cổ, tôi lại đọc những lời yêu thương của bác tôi trong bức thư gửi về ông bà thầy mẹ. Những chữ, những đường viết đã bị thời gian làm mờ, những cảm xúc của một chàng trai giữa cơn bão chiến tranh vẫn còn nguyên vẹn. Tôi ngước nhìn những tảng rêu xanh còn rải rác, Thành Cổ đau lòng.
Thành Cổ đã che lấp đi những vết thương, nhưng những ngày gió bắt đầu làm tỏa ra mùi của cỏ, đạn vẫn còn đây đó, giữa lúc chiều hồn, mảnh đất chứa bao nhiêu câu chuyện. Tám mươi mốt ngày đêm máu chảy, tám mươi mốt ngày đêm trái tim những bà mẹ như con dao cứa, tám mươi mốt ngày đêm quê hương đốt lửa, chiếu bóng những đứa con trở về.
Thành Cổ Quảng Trị khi tôi đến đã trở nên bình yên, màu xanh cây cỏ rợp, tòa thành nằm bên dòng sông Thạch Hãn, một dòng sông chân sóng ghìm sâu những giọng hò cuối cùng, bởi tiếng bom nổ.
“Thầy mẹ kính mến! Chúng con hiện phải hành quân gấp rút để đến chiến trường, nhanh ngày nào hay ngày ấy để hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước, giai đoạn quyết định đến đau thương và ác liệt nhất…”. Nhìn những đoạn chữ nghiêng của bác tôi, những đường viết không che giấu được xúc cảm, những tâm trạng vẫn còn nồng nàn, thời gian, Thành Cổ, máu và quê hương. Cho những tình yêu thương dẫn đường, cho những bình minh lấp lánh ở Thành Cổ, cho dòng sông Thạch Hãn mỗi đêm dìu dặt những bông đèn hoa, những linh hồn đã rời bỏ, những người anh hùng đã mỉm cười.
Tôi đi giữa đám đông hàng ngày trôi về nơi này để tưởng nhớ, những lời khấn nguyện vang lên, như khói hương cay mắt, như những vết thương đạn quay quắt. Nhưng tôi chắc rằng tâm trạng của mỗi người vẫn chảy theo dòng sông. Tự nhiên tôi nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Lê Bá Dương:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Giữ yên bờ bãi mãi ngàn năm…
Sông Thạch Hãn, dòng sông dài và đẹp nhất của tỉnh Quảng Trị. Nó bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở phía Đông. Dòng sông chảy từ Đông và Đông Bắc, gặp sông Rào Quán rồi chảy về Đông, sau đó quay về Bắc, nhập với sông Cam Lộ tại ngã ba Dã Độ rồi lại quay về Đông, đổ ra cửa Việt Yên.
Không chỉ trong quá khứ mà ngay cả bây giờ, sông Thạch Hãn vẫn là tuyến giao thông thủy quan trọng của tỉnh Quảng Trị. Sông Thạch Hãn là nơi diễn ra những trận chiến khốc liệt trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Dòng sông mang sứ mệnh lịch sử đó chứa đựng bao nhiêu máu và xương của những chiến sĩ hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc. Ôi Việt Nam!
Để tưởng nhớ hàng nghìn liệt sĩ anh dũng đã hy sinh trên dòng sông Thạch Hãn, vào các dịp lễ, tết, tại nhà hành lễ – bến thả hoa hai bờ Nam – Bắc sông Thạch Hãn, nhân dân thường thả hoa đăng để tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ. Lễ hội “Đêm hoa đăng” được tổ chức vào ngày 14 âm lịch hàng tháng thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa để tôn vinh và ghi nhớ công ơn của những thế hệ cha anh đi trước đã hy sinh anh dũng.
Một đêm ở Quảng Trị, một đêm Thành Cổ, một đêm Thạch Hãn, tôi lại đọc lại bức thư của bác tôi trong chiếc điện thoại, nó như mơ hồ, như người đang ở ẩn nơi nào đó. Mây bạc, dòng sông nhấp nhô, tường thành huyền bí, hoa đăng tươi cười. Tôi nhìn thấy đoàn quân đi ngang, tiếng trống vang lên, trăng lồng trên cổng, tường gạch rêu mốc, nhìn lên Thành Cổ, mê man, mê man…
Hồ Huy


7. NGÀY 27 THÁNG 7, QUẢNG TRỊ - HỒI ỨC MỘT KỶ NIỆM VĨ ĐẠI.
Quảng Trị, vùng đất huyền bí, từng là địa danh đẹp như thần tiên trong lòng miền Trung, nằm dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ và hướng về biển Đông bao la. Hai con sông lịch sử, Bến Hải và Thạch Hãn, gắn liền với huyền thoại và chiến sử Việt Nam.
Bến Hải và cầu Hiền Lương, dòng sông Gianh đã chứng kiến những cảm xúc đau thương trong cuộc chiến Trịnh-Nguyễn cách đây 4,5 thế kỷ. Sông giữ vai trò biên giới 20 năm, nơi tình yêu gặp gỡ sau bao ngày chia cắt.
Thạch Hãn, dòng sông huyền thoại, té nước từ những giọt mồ hôi của những người con Quảng Trị chống chọi với gian khổ. Nơi Bến Nhan Biều, dấu vết của những cuộc trao đổi tù binh Việt-Mỹ, ký ức về những chiến công anh hùng của Đặc công thủy.
Năm 1954, sau Hiệp định Genève, vĩ tuyến 17, Bến Hải và cầu Hiền Lương trở thành biên giới chia cắt miền Nam và miền Bắc. Quảng Trị, vùng giới tuyến đẫm máu, nơi mà bom Mỹ rơi xuống như mưa. Đây là danh tiếng của Việt Nam, là niềm tự hào về chiến thắng trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Con đường Hồ Chí Minh, bên dòng sông Đakrông, Thành cổ Quảng Trị với 81 ngày đêm giữ thành quậy máu, chiến thắng Khe Sanh, Cồn Tiên, Dốc Miếu, những nơi đánh dấu chiến lược, chiến thuật đánh bại Mỹ.
Ngày nay, Quảng Trị là điểm đến của các tour du lịch quốc tế. Tour DMZ, hành trình qua những vùng phi quân sự, là sự sám hối của cựu chiến binh Mỹ và con cháu họ. Là cuộc tìm về di tích lịch sử của người Việt, để tôn vinh quá khứ hào hùng và hướng tới tương lai hòa bình.
Khe Sanh, một thung lũng xinh đẹp, đã từng là chiến trường không chịu khuất phục. Bây giờ là điểm tham quan du lịch, nhưng ít người biết rằng đây là nơi chiến thắng quân và dân ta đã làm đổ bại chiến lược của Mỹ.
Bảo tàng Tà Cơn và những dòng lưu bút của cựu chiến binh là những dấu vết còn sót lại. Nhưng lời của Trung tướng Nguyễn Hồng Phong, Chính ủy Sư 308, là điều làm xúc động hơn cả. “Không bao giờ chúng tôi có thể quên họ. Họ vẫn sống cùng sư đòan, tên tuổi họ mãi mãi trong danh sách sư đòan anh hùng”.
Đường 9-Khe Sanh, đi qua các làng dân tộc, dòng sông Đakrông huyền bí, là hành trình qua con đường Hồ Chí Minh gần như nguyên vẹn, ẩn mình trong rừng đại ngàn.
Đường mòn Hồ Chí Minh, khai mở từ năm 1959, với chiều dài 16.000km, là động mạch của chiến trường Miền Nam. Con đường chứng kiến những gian nan, vượt qua hàng ngàn km đường ngụy trang, làm sáng tạo để vượt qua ngày ban, đêm đen. Số lượng bom rơi xuống không đếm xuể, nhưng chiến sĩ và nhân dân đã nối đường này bằng máu và hồn lửa.
Ngày nay, Quảng Trị là biểu tượng giao thoa giữa quá khứ hào hùng và tương lai tươi sáng. Đại lộ Hồ Chí Minh thế kỷ 21 và con đường xuyên Á, kết nối quá khứ và hiện tại, là bằng chứng cho sự sống mãi của lịch sử.
Thành cổ Quảng Trị, kiến trúc vững chãi từ thời Nguyễn Gia Long, đã trải qua nhiều biến cố trong lịch sử. Mùa hè năm 1972, nơi đây là bức tranh đẫm máu sau 81 ngày đêm chiến đấu quyết liệt của quân dân Quảng Trị chống lại chiến dịch tái chiếm của chính quyền Sài Gòn.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nơi yên nghỉ của 10.327 liệt sĩ, là hình ảnh tráng lệ giữa bản anh hùng. Trên đỉnh đồi xanh, họ nằm yên, chỉ để lại niềm tiếc thương ở những người sống hôm nay.
Quảng Trị, bản anh hùng bất khuất, vẫn rực sáng như một câu chuyện hào hùng của dân tộc Việt Nam. Hồi tưởng vào những ngày tháng 7, khi mặt trời rực cháy, những hồn linh người anh hùng vẫn bay lên, hòa quyện thành những bản hát vĩ đại về Trường Sơn, về một thời huyền thoại.
Hoài Hương


8. Những Người Anh Hùng Nghỉ Xuống Đất, Dâng Sinh Linh Cho Tổ Quốc
Sử sách vinh danh lòng dũng cảm của dân tộc Việt Nam, nơi mà quyết tâm và chiến thắng được thể hiện bằng lòng hy sinh, bảo vệ Tổ quốc của những Anh hùng liệt sỹ, không chỉ là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc mà còn là nguồn động viên cho thế hệ trẻ trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Kỷ niệm 72 năm ngày thương binh liệt sỹ (27- 7- 1946 – 27- 7- 2019), chúng tôi, đồng đội, đã có dịp tới Thành cổ Quảng Trị, Nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang đường 9… đây là những địa điểm chứa đựng hàng ngàn anh hùng liệt sỹ, những người đã dũng cảm hy sinh để bảo vệ Tổ Quốc, đem lại cuộc sống tự do và độc lập cho dân tộc. Chúng tôi là thế hệ sinh ra trong những năm tháng đầy biến cố, những ngày 'Hoa lửa' mà nhìn thấy đồng đội ngã xuống là niềm đau lớn, là sự mất mát của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng. Khi chúng tôi đến Thành cổ Quảng Trị, nhìn sông Thạch Hãn trôi qua, hồn quê hương trong chúng tôi không ngừng xao động. Qua hơn 40 năm, dù đất nước đã giành lại độc lập, nhưng máu và hồn của hàng vạn chiến sĩ vẫn còn đọng mãi tại đây. Có những thanh niên trẻ, rời giảng đường đại học, đến Thành Cổ Quảng Trị, họ chiến đấu và hy sinh, máu thịt họ hòa quyện với đất, cây cỏ nơi đây. Cựu chiến binh Lê Bá Dương, khi đứng trước sông Thạch Hãn, thầm gọi với đò xuôi ngược trên sông: 'Đò xuôi Thạch Hãn... ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm...'. Nguyễn Anh Trí, khi trở lại Quảng Trị, nói về những đồng đội đã rơi xuống, thấy lòng xúc động: 'Cỏ xanh non tơ, cỏ xanh non tơ/ Xin chớ vô tình với người hi sinh'...Tự hào về thế hệ 'Quyết tử để, Tổ quốc quyết sinh'. Rời Thành cổ Quảng Trị, chúng tôi đến Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, mỗi chân bước đến đây, mọi cám dỗ về vật chất, sự ích kỷ, bon chen đều tan biến trước sự mất mát và hy sinh lớn lao của các anh hùng liệt sỹ. Tôi muốn thắp nhang cho đồng đội, để tưởng nhớ hương hồn các anh, các chị đã ngã xuống vì độc lập, tự do, vì thống nhất Tổ quốc, vì cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của dân tộc. Trong hàng triệu anh hùng liệt sĩ, có những ngôi mộ có tên tuổi, được người thân chăm sóc, khói hương thăm viếng thường xuyên… Còn hàng nghìn ngôi mộ liệt sĩ vô danh, không biết tên tuổi, quê quán, nằm ở nghĩa trang liệt sĩ hay giữa đại ngàn Trường Sơn, giữa đại dương bao la. Tất cả họ đều là những liệt sĩ vô danh, nhưng tên tuổi và chiến công của họ đã gắn liền với tên tuổi và chiến công oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Tôi không thể thắp hương cho tất cả, vì 'Doanh trại đóng quân' rộng lớn, nhưng tôi thắp nén nhang tâm để gửi đến tất cả các anh, các chị. Mong các anh, các chị yên nghỉ và linh hồn được siêu thoát. Sự hi sinh cao quý của các anh, các chị sẽ được dân tộc Việt Nam ghi nhớ đời đời. Tinh thần chiến đấu dũng cảm và tình yêu nước của các anh, các chị là bài học quý báu cho thế hệ trẻ nối tiếp, là nguồn động viên để họ học tập và làm theo.'
Đến Quảng Trị, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và đường 9, đứng trước bạt ngàn mộ liệt sĩ có danh và vô danh, những hàng mộ thành lối, trùng trùng điệp điệp, lòng chúng tôi trào lên cảm xúc thiêng liêng. Tâm hồn tôi được thanh lọc khỏi những vụng trộm về vật chất, danh vọng, tiền bạc, để hướng tới những giá trị cao quý nhất trong cuộc sống: 'Chân, Thiện, Mỹ'. Tôi mượn câu nói của nhà văn Nga N.OSTROVSKI để kết thúc bài viết: 'Sự sống là quý nhất của con người. Đời chỉ sống một lần, sống sao cho không hối tiếc về những năm tháng đã trải qua, không xấu hổ về quá khứ ti tiện và hèn nhát, để khi nhắm mắt xuôi tay, có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao quý nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người...'
11/07/2019
Võ Hoàng Nam.

