1. Bài tham khảo số 1 - Sự xuất sắc trong phân tích văn bản
Nguyễn Trãi, danh nhân vĩ đại của dân tộc, không chỉ là nhà chính trị, quân sự xuất sắc mà còn là một nhà văn nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi tiếng 'Bình Ngô đại cáo' là biểu tượng vĩ cảnh, tuyên ngôn vững vàng về độc lập và vị thế của dân tộc. Nhan đề 'Bình Ngô đại cáo' đã khắc sâu tâm hồn và suy nghĩ của chúng ta về lịch sử hào hùng. Bài văn phân tích đoạn 1 của bài thơ này của Nguyễn Trãi không chỉ tận dụng tư tưởng nhân nghĩa mà còn thể hiện lòng yêu nước, tự hào về lịch sử, và sự kiện hùng hồn của dân tộc.
Đoạn mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một bức tranh hùng vĩ về chủ quyền Tổ quốc. Những dòng thơ đầy đặn, đanh thép của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm xuất sắc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Bình Ngô đại cáo là niềm tự hào của chúng ta về truyền thống lịch sử và văn hiến của đất nước.
Meliora sequamur - Hãy theo đuổi những điều tốt đẹp hơn!
3. Tài liệu tham khảo số 2
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là nhà vị lãnh đạo tài năng, xuất sắc trong cuộc chiến chống quân Minh, mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước. Ông cũng là một danh nhân văn chương với nhiều tác phẩm lớn bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, Đại cáo bình Ngô được xem là di sản văn hóa bất tử, là bản tuyên ngôn mạnh mẽ về độc lập và vị thế của dân tộc.
Nguyễn Trãi tầm nhìn sáng tạo khi khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, chủ đạo bởi việc bảo vệ dân làm gốc, là sức mạnh cơ bản của quốc gia. Tình yên cho dân như chìm đắm trong những giây phút hạnh phúc, tạo nên nền ổn định và phát triển cho đất nước. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không chỉ là đạo đức mà còn là lý tưởng xã hội, điều mà Đại cáo bình Ngô đã thể hiện rõ nhất.
Trong tư duy của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa không chỉ là ý muốn tốt lành mà còn là sự bảo vệ chủ quyền, độc lập quốc gia. Ông khẳng định tư tưởng này bằng việc so sánh giữa Đại Việt và Trung Quốc, từ văn hiến, lịch sử, đến phong tục tập quán và nhân tài. Qua đó, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật độc lập và tư tôn dân tộc.
Đại cáo bình Ngô không chỉ là một tác phẩm văn chương lớn mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Bằng những chiến công vang dội của dân tộc, từ Lưu Cung đến Triệu Tiết, từ Cửa Hàm Tử đến Sông Bạch Đằng, Nguyễn Trãi đã góp phần xây dựng hình ảnh mạnh mẽ về quốc gia Đại Việt, nơi mà tư tưởng chiến thắng gian nan, chính nghĩa luôn dẫn đầu.
Qua bài cáo, Nguyễn Trãi đã kết nối lịch sử, văn hiến và nhân tài, tạo nên một bức tranh đẹp về đất nước Việt Nam. Đại cáo bình Ngô không chỉ là tác phẩm văn chương, mà còn là niềm tự hào, là nguồn động viên không ngừng cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Đại cáo bình Ngô, một tuyên ngôn của lòng yêu nước, là bản hòa âm cao quý, không ngừng lan tỏa trên bản đồ lịch sử với những giá trị vô song.
3. Tài liệu tham khảo số 2
Từ thuở xưa tới nay, ngoài bản Tuyên bố Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự độc lập, chủ quyền lãnh thổ cho đất nước, chúng ta còn có hai tác phẩm văn hùng vĩ khác được coi như hai tuyên bố độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, trong bối cảnh khác nhau, với cái nhìn khác nhau, nhưng ở mỗi tuyên bố đó, chúng ta thấy những giá trị tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu Nam quốc sơn hà đã thể hiện chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản Tuyên bố Độc lập của Hồ Chí Minh lại là sự nhấn mạnh về quyền lực lớn lao của con người, trong khi Bình Ngô đại cáo lại tập trung vào tư tưởng phải chăm sóc cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rõ trong đoạn 1 của tác phẩm.
Tác giả định nghĩa “nhân nghĩa' không chỉ là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau của con người mà còn nâng cao nó thành một ý nghĩa sâu sắc và rộng lớn hơn, “việc nhân nghĩa” ở đây là hành động vì nhân dân, mong muốn nhân dân yên bình, an ổn, thịnh vượng, hạnh phúc, ấm no. Việc nhân nghĩa là phải lo lắng cho dân, cho đất nước, phải hành động vì lợi ích của nhân dân, đặt dân làm trung tâm, hành động cũng vì dân. Do đó, để đúng với tư tưởng nhân nghĩa trong thời kỳ đó, trước hết là phải loại bỏ bạo loạn, phải đảm bảo an ninh lãnh thổ “Quân điếu phạt trước loại bỏ bạo loạn', khi lãnh thổ an ninh, không có ách thống trị của kẻ thù, nhân dân mới có thể sống yên bình, lao động, sản xuất để phát triển đất nước. Đó là một tinh thần lớn, tinh thần cao quý nhất của dân tộc, một tinh thần chính nghĩa xuất phát từ tình yêu thương và lòng trung thành đối với nhân dân Việt Nam.
Sau tư tưởng nhân nghĩa ấy, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến tốt đẹp được xây dựng từ nhiều thế hệ của con người Việt Nam:
'Như Đại Việt từ ngàn xưa
Đã được lưu danh nền văn hiến lâu đời
Từ triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần đã gìn giữ nền độc lập
Cùng với triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên tỏ vẻ đế quốc theo một hướng'
Đất nước Việt Nam có truyền thống văn hiến từ xa xưa, có phong tục, tập quán riêng, nét đẹp của truyền thống, văn hóa được người Việt Nam xây dựng từ nhiều thế hệ “Từ triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần”. Không chỉ khẳng định nền văn hiến lâu đời là nguồn tự hào mà Nguyễn Trãi còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của con người, đất nước Việt Nam với các triều đại phương Bắc “Cùng với triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên tỏ vẻ đế quốc theo một hướng.
Truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên quyết của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê có thể sánh ngang với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt mặc dù nhỏ bé về lãnh thổ nhưng tinh thần không nhỏ, vẫn giữ vững độc lập, lãnh thổ, mạnh mẽ, không chấp nhận sự thống trị của bất kỳ quốc gia nào khác, lòng trung thành của Đại Việt mạnh mẽ, rộng lớn không ngừng. Đất nước Việt Nam cũng có những danh nhân xuất chúng, vang danh trong sử sách, những tài năng xuất sắc về chiến thuật, văn chương, võ thuật. Những yếu tố đó đã đóng góp vào việc xây dựng một Đại Việt hùng mạnh, luôn chiến thắng trên mọi trận địa:
“Lưu Cung tham chiến phải thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải hy sinh;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng đánh bại quân Ô Mã
Quá khứ đã được xem xét, có chứng cứ chính xác'
Đối mặt với sự xâm lăng của kẻ thù, tinh thần chiến đấu của Đại Việt mạnh mẽ, kiên quyết, qua những chiến công lẫy lừng, oanh liệt được Nguyễn Trãi mô tả thể hiện những cảm xúc tự hào. Những kẻ kiêu căng, tự phụ, làm những điều phi nghĩa cuối cùng cũng phải chấp nhận thất bại, từ Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, … tất cả đều phải đối diện với những thất bại đắng ngắt. Thông qua những câu thơ này, Nguyễn Trãi cũng thể hiện niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào sức mạnh của chính nghĩa trước những hành động bạo tàn, thiếu nhân đạo của kẻ thù. Cuối cùng, chính nghĩa luôn là nguồn sáng tạo cao đẹp, chiếu sáng con đường đấu tranh của dân tộc.
Đoạn thơ dù ngắn gọn nhưng không chỉ thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa sáng tạo mà còn khẳng định nền độc lập, tổng kết những chiến công hùng vĩ của dân tộc. Ngôn ngữ giàu cảm xúc, tứ thơ hùng vĩ, mạnh mẽ cùng trái tim lớn vì dân vì nước của Nguyễn Trãi đã tạo ra một kiệt tác văn học xuất sắc, trở thành một tuyên bố độc lập bất hủ của dân tộc
4. Bài tham khảo số 5
Trong Nho giáo, khái niệm về nhân nghĩa luôn là một phần tích cực, thể hiện lòng hi sinh, tình thương và sự đùm bọc giữa con người. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi đã đưa ra một định nghĩa mới về 'nhân nghĩa'. Đối với ông, 'nhân nghĩa' không chỉ là khái niệm mà còn là hành động, là việc yêu quý nhân dân, đặt hạnh phúc của họ lên hàng đầu và chiến đấu vì mục tiêu đó.
Trọng tâm của nhân nghĩa là an ổn cho nhân dân
Trước bạo lực, phải loại bỏ đầu tiên
Điều này là một mục tiêu cao cả: Chiến đấu vì nhân dân. Với Nguyễn Trãi, 'nhân nghĩa' không chỉ là khái niệm, mà còn là sự biến nó thành hành động, thành 'việc nhân nghĩa'.
Mục tiêu cụ thể là giải phóng đất nước, giúp nhân dân thoát khỏi những khổ cực, không phải chịu đựng tình trạng làm nô lệ và đe dọa bị tiêu diệt.
Sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định đất nước với những đặc điểm rất độc lập: 'Như nước Đại Việt ta từ xưa' và 'Vốn xưng nền văn hiến đã lâu'. Quốc gia này không chỉ độc lập, có một truyền thống văn hiến lâu đời mà còn giữ vững bản sắc văn hóa riêng, không giống bất kỳ quốc gia nào khác. Cùng với đó, qua hàng thế kỷ, nó vẫn tồn tại với lòng tự hào và kiêu hãnh bên cạnh các triều đại Trung Hoa.
'Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương'
Đúng vậy, Đại Việt đã bền vững như vậy qua bao đời. Dù chỉ là một quốc gia nhỏ, nhưng nó dám xưng đế như bất kỳ ai, quyết không chấp nhận làm tớ dưới chân của kẻ khác và vẫn là quốc gia đầy nhân nghĩa.
Cuối cùng, Nguyễn Trãi tự hào khi nhắc lại những chiến công oanh liệt của các anh hùng nước Đại Việt. Ông như muốn chế ngự những kẻ từ phương Bắc - những kẻ xem thường nước ta như một phần nhỏ của họ, những kẻ thích tự cao tự đại và thậm chí muốn xâm lược nước Nam – những kẻ luôn thất bại mỗi khi đối đầu với nước nhỏ bé này:
Lưu Cung tham chiến nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải hy sinh;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng đánh bại quân Ô Mã
Việc xưa được xác minh, chứng cứ vẫn còn lưu lại.
Phần này của bài cáo là lời khẳng định vô cùng tự hào và thông thái về đất nước: Một đất nước có nhân nghĩa, với nền văn hiến lâu đời và nhờ 'nhân nghĩa' làm nguyên tắc sống nên có được nền văn hiến lâu đời như vậy, đã đánh bại được kẻ xâm lược phương Bắc, những kẻ thiếu nhân nghĩa. Thêm vào đó, qua phần này của bài cáo, chúng ta cảm nhận được tình yêu quê hương của Nguyễn Trãi: Ông tự hào vô cùng về vùng đất này và đã thể hiện tình yêu nước một cách mạnh mẽ. Tấm lòng đó chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo thời gian.
5. Tham khảo số 4
“Độc ác thay, Nam Sơn trúc không kể hết tội
Bẩn thay, Đông Hải không làm sạch mùi”
Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa tại rừng Lam Sơn - Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu kiên cường, quân ta đã đánh bại giặc Minh, đem lại độc lập, tự do cho đất nước và nhân dân.
Xuân 1428, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết 10 năm kháng chiến, tuyên bố Đại Việt bước vào kỷ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi cao quý tư tưởng nhân nghĩa, khen ngợi văn hiến rực rỡ của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, hướng về nhân dân đang chịu bức bách. Thương dân, trừ bạo, đánh ác nhân, là việc nhân nghĩa.
Nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là một tư tưởng cao đẹp: đánh giặc, cứu nước, dành tự do, hạnh phúc, bình an cho nhân dân. Nhân nghĩa là sức mạnh để đánh bại quân “cuồng Minh”.
“Mang đại nghĩa để thắng ác tàn
Sử dụng tâm hồn để thay thế sức mạnh bạo lực”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên xây dựng văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ nói về sông núi nước Nam là “nơi ở của Nam đế”, lãnh thổ thiêng liêng “được xác định rõ trong sách Thiên Triều”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi từ vị trí cao thời đại “Bình Ngô” nhìn nhận sâu rộng và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ xưa
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cùng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu có sự thay đổi nhưng hào kiệt đời nào cũng có”.
Nước Đại Việt không chỉ “điên đảo trước mọi kế sách” mà còn đáng tự hào. Có văn hiến lâu đời, có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, có phong tục truyền thống, có độc lập vượt qua nhiều triều đại “mỗi phương có một vị vua”, có nhân tài kiệt xuất.
Những yếu tố này tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh để đối mặt với mọi âm mưu xâm lược, tạo ra những chiến công rực rỡ.
“Lưu Cung tham chiến nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải hy sinh
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Giọng văn hùng biện, lẽ lẽ sắc bén và lối diễn đạt uyển chuyển đã làm nổi bật giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, ngôn từ “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
6. Tham khảo số 7
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, khi nhắc đến những nhà văn chính luận tài năng, không thể không kể đến tên tuổi Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận xuất sắc, tác giả của những tác phẩm đình đám như 'Quân trung từ mệnh tập' và đặc biệt là 'Bình Ngô đại cáo'. Những tác phẩm này không chỉ phản ánh lòng yêu nước, thương dân mà còn chứng minh tài năng văn chương của ông.
Ngay từ câu đầu tiên của bài cáo, Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa:
'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo'.
Nhân nghĩa là lòng yêu thương con người, là hành động vì lợi ích của nhân dân, của cộng đồng. Đồng thời, nhân nghĩa còn là sự tôn trọng lẽ phải, bảo vệ lẽ phải. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, với Nguyễn Trãi, 'nhân nghĩa' là 'yên dân', 'trừ bạo', đặt cuộc sống và sự no ấm của nhân dân lên hàng đầu. Quân địch phải bị trừ bỏ để bảo vệ nhân dân, tổ quốc. Tư tưởng nhân nghĩa của ông không chỉ là tình yêu nước mà còn là tinh thần chống giặc mạnh mẽ. Đây là mối quan hệ không chỉ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà còn mở rộng ra là mối quan hệ giữa các dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền đất nước, Nguyễn Trãi đưa ra những dẫn chứng thuyết phục:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có'.
Nền văn hiến đã tồn tại từ lâu đời và được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử, tạo ra diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và phong tục tập quán đặc trưng của miền Nam, miền Bắc, thể hiện đất nước là một đất nước có chủ quyền, có anh hùng luôn đóng góp, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó thể hiện lòng tự tôn, tự hào của dân tộc sâu sắc.
Nguyễn Trãi không quên kể về những chiến công lừng lẫy của nước Đại Việt:
'Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã'.
Bằng giọng văn đỉnh đạc, hùng hồn, Nguyễn Trãi khẳng định sức mạnh lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ ý chí cao quý, tự cường dân tộc. Bài cáo mở đầu đã làm rõ giá trị tư tưởng và nghệ thuật của 'Bình Ngô đại cáo', tuyên ngôn độc lập, 'thiên cổ hùng văn' của dân tộc Việt Nam.
7. Tài liệu tham khảo số 6
Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà ông còn có tài năng văn thư độc nhất vô song. Đặc biệt, trong gia tài văn học đồ sộ của thi hào, thì “Bình ngô Đại Cáo” vẫn được coi là “áng thiên cổ hùng văn” giữa dòng chảy lịch sử của thời đại. Dẫu qua bao nhiêu thế hệ vẫn lưu danh sử sách muôn đời. Đoạn thơ một trích trong “Bình ngô Đại Cáo” một lần nữa đã cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người , đồng thời cũng là sự đề cao những hành động chính nghĩa, xả thân vì lý tưởng lớn, không vì quỷ kế hèn mọn mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân giá trị truyền thống của dân tộc. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn, đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn lạc, tan tác thương vong và được sống trong yên ổn. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới có thể “chạm đến hồn muôn người”, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi không gì hơn đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ, một lòng vì nước, vì dân. Do đó, nó là chân giá trị được ngợi ca và truyền tụng bao thế hệ.
Từ những trở trăn khôn nguôi về việc nước tình dân, nhà thơ phóng chiếu cái nhìn của mình về vấn đề chủ quyền dân tộc, về độc lập, tự do của giang sơn:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Trong đoạn thơ trên, một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững chắc. Nếu như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Đồng thời, việc đặt ngang hàng nước ta với các nước phương Bắc phần nào giúp ta thấy được niềm tự hào, vẻ vang của chiều dài lịch sử dân tộc. Đặc biệt, trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia, đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Để tiếp tục khẳng định những chiến tích hào sảng của dân tộc, nhà thơ tiếp tục đưa ra một loạt dẫn chứng thép khẳng định đanh thép, người đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Thất bại đấy của quân địch không chỉ thể hiện tham vọng cuồng vọng của quân địch, phải chuốc lấy tiêu vong, mà còn phần nào thể hiện khí thế hào hùng, tầm vóc lớn lao của anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó giống như một bản bảo chứng hùng hồn, đanh thép cho những kẻ muốn lăm le xâm lược đất nước ta, rằng chúng chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Cách dùng những dẫn chứng mang tính liệt kê dồn dập phần nào giúp ta thấy được mạch khí thế oai phong, lẫm liệt, niềm tự hào vang dội của người viết bài cáo.
Đại cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc Đại Việt. Đoạn thơ một vừa mở đầu như một khúc hùng ca hân hoan, vang vọng chiến công, chiến tích lẫy lừng để đanh thép buộc tội quân giặc man rợ ở phía sau.
8. Tài liệu tham khảo số 8
Vua Lê Thánh Tông đã một lần tôn vinh: “Tâm huyết cao quý của Nguyễn Trãi”. Suốt nhiều thập kỷ, Nguyễn Trãi được tưởng nhớ như một danh nhân, nhà văn tuyệt vời của dải đất Việt Nam, là nhà tư tưởng, nhà chính trị xuất sắc của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV. Các tác phẩm của ông kết hợp tinh tế tư tưởng chính nghĩa và lòng yêu nước với lập luận sắc sảo, giọng văn hùng tráng, đầy sức thuyết phục với tư tưởng chủ trương lấy nhân dân làm trung tâm.
Một trong những tác phẩm nổi bật là Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế với hiệu thuận thiên (hợp lòng trời) và ủy Nguyễn Trãi viết bài diễn thuyết để thông báo rộng rãi cho cả dân chúng biết rằng cuộc kháng chiến chống Minh đã đạt được chiến thắng lẫy lừng, đất nước chúng ta bước vào giai đoạn xây dựng hòa bình.
Bình Ngô đại cáo là một bài diễn thuyết chính trị tổng kết súc tích về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước sâu sắc và nhận thức mới về nhân dân và dân tộc. Tại đây, Nguyễn Trãi đã tôn vinh “nhân nghĩa” như là mục tiêu cao cả nhất của cuộc đời mình. Với triết lý nhân nghĩa trong truyền thống nho giáo, ông đặt nhân nghĩa làm trọng tâm, là giáo lý tối thượng mà con người phải theo đuổi. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa không chỉ là đạo đức cá nhân hẹp hòi mà còn là một lý tưởng xã hội. Ông thậm chí đưa ra quan điểm rằng nhân nghĩa chính là “trừ bạo”, tức loại bỏ sự ác độc của quân Minh, bọn tội lỗi luôn tìm cách hành hạ nhân dân.
Trong những cuộc chiến tranh, vai trò quan trọng của nhân dân được đặc biệt nhấn mạnh. Dân mạnh, lòng dân bền thì chắc chắn sẽ đánh bại mọi tàn bạo của quân thù. Ông coi “dân” như trụ cột của quốc gia, là tài sản quý giá, là sức mạnh, là sinh khí của một quốc gia. Tư tưởng này, mặc dù giản đơn nhưng lại chứa đựng ý nghĩa sâu sắc.
Ông đã khẳng định ý nghĩa của “dân” bằng cách đưa vào “yên dân”, với ý là lấy dân làm nền tảng của xã hội, là tài sản quý báu, là sức mạnh tạo nên một quốc gia vững mạnh. Nhân nghĩa cũng là “trừ bạo”, ông nhìn nhận rằng đánh Minh không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn vì trừ bỏ sự hung ác của quân Minh, những kẻ tội lỗi luôn đe dọa và hành hạ nhân dân. Nhân nghĩa ở đây không chỉ là quan niệm đạo đức mà còn là lý tưởng xã hội và ông đã nâng cao nó lên một tầm cao mới, mở rộng ý nghĩa.
Để làm nổi bật tư duy độc lập tự chủ của dân tộc, Nguyễn Trãi sử dụng phong cách so sánh. Giữa Đại Việt và Trung Quốc, tồn tại song hành từ lâu. “Văn hiến” của nước ta được xây dựng bởi nhân dân Việt Nam, trải qua nhiều gian nan, thăng trầm và khó khăn của chiến tranh mới có được. Cương thổ, núi sông, đồng cỏ, biển cả đều được phân chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hóa ở Bắc và Nam đều có những khác biệt. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh rằng cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những đặc điểm riêng biệt không thể nhầm lẫn, và từng triều đại riêng để khẳng định chủ quyền. Qua bài thơ, ông đã đặt “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta bên cạnh “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc, làm cho thấy nếu không có lòng tự hào dân tộc mạnh mẽ thì không thể có sự so sánh tinh tế như vậy. Cuối cùng là nhân tài, con người cũng là một yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của mình.
Nguyễn Trãi cũng đã nêu rõ chiến công oanh liệt của dân tộc trong những cuộc kháng chiến. Dân tộc Việt Nam đã đánh bại những kẻ xâm lược, giữ vững tự do cho Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng của ông rất rõ ràng, cụ thể bằng ngôn từ mạnh mẽ, hùng hồn, thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Nội dung được biểu đạt thông qua những câu văn rõ ràng, lôi cuốn, chứ không phải là những lời mông lung hay chung chung. Nhân dân Việt Nam, thông qua sử sách và truyền thống, đã lưu giữ những chiến công hùng hậu, vẻ vang của mình, không thể phủ nhận, và không ai có thể thay đổi. Trong toàn bộ bài diễn thuyết Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã làm rõ lòng yêu nước, lòng yêu dân. Trước thảm cảnh mà quân đội Minh thảo phạt, ông không kìm lại được sự xót xa. Bọn giặc lợi dụng tình hình chính trị hỗn loạn, kẻ Minh kết hợp với bọn phản dân Việt, cướp bóc, xâm phạm chủ quyền dân tộc, gây ra nhiều tội ác không thể tha thứ. Nướng những người dân vô tội trên lửa, đưa trẻ con xuống biển để mò ngọc, những hình phạt đặc biệt tàn nhẫn, tình trạng thống trị mà chúng gây ra đã làm chết chóc sản xuất, đời sống nhân dân bị phá hủy tới tận cùng.
Bài diễn thuyết không chỉ đề cập đến những tội ác của quân Minh mà còn làm sáng tỏ bản chất thực tế của những kẻ xâm lược thông qua những câu văn đầy phẫn nộ và đau lòng.
Tổng kết, Bình Ngô đại cáo không chỉ là một kiệt tác đầy cảm hứng, mà còn mang đầy tính hào hùng đặc biệt. Vì vậy, đoạn trích này giữ giá trị sâu sắc với dân tộc, khẳng định tư duy yêu nước, tự hào dân tộc, và quyết tâm xây dựng, bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước.