1. Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 1
Hàn Mặc Tử tỏa sáng như một ngôi sao kỳ diệu giữa bức tranh tinh tú lạ mắt của trời Huế. Thơ của Hàn kết hợp tình yêu sâu sắc với cuộc sống đời thường, hướng về Chúa Trời bằng những lời thanh khiết và tinh tế. Bài thơ 'Đây thôn Vĩ Dạ' đã được nhiều người đánh giá cao. Tuy nhiên, mọi người đều thấy rằng bài thơ này nói về một tình yêu đơn phương, lãng mạn, trong trẻo, và huyền bí. Mặc dù vậy, không thể phủ nhận rằng Hàn Mặc Tử đã diễn đạt tốt về vẻ đẹp của xứ Huế và nghệ thuật thơ. Bài thơ chỉ có 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.
Bài thơ có thể coi là sự trách thầm, là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng từ nhân vật trữ tình, trong tâm trạng đầy nhung nhớ:
Tại sao anh không trở về thôn Vi?
Nhìn nắng treo trên cây tre mới nở,
Vườn ai quá tươi xanh như ngọc
Lá trúc che phủ như bức tranh?
Nếu mỗi mối tình đều liên quan đến một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn liền với vườn tre và cội nguồn Vĩ Dạ, là những kí ức khó quên. Mời bạn đến thăm thôn Vĩ vào một buổi sáng Vĩ Dạ, nơi yên bình bên bờ sông Hương, cách trung tâm Huế không xa, chỉ một giờ đi bộ. Thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với cây cỏ xanh mướt, những ngôi nhà nhỏ xinh, tô điểm bằng màu xanh của lá cây. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của vùng này. Vì vậy, không ngạc nhiên khi nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân... đều cảm thấy cảm hứng từ thôn Vĩ Dạ để sáng tác thơ.
Bình minh, ánh nắng mới lung linh trên những cây cầu sương đầy sương đêm. Khách từ xa sẽ thấy cây cầu đầu tiên, vì nó thường cao hơn so với cây cỏ ở dưới. Đất đai ở Vĩ Dạ màu mỡ, được con người chăm sóc cẩn thận; thực tế, cây cỏ ở đây xanh tươi và sạch sẽ như được làm mới, tỏa sáng như những cành vàng lá xanh. Câu thơ:
Lá trúc che phủ như bức tranh?
Thực sự là một ý tưởng độc đáo. 'Phủ như bức tranh' làm cho người đọc liên tưởng đến hình ảnh những người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình mạnh mẽ, đầy nam tính. Tuy nhiên, khi tưởng tượng này được đặt trong bối cảnh thơ và câu thơ: 'Lá trúc che phủ như bức tranh' thì ấn tượng nổi bật là sự hòa mình, liên kết chặt chẽ giữa con người và quê hương thôn Vĩ Dạ. Do đó, câu thơ cũng thành công trong việc mô tả một đặc điểm đáng nhớ; đẹp đẽ của thôn Vĩ: Phong cảnh tươi đẹp, tươi mới; con người hậu đậu và tràn đầy sức sống.
Tiếp theo là mạch cảm xúc của khổ thứ nhất, có vẻ như khổ thứ hai, nhà thơ có phần (lành để mô tả cảnh biển, trời xanh của Huế và cũng thể hiện hy vọng mơ hồ:
Gió theo đường mây, đám mây mềm mại,
Dòng nước buồn bã hoa bắp bay;
Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng ấy
Có mang trăng về đúng tối nay?
Nhịp điệu nhẹ nhàng, an ủi của xứ Huế được miêu tả thành công: Gió và mây trôi nhẹ nhàng; sông Hương chảy êm đềm. Hoa ngô (hoa bắp) nhẹ nhàng đung đưa theo gió. Khác biệt so với khổ thứ nhất, ở khổ thứ hai này, không gian được mô tả như trong một giấc mơ, rơi đầy ánh trăng. Nhà thơ không chỉ nhìn bằng mắt mà quan trọng hơn là 'nhìn' bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có ranh giới giữa thực tại và giấc mơ và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới giấc mơ càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là giấc mơ, nên có sự lo lắng mơ hồ:
'Chiếc thuyền nào đậu bến sông Trăng ấy
Có mang trăng về đúng tối nay?'
Thuyền trăng có nhiều thi nhân nhắc đến nhưng 'sông Trăng' có lẽ là sáng tạo của Hàn Mặc Tử. Trong những câu thơ trên, có vẻ như có sự mong đợi, hy vọng, cùng với nỗi buồn nhẹ nhàng của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự xuất sắc của một phong cách mô tả đúng bản chất của một vùng đất, mà điều quan trọng hơn nữa là: Những mô tả ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu nhẹ nhàng, tinh tế, và sâu sắc đến tận cùng. Ấn tượng về những điều nói trên sẽ được nhà thơ làm nổi bật qua khổ cuối:
Mơ về những người du khách xa xôi, người du khách xa xôi
Áo em trắng quá nên nhìn không rõ
Ở đây sương khói mờ đi hình ảnh
Người biết đến tình yêu có đậm đà không?
Đúng là Huế thường mưa nhiều, nhiều sương khói. Vì vậy, có lẽ khổ thơ này có vẻ mô tả đúng, giống như 'cây cầu', 'lá trúc' 'hoa bắp'… ở các khổ thơ trước? Sương mù trắng, và áo em cũng trắng: Do đó, nếu nhà thơ chỉ thấy bóng người (hình ảnh), thì điều này là dễ hiểu. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử là nhà thơ lãng mạn chân chính, điều quan trọng là ông đã nói với tâm hồn, gieo vào trái tim đọc giả một chút bồi hồi: Người phụ nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền bí quá; liệu tình yêu của họ có sâu sắc và bền vững, hay chỉ là mơ hồ như sương mù Huế? Ở đây, như là nhận ra rằng, Hàn Mặc Tử là người nghệ sĩ tài năng, luôn khao khát tình yêu; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu đầy đủ.
Nhà thơ phải sống một cuộc sống cô độc, đôi khi trên một chiếc thuyền nhỏ lội ngược dòng không có bến cảng, đôi khi làm việc vất vả bên dãy núi gần thành phố, và cuối cùng phải nằm nơi bệnh viện Tuy Hòa chờ đến cái chết… Chúng ta càng hiểu biết và đồng cảm với những lời trách móc, sự oan trái tưởng như vô lý từ cây bút đa tài, nhưng đồng thời cũng là bi kịch không may này. Phải yêu thương thôn Vĩ Dạ, có nghĩa là phải yêu thương xứ Huế; để hiểu rõ xứ Huế, hòa mình với xứ Huế đến độ nào, thì nhà thơ mới có thể nói về tình yêu, về xứ Huế một cách trọn vẹn và tuyệt vời như thế!


2. Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 3
Theo ông Quách Tấn, người bạn chí thân và đồng thời cũng là người hiểu khá rõ về nhà thơ Hàn Mặc Tử, thì bài thơ này, tức bài Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác vào năm 1939, ngay sau khi tác giả nhận được một bức bưu ảnh, một 'phiến phong cảnh' kèm với lời hỏi thăm sức khỏe của cô Hoàng Cúc – cố nhân, người yêu cũ của Hàn. Chính lời hỏi thăm của người con gái ấy đã khiến tứ thơ vụt sáng trong đầu thi nhân, trong lúc thi nhân đang lâm vào nghịch cảnh, thời điểm bi đát nhất của cuộc đời mình.
Bài thơ được Hàn chia thành ba đoạn, mỗi đoạn là một cung bậc cảm xúc xong đều bị chi phối bởi một sắc màu phức cảm nhất định.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Âm điệu, giọng thơ từ những vần đầu của thi phẩm là một phần vô cùng quan trọng, bởi nó sẽ quyết định âm hưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ hành trình cảm xúc của tác phẩm. Về những đoạn sau, âm hưởng, nhạc điệu của bài thơ có đa dạng, biến hóa hơn lúc đầu thế nào đi nữa thì ý thức thơ và tư duy thơ của người đọc cũng như của nhân vật trữ tình hay của tác giả vẫn bị ảnh hưởng, chi phối mạnh bởi cấu thanh ấy. Cảm xúc chính: Quá khứ sống dậy trong miền nhớ. Cảm xúc chính của nhân vật trữ tình ở đây là xao xuyến, bâng khuâng, nhớ nhung da diết.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Câu thơ lắng lại trong một nội lực phù sa xúc cảm đầy mạnh mẽ, nỗi buồn từng phá nhuốm trên từng con chữ vần thơ, mặc cảm chia lìa, dáng dấp của một nỗi sầu chia ly tan tác quyết định cái tôi của Mặc Tử, và đổ bóng xuống cảm quan không gian, nó dựng lên bối cảnh tương quan trong Đây thôn Vĩ Dạ, thiên nhiên trong thơ bị chi phối bởi tâm trạng con người, nó là một thực tại cô đơn, phiêu tán: gió bay đi, mây trôi đi, sông cũng lặng lờ buồn thiu chảy về miền xa vắng – cái hiện thực, cảnh tượng ấy ám ảnh một cái nhìn khác đời, ngang trái và trớ trêu: gió mây, hai vật thể gắn chặt ấy làm sao có thể rách rời (gió thổi mây bay, mây không thể tự nhiên mà di chuyển được, mây và gió cũng không thể đi ngược hai luồng), nếu nhìn qua lăng kính của đôi mắt không thôi, thì Hàn Mặc Tử chắc chắn không thể viết nên những vần thơ như thế, khung cảnh thiên nhiên đã được Tử ghi lại bằng rung cảm tâm hồn đầy “mặc cảm”, và, “mặc cảm ấy đã chia lìa những thứ tưởng không thể chia lìa”.
Dòng nước hồn nhiên, vô tư kia cũng trở nên buồn bã. Dòng nước ấy vừa như mang sẵn một mạch buồn vô hạn, vừa như bị chia phôi nỗi sầu từ gió, từ mây. Bức tranh sự chuyển động ấy cũng không làm khung cảnh ấy vui lên, sống động lên; tranh có hoa, song, cũng chỉ là hoa bắp –một thứ hoa vô sắc vô hương, buồn bã, vô tình. Động từ láy là một động từ “trung tính”, thế nhưng, đặt từ ngữ ấy vào bối cảnh bài thơ, sao mà buồn bã, thê thiết thế:. Hàn Mặc Tử nhìn hoa bắp chỉ cảm nhận được được sự ly biệt, phiêu tán, rời xa: gió, mây, dòng nước đã đi hết rồi, chỉ còn hoa bắp là không thể tự mình di chuyển được, cái “lay” phảng phất những cái níu giữ vu vơ, cái níu giữ vô hình. Trong hoa bắp đã in hình cuộc đời của Hàn Mặc Tử: một cuộc đời côi cút, cô đơn, một cuộc đời “bị quang ra ngoài xã hội”. Gió, mây, dòng nước đều muốn ra đi, chỉ còn trăng là lội ngược dòng, xuôi về với lòng thi nhân, chỉ còn trăng mới tìm thi nhân bầu bạn:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Một câu hỏi không hồi âm, không lời đáp, cô đơn nối tiếp cô đơn, thoáng bóng những đợi chờ khắc khoải, thuyền trăng, sông trăng đã được huyền ảo hóa, trở nên lộng lẫy và lãng mạn, trăng là vị cứu tinh, vị cứu cánh duy nhất cho nỗi sầu tê tái khắc khoải của thi nhân. ~> Nỗi buồn những vần thơ đầu đến bây giờ đã trở thành 'nỗi niềm'. Phức cảm chính trong đoạn thơ này sự tuyệt vọng, buồn thảm da diết khắc khởi bởi sự cô đơn không lối thoát vì bị giam cầm.
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà…
Hai câu thơ đầu tốc ký về cái khoảnh khắc bâng khuâng, bồng bềnh phiêu lắng trong cõi mộng, đau đáu dõi theo bóng của một ảo ảnh trên con thuyền chở trăng với khát khao mong tìm được 'chân ảnh' của kẻ thi nhân lạc loài cô đơn ham sống đang tìm về 'cõi mộng mong nhập thế'. Song, cảnh thiên tiên đẹp mấy cũng sẽ tàn, mộng nơi trần gian say lâu rồi cũng tỉnh, trong phút chốc, mọi cá thể hư ảo đều hóa ra thành mây khói: ánh nắng của những khổ thơ trước đã tan, sắc trăng đã tắt, nhân ảnh hư mờ, cả đoạn thơ bao phủ bởi một màu trắng gắt đến lặng cả những vần thơ. Thi nhân bị đẩy lại nơi trần thế đầy nghịch cảnh. Chữ quá như nghẹn ngào, như xót xa tiếc nuối trong nỗi đau của mặc cảm chia lìa. Có thể phân tích thêm ý nghĩa của sắc trắng trong những câu thơ cuối. Gam trắng là gam màu quyền lực nhất trong thơ văn Hàn Mặc Tử, nó mang một ý nghĩa riêng.
Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Đi tìm sự đồng cảm, đồng điệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mù mịt. Cho nên, đắm say rồi nguội lạnh, bằng gió, mộng rồi lại tỉnh. Đó là logic vận động tâm trạng của một cái tôi ham sống, yêu đời trong Đây thôn Vĩ Dạ. Cảnh lúc như gần, lúc như xa, lúc rất thực, càng về sau càng trở nên hư ảo, huyền hồ. Sắc điệu tiếng nói trữ tình lúc âm u, lúc chói lạnh. Cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ cũng chính là tiếng lòng khắc khoải của Hàn Mặc Tử vừa đẹp nhưng lại đau thắt tới tận cùng.


3. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 2
“Mở cửa đón trăng, trăng hé mặt,
Đóng cửa bật nến, nến rơi châu…”
Có bao giờ bạn say mê trăng như Hàn Mặc Tử chưa? “Trăng lung linh trên cành liễu - Chờ gió đông về để lả lơi…” (“Bẽn lẽn”) – Thi sĩ nói đến thuyền trăng, sông trăng. Một bức tranh trời trăng, huyền bí. Thơ Hàn Mặc Tử ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ đặc biệt của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi (1912-1940), ông để lại cho thơ dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.
“Đây thôn Vĩ Dạ” trích từ tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, về con người xứ Huế, đặc biệt là các cô gái dễ thương, duyên dáng, đáng yêu – tình yêu thơ mộng nổi loạn, lấp lánh trong ánh sáng huyền bí. Bài thơ trình bày một lòng niềm, một khao khát hạnh phúc của thi sĩ lãng mạn, với nhiều mối quan hệ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu “dịu dàng” như lời chào đón, vừa chúc mừng lễ hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người yêu biết bao nhớ đợi. Giọng thơ êm dịu, thủy chung và tình cảm: “Sao anh không về thăm thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa hiện rõ trong vần thơ đẹp mang niềm nhớ. Bao ký ức sống dậy trong một tâm hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh vườn tược và con người xứ Huế mơ mộng:
“Ngắm nắng hàng cau, nắng vừa mọc
Vườn ai tươi tốt, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang khuôn mặt chữ điền?”
Cảnh được mô tả là một sáng bình minh đẹp. Từ xa, ngưỡng mộ nhìn những cành cau, dải cau lấp lánh dưới ánh nắng mới, “nắng mới mọc” rực rỡ. Hàng cau như chào đón người thân thương sau những ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ thời xa xưa. Không thể quên màu xanh lá cây ở đây. Nhà thơ trầm trồ khi đứng trước một biểu tượng xanh tươi của vườn tược thôn Vĩ Dạ: “vườn ai tươi tốt xanh như ngọc”. Sương đêm ẩm ướt cây cỏ hoa lá. Màu xanh rực rỡ, tươi tắn và non tơ tỏa sáng dưới ánh mai hồng, trông “tươi tốt xanh như ngọc” như viên ngọc bích. Đất đỏ mỡ, khí hậu ấm áp, con người chăm chỉ chăm sóc để có được “tươi tốt xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên sống động, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên). Hai chữ “vườn ai” đã tạo ra nhiều điều kỳ diệu và sâu sắc. Câu thứ tư mô tả cô gái với bụi trúc vườn tươi tắn, dồi dào. “Lá trúc che ngang” là một đường nét tuyệt vời vẽ nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, nhẹ nhàng, kín đáo, dịu dàng đáng yêu. Hàn Mặc Tử một lần nữa nhắc đến trước và cô gái. Bụi trúc như tỏa bóng xanh mát làm bóng mát cho mối tình đẹp đang nảy nở:
“Lặng thầm với ai ngồi dưới trúc
Nghe hiểu nhị ý và thơ dại” (“Mùa xuân chín”)
Câu thứ ba trong khổ thơ đầu mô tả cây cau, ánh nắng, vườn, trúc và cô gái với một gam màu thoáng nhẹ, mơ mộng. Nổi bật nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc mặt chữ điền) Cảnh và người ở Vĩ Dạ hiện ra như trong một bức tranh hòa quyện, tinh tế. Gió mây trôi như tình yêu của nhà thơ, gần như ở gần mà cũng xa vời, khó chạm tới. Dòng Hương Giang êm đềm lững lờ, làm cho tâm hồn thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều cảm xúc, bao la và huyền bí. Bông hoa bắp nheo nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu đặc trưng của sông Hương, núi Ngự được mô tả rất tinh tế. Các điệp ngữ dịu dàng gợi lên nhiều hình ảnh mơ mộng:
“Gió theo đường gió, mây qua đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp nheo”.
Hai câu sau nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi bản thân khi nhìn thấy hoặc nhớ đến con thuyền mộng đậu bến sông trăng. Sông Hương quê anh trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã tạo nên vần thơ đặc biệt:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thuyền em hay “thuyền ai” vừa quen vừa xa lạ. Tâm hồn nhà thơ xúc động khi nhìn thấy sông trăng và chiếc thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân thuộc, vừa xa lạ. Tình cảm thoáng chút hy vọng nhưng dường như phai nhạt và mờ nhạt dưới lớp sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình tuyệt vời. Cảnh và người, mơ và thực, say mê và bâng khuâng, sự ngạc nhiên và thẫn thờ, tất cả hòa quyện trong ba khổ thơ tuyệt vời, những câu từ chữ ngày thoảng nhẹ nhàng nhưng đầy ẩn ý.Cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ bằng sự thấu hiểu, chúng ta có thể thấy đây là một bài thơ tình tuyệt vời. Màu xanh như ngọc của vườn ai, chiếc thuyền ai trên sông trăng, và chiếc áo trắng của em như làm hồn ta đi lang thang trong sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa xăm:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà?”


4. Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 5
Hàn Mặc Tử là một trong những những đỉnh cao của phong trào thơ mới. Ông qua đời ở tuổi 28 do bệnh phong và những năm cuối đời phải cách li với mọi người, cô đơn một mình. Vì vậy, những nỗi đau là nguồn cơn cho những cơn sáng tạo đỉnh cao của ông. Khi còn sống, ông chỉ có một tập thơ là Gái quê, sau này có thêm những tập khác như Thơ điên, Xuân như ý.. Đây Thôn Vĩ Dạ được trích từ tập Thơ Điên, bài thơ không chỉ đơn thuần mà là vịnh người, vịnh cảnh, mà còn là tâm trạng của nhà thơ được gửi gắm vào từng con chữ.
Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác khi Hàn Mặc Tử đang bị bệnh nặng và phải cách li ở trại phong Tuy Hòa. Trước kia, khi còn làm ở sở Đạc Điền Bình Định, Hàn Mặc Tử phải lòng cô con gái chủ xưởng, Hoàng Thị Kim Cúc. Sau này, khi Hoàng Cúc biết tin ông mắc bệnh phong đã gửi tới một bức bưu thiếp có phong cảnh xứ Huế, dòng sông Hương cùng lời hỏi thăm động viên. Điều này khiến Hàn Mặc Tử bị xúc động mạnh và lập sức sáng tác bài thơ này. Vì vậy, bài thơ là nỗi nhớ, là hoài niệm của tác giả về xứ Huế, nơi có cảnh vật, có người mình yêu của một kẻ si tình. Là nỗi đau, niềm mặc cảm của một kẻ sắp chết. Và cũng là sự khát khao hạnh phúc của một tình yêu đời da diết.
Nhà thơ mở đầu tác phẩm cùng một câu hỏi tu từ "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Thoạt nhìn, người ta sẽ nhầm lẫn đây là lời trách móc nhẹ nhàng, của một cô gái xứ Huế, như mời gọi chàng trai trở về Vĩ Dạ. Trở về nơi chốn thân thương mà người hằng yêu. Nhưng nếu chỉ đơn giản như vậy thì thơ Hàn Mặc Tử đã không thể sống mãi trong suốt những thập kỉ qua. Câu hỏi cùng từ để hỏi "sao" được đặt ở đầu câu khiến nhịp thở dồn dập, cảm xúc dồn nén, giục giã. Rất có thể đây là lời phân thân của chính nhà thơ để tự hỏi chính mình. Từ "anh" gợi cảm giác gần gũi, như một người con xa xứ tràn ngập tình yêu với Vĩ Dạ, nhưng lại "không về". Trọng âm của câu thơ như bị đổ dồn vào hi từ này. Tại sao lại "không về", khi mà Vĩ Dạ vốn là nơi chốn thân thuộc mà Hàn Mặc Tử yêu thương, nơi có người con gái mà ông trao trọn trái tim? Tác giả sử dụng từ "không", thay vì "chưa", bởi lẽ nhà thơ không thể về. Dẫu rằng ông yêu thương chốn này, dẫu rằng không phải là không muốn về, mà là không thể về được nữa.
Hàn Mặc Tử ý thức rõ về tình cảnh bệnh tật của mình, nên không về được Huế, vả lại, ông yêu nơi đó, yêu người con gái nơi đó, nhưng làm sao có thể về, khi mà không một ai mong ngóng? Câu thơ là nỗi đau xót, bất lực của nhà thơ trước hiện thực tàn khốc, là niềm mặc cảm bị tách li khỏi thế giới, xa lánh mọi người. Nỗi đau ấy đã thấm vào thơ của tác giả khi mà ông từng coi mình như một nàng cung nữ với số phận hẩm hiu bị nhốt vào lãnh cung, nhớ thương vị vua của mình, cuộc đời tươi đẹp ngoài kia:
"Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa
Trời ở trong đây chẳng có mùa
Không có niềm trăng và ý nhạc
Có nàng cung nữ nhớ thương vua"
Chữ "không về" càng khắc sâu tình đơn phương của Hàn Mặc Tử đối với Hoàng Cúc:
"Có một dòng sông chỉ có một bờ
Phía bờ kia quay mặt
Dòng sông anh không qua được bao giờ"
Câu thơ là niềm khát khao, là niềm đau, là nỗi nhớ, là buồn tủi của nhà thơ. Và khi quá yêu một mảnh đất, nhưng lại chẳng thể quay lại, thì con người ta chỉ còn cách trở về qua những hoài niệm. Qua đó, khu vườn Vĩ Dạ hiện lên tươi mới, ngập tràn tình yêu của nhà thơ:
"Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
Trong thơ mới, ta từng gặp nhiều hình ảnh nắng đặc biệt. Như cái nắng trở chiều của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, hay "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang" trong Mùa xuân chín của chính Hàn Mặc Tử. Còn ở đây, chúng ta có "nắng hàng cau". Cau vốn là cây cao nhất trong vườn, vì thế những người khách từ xa nhìn tới, sẽ thấy câu đầu tiên. Và cũng vì thế nên cáu được hứng ánh nắng sớm đầu tiên nên "nắng hàng cau" là thứ nắng tinh khôi, trong treo, sau một đêm dài cây cau như được tắm nắng, hong khô những giọt sương đêm còn vương đọng. Không chỉ vậy, cau vốn mọc thẳng đứng, lại có đốt nên nhìn từ xa, vào sớm mai, cau trở thành một chiếc thước kẻ khổng lồ, đo mực nắng. Đó không chỉ là hình ảnh của VĨ Dạ, của xứ Huế. Mà còn là hình ảnh thân thuộc ở các làng quê Việt Nam. Một hình ảnh bình dị, dân dã, gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Sau khi hướng lên cao cùng nắng hàng cau, nhà thơ lại hướng người đọc xuống thấp hơn để nhìn ngắm khu vườn.
Cùng biện pháp so sánh, khu vườn như tràn ngập sắc xanh tươi mơn mởn. Bởi "ngọc" không chỉ đơn thuần là có màu xanh, mà còn gợi màu xanh ánh từ bên trong, lại lan tỏa được màu xanh. Vì thế, khu vườn ngập trong màu xanh nõn nà, tràn đầy nhựa sống cùng tính từ cực tả "quá" đã tuyệt đối hóa vẻ đẹp khu vườn. Nhưng cái gì càng đẹp, lại càng khó nắm bắt, càng phi thường, lại càng xa vời. Cảnh đẹp Vĩ Dạ đẹp, nhưng lại là "vườn ai" khiến cảnh đẹp ấy bỗng trở nên vô định, vô chủ. Bởi "ai" ở đây là đại từ phiếm chỉ, ý để hỏi khu vườn đẹp tuyệt trần ấy là của ai? Chính nhà thơ cũng không rõ. Cảnh mờ đi, chẳng còn là cảnh thực. Ông lấy đi một chút rõ ràng để thêm nhiều phần mơ mộng. Mà làm sao có thể rõ ràng khi mà mọi thứ chỉ còn là hồi ức của nhà thơ? Cảnh dẫu đẹp tới đâu giờ đây cũng đã thuộc một thế giới khác, một thời gian khác, nơi mà nhà thơ không còn thuộc về. Sau cùng, bức tranh thiên nhiên có xuất hiện hình ảnh con người: "Lá trúc chen ngang mặt chữ điền". Không rõ đây là gương mặt của người con gái, hay con trái, hay chính là gương mặt của Hàn Mặc Tử. Cũng có lẽ là gương mặt quen thuộc vốn hay xuất hiện nhưng ẩn mình sau thiên nhiên trong thơ ông. Các ý kiến chưa ngã ngũ, nhưng hình ảnh gợi ta nhớ đến câu ca dao xứ Huế thân thuộc
"Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung"
Khuôn mặt chữ điền vốn gợi lên sự chung thủy, đôn hậu, chất phác của con người, lại ẩn hiện sau thiên nhiên đầy thi vị, hài hòa gợi nét đẹp con người xứ Huế. Khổ thơ đầu không chỉ là tả cảnh thiên nhiên xứ Huế, mà còn gửi vào đó tâm trạng của nhà thơ. Cảnh nơi đây đẹp tới thế, yêu nơi này tới thế, nhưng Hàn Mặc Tử không thể trở về nữa. Khổ thơ đầu là nỗi nhớ nơi chốn thân thương, cũng như sự bất lực không thể quay về của nhà thơ. Tới khổ thơ sau, có sự thay đổi về cả cảnh lẫn tâm trạng nhà thơ. Cảnh không còn non trẻ, tươi mới đầy sức sống nữa, cảnh đều thấm đượm một nỗi buồn thân phận.
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Gió và mây vốn gắn liền với nhau, gió thổi mây bay. Nhưng giờ đây, nhà thơ lại để hai sự vật chia lìa, chia cắt, trái với quy luật thông thường. Nếu Huy Cận đã viết về cuộc chia li của thuyền và nước và để lại nỗi sầu trăm ngả, thì sự phiêu tán này của Hàn Mặc Tử để lại nỗi buồn chia cắt. Nỗi buồn ấy thấm đượm lên cả dòng sông ngoài kia, khiến nó "buồn thiu". Cùng biện pháp nhân hóa, dòng nước như không muốn chảy, trì trệ, để mong ngừng trôi như được chảy từ vạn cổ. Cảnh ngoài kia, có lẽ chẳng còn là cảnh ngoài kia, mà đã là cảnh ở trong lòng. Bởi hơn ai hết, nhà thơ hiểu rõ nỗi sầu biệt li. Mọi thứ đề cứ phiêu tán đi, chỉ còn lại "hoa bắp lay". Là thứ hoa bắp vô hồn, uể oải, nhợt nhạt, chỉ chuyển động khẽ khàng "lay". Cái lay đó đã lay cả vào lòng người đọc, để ta nhớ tới câu ca dao xứ Huế:
"Ai về giồng dứa qua chuông
Gió lay bông sợi bỏ buồn cho em"
Hay trong bài thơ "Bờ sông vẫn gió" của Trúc Nhân
"Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông thấy gió, người không thấy về"
Từ "lay" gợi nỗi buồn thân phận của nhà thơ, khi mà mọi cảnh vật đều phiêu tán đi, thì hoa bắp chỉ đành ở lại, khẽ lay chuyển. Giống như nhà thơ chẳng thể cất mình lên để ra với cuộc sống ngoài kia. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh, gợi nỗi buồn chất chứa tâm can. Và lúc này, khi chứng kiến quá nhiều li biệt, ông lại chỉ mong chờ một thứ quay trở về với mình, đó là trăng.
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Trăng vốn là hiện thân cho vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp con người. Con thuyền chở trăng là con thuyền chưa tình yêu, chứa hạnh phúc. Nhưng vẫn lại là "thuyền ai", hình ảnh nửa mơ, nửa thực, mơ mộng, nhạt nhòa. Sông trăng là hình ảnh đầy thi vị, thân quen trong thi ca, dòng sông trôi chảy giữa hai bên bờ thực và ảo, khó nắm bắt được. Đó là ánh trăng trên trời cao soi xuống sông, tạo thành sông trăng, cũng hiểu được là ánh trăng chảy khắp mặt sông. Phải chăng đó là con đường trôi chảy vào cõi mộng? Nhà thơ chờ trăng, trần đời có mấy ai say trăng được như Hàn Mặc Tử? Thơ ông luôn rợn ngợp ánh trăng sáng
"Trăng sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi"
Không chỉ với riêng Hàn Mặc Tử, mọi thi sĩ khác đều coi trăng như người bạn tri kỉ không bao giờ rời xa của mình. Vì vậy, ông đã kêu lên tha thiết ở câu cuối khổ 2 "Có chở trăng về kịp tối nay". Đó không chỉ là câu nói thông thường, nó vang lên khẩn thiết, thấm một nỗi xót xa. Cùng với từ "kịp" là khoảng thời gian hạn định "tối nay". Nhà thơ mong mỏi, bất lực, vì dường như chỉ còn tối nay thôi, đó là khoảng thời gian cuối cùng rồi. Nếu không phải tối nay, có lẽ là chẳng bao giờ được nữa. Bởi quỹ thời gian còn lại của bản thân quá ít ỏi, nên câu thơ vang lên trong sự giục giã, hối hả. Đó là nỗi mặc cảm về cuộc đời ngắn ngủi của mình, có lẽ, bản thân Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được từng phút một của cuộc đời mình cứ dần trôi đi. Mà nếu đêm nay không thể về, có lẽ mọi thứ sẽ chìm vào bóng tối. Từ đó, bộc lộ một khát khao sống mãnh liệt cùng với tư thế sống chạy đua cùng thời gian.
Như Xuân Diệu cũng từng vì quá yêu hương sắc đất trời mà chạy đua cùng thời gian, Hàn Mặc Tử cũng vậy. Ông yêu cuộc đời này, yêu Vĩ Dạ, yêu xứ Huế, yêu cuộc sống ngoài kia, "chẳng ai yêu đời hơn một kẻ sắp chết." Nhưng bởi vì sắp chết, vì quỹ thời gian dần cạn nên có cố gắng chạy đua với thời gian bao nhiêu, cũng trở nên vô vọng. Khổ hai, cảnh vật thấm đượm nỗi buồn của nhà thơ. Mọi thứ chia li, phiêu tán, nhà thơ cố níu, nhưng không thể nắm giữ bởi bản thân cuộc đời nhà thơ cũng đang đi tới hồi kết. Dẫu vậy, ta vẫn có thể thấy niềm khát khao, mong mỏi mãnh liệt được tận hưởng thêm một phút giây nữa thôi để kịp đón lấy tình yêu hạnh phúc. Cảnh vật cứ mờ dần, xa dần, là vì về đêm nên mọi thứ trở nên hư ảo, hay là qua con mắt của kẻ sắp chết, vạn vật đã trở thành một thế giới vô sắc, mộng mị, ngập ánh trăng? Từ nhớ thương, bất lực không thể trở về, nhà thơ đau xót, lo âu, và khát khao mãnh liệt được sống thêm một chút, là nỗi đau của thân phận. Tới khổ thơ cuối, ánh nắng không còn, ánh trăng cũng tắt, sau tất cả, còn lại là một cõi hư ảo nơi kẻ si tình chới với đuổi theo nhưng mãi mãi chẳng đuổi kịp.
"Mơ khách đường xa, khách đường xa"
Mơ không còn là trạng thái thực, mà đã rơi vào mộng mị, nhưng lại là "mơ khách đường xa" thể hiện niềm khát khao được gần gũi với bóng hình con người. Bởi có lẽ, thế giới thực tại Hàn Mặc Tử đã phải rời xa, ông chỉ còn cách bấu víu vào cõi hư ảo. Cuộc đời ngoài kia đang nhạt dần, chìm vào cõi mộng. "Khách" vốn đã xa lạ, khách khí, vậy mà ở đây lại là "khách đường xa", được điệp lại hai lần. Vế đầu vẫn còn từ mơ, nhưng vế sau thì đã mất, con người xa lạ ấy đi mất rồi, mờ mất rồi. Dẫu là trong mơ thì hình bóng con người xuất hiện vẫn xa lạ, mịt mù, người mơ càng gọi, càng chạy theo, người khách càng lùi xa trong sự bất lực của nhà thơ. Vậy người khách ấy là ai? Phải chăng là "em" : "Áo em trắng quá nhìn không ra"? Thơ Hàn Mặc Tử luôn chứa đựng những sắc trắng tinh khôi, thanh khiết như màu trắng rợn mình
"Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ôi! Trắng rợn mình"
Hay màu trắng trong Mùa xuân Chín "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Sắc trắng của áo được Hàn Mặc Tử ngợi ca theo cách cực tả quen thuộc, là sắc trắng khiến ông khao khát, mê say. Nhưng sắc trắng đó lại khiến người "nhìn không ra". Nhà thơ bất lực, chạy đuổi theo "em" nhưng vô vọng, cố gọi "em" nhưng em chẳng quay đầu lại. "Em" nghe sao mà thân thương, mà yêu nhớ, nhưng tại sao người cố loạng choạng bước theo, em lại cứ xa? Là em không muốn ở lại chốn này, hay là em vốn chẳng thuộc về nơi đây? Câu thơ là nỗi đau tuyệt vọng, cùng chữ "quá" khiến câu thơ run lên một nỗi xót xa cho con người cố với theo thứ chẳng thể nào chạm tới.
"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Trong làn sương khói hư vô, nhà thơ tự xác lập một thế giới riêng "ở đây". Nhưng không rõ ở đây là chốn nào, là trại phong Tuy Hòa, hay là thế giới trong kí ức thi nhân, hay là nơi mộng ảo nhà thơ đang chìm vào? Nghe sao mà chua xót, quặn thắt, nhà thơ có lẽ chẳng còn ý thức được gì nữa, ám ảnh làm sao khi mà mình đang ở nơi nào cũng không hay.
"Tôi đang ở đây hay ở đâu Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu"
Ở đây là nơi lãnh cung lạnh lẽo chỉ chứa sự cô đơn, nỗi niềm mặc cảm thân phận đã khiến Hàn Mặc Tử luôn có một khoảng cách với thế giới bên ngoài. Và trong làn sương khói thân thuộc của xứ Huế, nhưng lại trộn lẫn thực ảo, nhà thơ thốt lên một câu hỏi cứ xoáy vào lòng người đọc. Đại từ phiếm chỉ "ai" một lần nữa lại xuất hiện, nó biến niềm hoài niệm "vườn ai", niềm hoài vọng "thuyền ai" thành niềm hoài nghi "tình ai".
Câu thơ bỗng trở nên đa nghĩ, ai là hỏi cô gái hay chàng trai, là hỏi người hay hỏi ta? Và "tình ai", phải chăng là tình đời, tình người. Có thể hiểu nhà thơ băn khoăn, khắc khoải liệu sa khi bị tách li khỏi thế giới này, liệu có còn ai nhớ tới mình. Nhưng cũng có thể hiểu đó là tình yêu da diết, mãnh liệt của nhà thơ với cuộc đời ngoài kia. Liệu có ai hay dẫu bị đẩy vào lãnh cung của sự chia li đơn côi, thì thi nhân vẫn yêu đời bằng một tình yêu da diết đậm đà, chỉ mong có ai đó thấu hiểu cho tình yêu nỗi nhớ ấy. Câu hỏi chất chứa sự hoài nghi, dằn vặt, đau đớn với khát vọng khôn nguôi được giao cảm với cuộc đời. Khổ cuối là sự thăng hoa tột đỉnh của cảm xúc hoài nghi. Mạch cảm xúc ấy có sự nối mạch từ những câu hỏi xuất hiện từ khổ một, khổ hai. Bản thân tác giả đang cố tin nhưng hiện thực lại khẳng định điều ngược lại, khao khát cháy bỏng được trở về với Vĩ Dạ, với cuộc đời, nới có thiên nhiên tươi đẹp, có con thuyền chở đầy hạnh phúc, có người con gái đẹp đang chờ đợi đã trở thành nỗi tuyệt vọng.


5. Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 4
Hàn Mặc Tử, một tâm hồn thi sĩ hiếm hoi, sáng tạo trong thế giới của thơ điên. Chế Lan Viên từng tuyên bố: 'Những thứ tầm thường sẽ tan biến, chỉ còn lại Hàn Mặc Tử - nhà thơ điên độc đáo'. Ngoài thơ điên, Hàn Mặc Tử còn sở hữu những bài thơ trữ tình đằm thắm, quyến rũ. Trong đó, 'Đây thôn Vĩ Dạ' nổi bật với sự tả diễn tâm trạng của nhân vật trữ tình số 4.
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi đầy tình cảm: 'Sao anh không về chơi thôn Vĩ?', như là lời của một người con gái hỏi thương nhớ: 'Sao lâu quá anh không về Vĩ Dạ?'. Câu hỏi này mở ra một thế giới của ký ức và tình yêu thương, với Vĩ Dạ là nơi in đậm dấu chân tình cảm của tác giả.
Thơ mô tả vẻ đẹp thiên nhiên và con người thôn Vĩ với những hình ảnh tươi tắn: 'Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc. Lá trúc che ngang mặt chữ điền?'. Hàn Mặc Tử khéo léo sử dụng hình ảnh để chuyển tải tâm hồn và kỷ niệm về quê hương.
Tâm trạng của nhân vật thay đổi theo tư duy, cảm xúc và niềm nhớ thương không nguôi. Bức tranh thơ kết thúc với sự buồn bã và xa lạ, qua những hình ảnh như: 'Gió theo lối gió mây đường mây, Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay'. Nhà thơ chia lìa với thôn Vĩ, nhưng tình yêu vẫn tồn tại qua những câu hỏi cuối cùng về trăng và tình ai.
'Đây thôn Vĩ Dạ' không chỉ là một bức tranh thiên nhiên và con người, mà còn là hình ảnh của tình yêu, cô đơn và trăn trở. Hàn Mặc Tử đã để lại một tác phẩm đẹp, đong đầy cảm xúc và sự yêu thương đối với quê hương và những ký ức.


6. Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử - Số 7
Theo Chế Lan Viên: “Không ai trước, không ai sau, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chói lòa qua bầu trời Việt Nam, với đuôi sáng rực của mình.” Phong cách thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử, như giọng thơ phức tạp và bí ẩn, toả sáng tình yêu đau đớn hướng về thế giới xung quanh. Trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, nhà thơ thể hiện tình yêu thầm kín, tâm trạng bất hạnh và éo le. Tấm bưu thiếp và lời thăm hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc là nguồn cảm hứng, khơi dậy niềm đam mê với thiên nhiên và cuộc sống. Bức tranh thôn Vĩ lúc bình minh là điểm mở đầu cho tình yêu tha thiết với cảnh đẹp và kí ức.
“Sao anh không về thăm thôn Vĩ?”
Câu hỏi này như lời trách móc và mời gọi của người con gái thôn Vĩ, là lời tự vấn bản thân về ý muốn trở về quê hương. Thơ xanh của vườn cau và cảnh xanh ngọc tạo nên bức tranh tươi sáng. Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” là biểu tượng của nét đẹp dịu dàng, kín đáo. Sông trăng trong đêm tạo nên khung cảnh huyền bí, với gió mây chia lìa tạo nên bức tranh lãng mạn.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu hỏi này thể hiện sự hoảng sợ, lo lắng về sự chấm dứt, khát khao níu giữ những phút giây cuối cùng. Tâm trạng hoài nghi và mong đợi nằm trong câu hỏi tự hỏi về khả năng giao cảm với thiên nhiên và đồng loại.
Khổ thơ cuối cùng tái hiện bức tranh tâm trạng xót xa, hoài niệm về tình yêu xa vời, với áo trắng của người đối tượng và không gian sương khói nhạt nhòa, nhưng đầy nỗi đau lạc lõng.


Phân tích tâm lý nhân vật trữ tình trong tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 6
Trong dòng thơ Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đưa Hàn Mặc Tử vào phái thơ 'kì dị' cùng với Chế Lan Viên. Khi đọc tác phẩm của Hàn Mặc Tử, nhiều bài thơ thật sự độc đáo. Ông đã tạo lập cho mình 'một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái, xa lạ với thực tại'.
Tuy vậy, song song với những đoạn thơ điên loạn, nhà thơ đôi khi sáng tạo ra những hình ảnh tuyệt vời và trong trẻo, tươi mới. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là một minh chứng. Trong bài thơ, chúng ta cảm nhận được một khía cạnh rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
Có tài liệu cho biết bài thơ lấy cảm hứng từ bức ảnh về cảnh đẹp Huế cùng những lời thăm hỏi của Hoàng Cúc, người con gái thôn Vĩ Dạ xứ Huế, cũng là người mà Hàn Mặc Tử đã thầm yêu thương từ những ngày thơ ấu. Vì thế, bài thơ không chỉ hồi sinh những kí ức về Huế mộng mơ và thơ mộng mà còn thể hiện tâm trạng buồn bã, chập chờn, lãng đãng như sương mù, như khói.
Tại sao anh không trở lại thôn Vĩ?
Câu hỏi mở đầu này vừa là thắc mắc, vừa là mời gọi, trong đó chứa đựng sự ngạc nhiên và nuối tiếc. Thôn Vĩ Dạ quá đẹp, quá hấp dẫn, vì sao anh không quay về? Cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ hiện lên qua một vài đường nét, nhưng lại đầy ấn tượng. Ấn tượng ấy đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ về Huế. Cảnh vật ở đây dường như được lọc qua ý thức của nhà thơ, chỉ giữ lại những điểm đặc trưng nhất. Buổi sáng ở thôn Vĩ, ánh nắng chiếu sáng những cây cau ướt đẫm sương. Cây cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, liên quan mật thiết với ánh nắng mới nở trong trẻo, trong veo, rõ ràng và quyến rũ.
Mô tả về vườn cây tươi mát, sum suê, Hàn Mặc Tử chỉ tập trung vào việc làm nổi bật sự xanh mướt của lá: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Cảnh vật hiện lên sống động khi bóng người xuất hiện, một khuôn mặt kín đáo, phúc hậu, dịu dàng:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Thiên nhiên và con người hài hòa, tạo ra thần thái, linh hồn của Vĩ Dạ, một Vĩ Dạ mơ mộng, vì có 'nàng' ở đó, trong những vườn tược, nên càng trở nên mơ mộng hơn. Ở khổ thơ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ chuyển sang một tông màu khác. Nếu ở khổ thơ đầu, Vĩ Dạ với cảnh đẹp tươi sáng và trong trẻo, thì ở khổ thơ này, một nỗi buồn bao trùm tất cả. Sự chuyển động đột ngột từ niềm vui sang nỗi buồn là điều phổ biến trong Thơ mới và văn chương lãng mạn nói chung:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải chăng Huế ở khổ thơ đầu là Huế của ký ức đẹp ngày xưa, còn Huế ở khổ thơ thứ hai là Huế trong tâm trạng hiện tại của nhà thơ. Thôn Vĩ Dạ vẫn hiện lên như một bức tranh thơ mộng với gió, trăng, mây nước, thuyền bến và hoa bắp lay. Tuy nhiên, tất cả đều ngập tràn nỗi buồn. Tâm trạng buồn bã đan xen khắp nơi:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Gió và mây chia rẽ, dường như không có sự liên quan gì; dòng nước vốn chẳng quan tâm vui buồn nhưng bây giờ lại trở nên buồn thiu. Hình ảnh hoa bắp lay gợi lên một cảm giác buồn hiu hắt. Một cảm giác buồn lan tỏa từ bầu trời đến đất đỏ, từ gió, mây đến dòng nước và hoa bắp ven sông. Đằng sau những cảnh đẹp đó là tâm trạng của một người mang theo nỗi buồn xa cách, một tình yêu không hy vọng. Giờ đây, tất cả chỉ còn tồn tại trong cõi mộng, từ cảnh đẹp đến tình cảm con người. Không gian tràn ngập ánh trăng, dòng sông trăng, bến đò trăng, chiếc thuyền đầy trăng… Cảnh thực sự mơ mộng nhưng lại đẫm nước mắt:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhà thơ như không còn sống trong thế giới bên ngoài, mà chìm đắm trong thế giới tâm hồn riêng biệt. Sông với cảnh đẹp mơ mộng và với người trong mộng, Hàn Mặc Tử, ở khổ thơ cuối cùng, như đang trò chuyện trong giấc mơ với một hình tượng không thật:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ hình bóng
Có ai biết tình yêu có đậm sâu?
Hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa hiện lên như một bóng mờ trong thế giới mộng, tạo nên một cảm giác lạc lõng, mơ hồ. Bức áo trắng của cô gái Huế quá trắng, như tan vào sương khói. Sương khói của đất trời Huế hay là sương khói của thời gian và khoảng cách, phủ lên một mối tình xa xôi cũng như xa vời.
Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi và kết thúc với một câu trả lời. Những lời trả lời cũng là câu hỏi. Ai biết tình yêu có đậm đà để có thể trở về thôn Vĩ?
Hàn Mặc Tử đã ra đi, nhưng bài thơ về thôn Vĩ vẫn còn đó. Bài thơ đã vượt qua lớp sương khói của thời gian để làm cho một mối tình đầy thất vọng nhưng vẫn rất chân thành, trong trắng


8. Phân Tích Tâm Trạng Nhân Vật Trữ Tình Trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử số 8
“Thơ là bản nhạc của tâm hồn, đặc biệt là tâm hồn sâu sắc, phong phú” và tác phẩm thơ của Hàn Mặc Tử chính là bản nhạc đặc sắc như vậy. Ông là một nhà thơ tài năng và đặc biệt trong phong trào Thơ mới. Hàn Mặc Tử không chỉ sáng tác bằng chữ, mà còn bằng trái tim, bằng tình yêu với thơ, tình yêu với thiên nhiên và đất nước. “Đây thôn Vĩ Dạ” từ tập “Thơ điên” là một tác phẩm tiêu biểu cho tâm hồn thơ của ông. Trải qua những dòng thơ, chúng ta cảm nhận được tâm trạng trữ tình của nhân vật.
Bài thơ mở đầu với một câu hỏi tu từ, tình cảm và đầy ấn tượng:
“Sao anh không trở về thôn Vĩ?”
Câu hỏi này như một lời mời gọi, như một trách móc nhẹ nhàng đối với người mà ông luôn nhớ thương. Chỉ với một câu thơ ngắn, Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc trở lại với không gian tươi đẹp của vườn cây ở xứ Huế:
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
……
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”
Qua triển khai của Hàn Mặc Tử, cảnh thiên nhiên hiện lên rạng ngời, huyền bí. Từ xa, chúng ta cảm nhận hình ảnh những cây cau thẳng tắp nâng mình đón nắng mặt trời. Từ từ điệp từ “nắng” kết hợp với sự so sánh tinh tế “ xanh như ngọc” tạo ra không khí với những hình ảnh sống động: Những cành cây, những ngọn cỏ, khóm lá tỏa sáng, “ xanh như ngọc” đại diện cho màu xanh tươi sáng của sự sống. Điểm độc đáo là ở câu thứ tư, miêu tả về thiếu nữ trang nhã, phúc hậu. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Tác giả tinh tế làm nổi bật vẻ đẹp của cô gái Huế dịu dàng, trang nhã, kín đáo, tình tứ giữa khu rừng rực rỡ, huyền bí. Để tạo ra bức tranh ngập tràn nắng mới như vậy, tác giả cần phải có một tâm hồn nhạy cảm, biết yêu thương vẻ đẹp.
Các dòng thơ tiếp theo mang đầy không khí buồn bã với gió, mây, dòng sông và hoa bắp:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Trong thơ ca, gió và mây thường đi cùng nhau nhưng ở đây chúng phân ly. Liệu có phản ánh nỗi niềm của nhân vật trữ tình trong tình cảnh chia lìa? Dòng Hương Giang thấm bởi buồn bã của cảnh vật, trôi lờ lững trong “buồn thiu”, sầu muộn. Đứng trước thiên nhiên với tâm trạng u buồn, tác giả đặt câu hỏi tu từ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Buồn bã nhưng nhà thơ vẫn không quên mô tả vẻ đẹp của dòng “sông trăng” quê hương. Có thể thấy, không gian trăng lấp lánh đã trở thành biểu tượng về cuộc sống tươi đẹp, về một cuộc sống mà tác giả mong ước được hòa mình vào và chiếm lĩnh. Tác giả hiểu rõ số phận ngắn ngủi của mình, nhận biết được quỹ thời gian ngắn ngủi. Vì thế, câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay? ” phản ánh nỗi lo âu, bồn chồn của nhà thơ. Từ đó, ta cảm nhận được một Hàn Mặc Tử lãng mạn, chứa đựng một tình yêu biết dấu kín đáo, đậm chất thơ mộng và hơi buồn với quê hương. Nắng mới đã tan, trăng đã tắt, nhân ảnh mờ dần, cả đoạn thơ chìm đắm trong sương khói trắng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.
Hiện thực khắc nghiệt tràn về. Nếu trong thơ ca xưa, “sương khói” thường đi kèm với nỗi niềm về quê hương, thì nay, giữa lớp sương mờ ảo, bóng dáng của một cô gái xứ Huế xuất hiện. Chữ “quá” vang lên như một lời tiếc nuối xót xa. Hàn Mặc Tử đang sống với những mảnh kí ức mong manh, dần nhạt nhòa. Cuối cùng, chính nhà thơ trở nên xa lạ trong ký ức của mình “Ai biết tình ai có đậm đà”. Câu hỏi này khiến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ trở nên thêm đắng cay, tăng thêm nỗi cô đơn trong tâm hồn yêu đời và yêu người của mình.
Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, chúng ta chìm đắm trong những cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng và niềm nhớ nhung sâu sắc. Nhờ những tâm trạng đó, chúng ta mới nhận ra bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên và con người xứ Huế, về một thi sĩ đầy tình yêu với thiên nhiên, đất nước và cảm xúc chân thành của mình.

