1. Bài viết phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 4
Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận phụ nữ là vô cùng nhỏ bé và dễ bị tổn thương. Họ không chỉ phải chịu sự phân biệt mà còn đối mặt với nhiều bất công và định kiến. Nguyễn Dữ, qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, đã khắc họa sâu sắc nỗi bất hạnh bi kịch của phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Bi kịch của Vũ Nương bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa, khiến cho con phải xa cha và vợ phải cách biệt chồng. Những hiểu lầm dẫn đến bi kịch sau này của Vũ Nương đều xuất phát từ đây. Cuộc sống bên chồng của Vũ Nương rất ngắn ngủi: “sum họp chưa thỏa… đã chia phôi vì động việc lửa binh”. Khi Trương Sinh ra trận, nàng sống trong cảnh “vợ trẻ xa chồng”, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”…
Tại nhà, nàng vừa lo lắng nhớ chồng, vừa bươn chải nuôi con và mẹ già. Mọi gánh nặng gia đình đè lên vai nàng, trong khi xã hội phong kiến đã dung túng cho Trương Sinh hành động tàn nhẫn, không cần lý do, mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi nàng đến mức phải tìm đến cái chết mà vẫn không thể minh oan.
Ba năm sau, khi Trương Sinh trở về, thì Vũ Nương đã phải rời xa mãi mãi. Trớ trêu thay, hình ảnh biểu tượng tình vợ chồng đã bị Trương Sinh nghi ngờ, coi đó là bằng chứng cho sự hư hỏng của vợ.
Trương Sinh tin lời con thơ và từ chỗ nghi ngờ chuyển sang khẳng định “vợ hư”. Vũ Nương bị kết tội không có lý do, bị xua đuổi và chịu đựng sự lạnh lùng, tàn nhẫn. Cuối cùng, nàng không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết. Sự tuyệt vọng và không thể chứng minh sự trong sạch đã khiến nàng phải tìm đến dòng Hoàng Giang để rửa sạch mọi oan khuất: “thần sông có linh, xin ngài chứng giám”. Mặc dù được Linh Phi cứu giúp và nhờ Phan Lang, nàng chỉ có thể hiện về từ giữa dòng sông với những lời nghẹn ngào: “Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Đây là bi kịch đau đớn nhất của Vũ Nương và của kiếp người.
Vũ Nương, dù có nhiều phẩm hạnh đáng quý, nhưng cuộc đời nàng đầy khổ đau và bất hạnh. Phẩm giá của nàng là hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, và cuộc đời nàng phản ánh số phận chung của phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Nguyễn Dữ qua tác phẩm này thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, lên án thói ghen tuông mù quáng, chiến tranh phi nghĩa và chế độ nam quyền, đồng thời kêu gọi quyền sống và hạnh phúc của con người.
2. Cảm nhận về bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - phiên bản 5
'Chuyện người con gái Nam Xương' là tác phẩm nổi bật phản ánh số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Nguyễn Dữ đã khắc họa một cách chân thực bi kịch cuộc đời Vũ Nương qua câu chuyện này.
Vũ Nương vốn là người phụ nữ hiền thục, nết na và có phẩm hạnh tốt đẹp. Dù vậy, số phận của nàng lại đầy bất hạnh. Trước hết là bi kịch trong tình yêu. Vũ Nương như nhiều phụ nữ thời xưa, không được tự quyết định số phận của mình. Xuất thân từ gia đình nghèo khó, nàng phải lấy Trương Sinh, một chàng trai giàu có, dù không có tình cảm. Cuộc hôn nhân không tình yêu càng thêm căng thẳng khi không môn đăng hộ đối.
Dù vậy, Vũ Nương vẫn khao khát hạnh phúc. Nàng bước vào cuộc sống hôn nhân với Trương Sinh bằng tấm lòng chân thành. Biết chồng có tính đa nghi, Vũ Nương luôn giữ gìn phép tắc để không xảy ra mâu thuẫn. Khi chiến tranh xảy ra, cuộc sống của nàng bắt đầu rơi vào bi kịch chia ly. Trương Sinh ra chiến trường, nàng phải đối mặt với lo lắng và mất mát. Chiến tranh không chỉ làm gia đình nàng tan vỡ mà còn khiến nàng gánh vác trách nhiệm nặng nề của một người đàn ông.
Bi kịch của Vũ Nương không dừng lại ở đó; đỉnh điểm là sự hiểu lầm của Trương Sinh khi trở về. Ngày chồng trở về, nàng tưởng rằng gia đình sẽ đoàn tụ và nàng sẽ được sống hạnh phúc bên chồng con. Nhưng thực tế lại tàn khốc. Trương Sinh, đau lòng vì mẹ mất, đã bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc, chàng dỗ dành và đứa bé hỏi: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ im lặng”. Nghe lời con, Trương Sinh nghi ngờ vợ và mắng nhiếc nàng. Vũ Nương tìm mọi cách giải thích nhưng không được chồng tin. Sự bênh vực của họ hàng cũng không giúp gì.
Cuối cùng, nàng đành phải nói: “Thiếp nương tựa vào chàng vì có niềm vui và sự yên ổn. Nào ngờ ân tình như lá rụng, gièm pha không dứt. Giờ đây, tất cả đã tan vỡ, khóc tuyết hoa gãy cuống, kêu xuân én lìa màn. Nước thẳm buồm xa, không thể trở lại núi Vọng Phu nữa.” Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình.
Dù đã chết, nỗi oan khuất của nàng vẫn còn. Một đêm, Trương Sinh thấy đứa trẻ gieo lên: “Cha Đản lại đến kìa”. Hỏi ra mới biết, lúc vắng mặt, vợ thường chỉ vào chiếc bóng của mình và nói đó là cha Đản. Đến lúc này, hối hận đã muộn. Sau khi nghe Phan Lang giải thích, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Dù Vũ Nương được chồng lập đàn giải oan và hiện về thăm gia đình, nàng vẫn không thể tiếp tục cuộc sống. Bi kịch nhất là khao khát sống lại nhưng không thể thực hiện.
Qua bi kịch của Vũ Nương, nhà văn lên án chiến tranh và xã hội phong kiến đã tước đoạt quyền sống và hạnh phúc của phụ nữ, đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận của họ.
3. Cảm nhận về bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - phiên bản 6
Nguyễn Dữ là một nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam trong thế kỉ XVI. Tác phẩm nổi tiếng của ông, “Truyền kì mạn lục”, đặc biệt chú trọng vào số phận của những người phụ nữ bất hạnh, bị đẩy vào những hoàn cảnh khốn cùng bởi các thế lực tàn bạo và lễ giáo hà khắc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là “Chuyện người con gái Nam Xương”, miêu tả một cách sâu sắc cuộc đời đầy bi kịch của Vũ Nương, một người phụ nữ xinh đẹp nhưng chịu số phận bất hạnh.
Liệu có phải số phận của những phụ nữ trong xã hội xưa đều phải chịu đựng sự đau khổ như câu thơ của Nguyễn Du:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Khi đọc “Chuyện người con gái Nam Xương”, chúng ta thấy Vũ Nương là một hình mẫu của bi kịch. Vũ Thị Thiết, một thiếu nữ xinh đẹp và tài đức, vẫn không thể thoát khỏi định mệnh khắc nghiệt. Sinh ra trong xã hội phong kiến, nàng không có quyền quyết định cuộc đời mình. Phải kết hôn với người mình không yêu, và mặc dù gia đình nàng nghèo, nhưng chồng nàng lại là người giàu có. Dù không có tình yêu và không được gia đình chồng quý trọng, Vũ Nương vẫn khao khát hạnh phúc và sống đầy trách nhiệm, yêu thương chồng và chăm sóc gia đình.
Chiến tranh đã chia cắt Vũ Nương với chồng về không gian và thời gian. Trong suốt thời gian chồng nàng ra trận, Vũ Nương phải gánh vác tất cả công việc gia đình, dù nàng chỉ là một người phụ nữ yếu đuối. Nàng không chỉ chăm sóc mẹ chồng đau ốm mà còn nuôi dạy con thơ, và luôn lo lắng cho sự an nguy của chồng.
Nhưng Trương Sinh không hề hiểu và trân trọng những hy sinh của vợ. Khi trở về, thay vì cảm kích, anh lại nghi ngờ nàng qua lời nói ngây thơ của đứa trẻ. Những nỗ lực của Vũ Nương để chứng minh sự trong sạch của mình đều vô ích. Cuối cùng, nàng chỉ còn cách thốt lên những lời đau khổ: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Những lời này thể hiện nỗi đau tột cùng của nàng.
Chết đi cũng không giải thoát nỗi oan ức của nàng. Bi kịch tiếp tục trong chi tiết kì ảo cuối truyện. Dù được Linh Phi cứu sống và gặp Phan Lang dưới thủy cung để nhờ giúp đỡ, Vũ Nương chỉ có thể hiện về một lần trên bến Hoàng Giang, và chỉ có thể gửi gắm nỗi đau của mình từ giữa dòng sông: “Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Khát khao được sống và hạnh phúc mà không thể thực hiện, đó chính là bi kịch lớn nhất của nàng.
Qua những bi kịch của nhân vật, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh số phận bất hạnh của người phụ nữ xưa và tố cáo chiến tranh, xã hội phong kiến đã cướp đi hạnh phúc của họ.
Cuộc đời của Vũ Nương chính là hình ảnh của nhiều người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điều này khiến chúng ta, thế hệ hiện đại, thêm yêu thương và trân trọng những người phụ nữ xung quanh mình.
4. Bài văn cảm nhận về bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 7
Vũ Nương và Trương Sinh – Một cuộc hôn nhân thiếu tình yêu. Câu chuyện mở đầu bằng cuộc hôn nhân của Vũ Thị Thiết, một cô gái xinh đẹp và hiền thục ở Nam Xương, được Trương Sinh, một chàng trai tốt bụng và hào phóng, chọn làm vợ bằng vàng. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh, giống như nhiều cuộc hôn nhân khác trong xã hội phong kiến, không xuất phát từ tình yêu. Vũ Nương không có quyền quyết định hôn nhân của mình; nàng chỉ có thể tuân theo sự sắp đặt của cha mẹ.
Đây là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Vũ Nương, người phụ nữ bị hệ thống phong kiến và Nho giáo tước đoạt quyền chọn lựa chồng. Dù hôn nhân không phải vì tình yêu, Trương Sinh – người chồng thiếu học nhưng rất nghi ngờ – vẫn được Vũ Nương tôn trọng và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của một người vợ.
Phụ nữ xưa phải sống theo bổn phận. Vũ Nương đã tận tâm thực hiện nghĩa vụ của mình. Khi chồng đi lính, dù một mình nuôi con, nàng vẫn tận tụy chăm sóc mẹ chồng ốm đau và tổ chức tang lễ chu đáo cho mẹ chồng khi bà qua đời. Lòng hiếu thảo của nàng đã được mọi người và trời xanh chứng nhận.
Đối với bổn phận của người vợ, Vũ Nương đã giữ gìn sự chung thủy và tiết hạnh. Trong suốt thời gian chồng đi lính gần ba năm, nàng vẫn trung thành, không để ai nghi ngờ. Nàng đã hết lòng yêu thương chồng, ngay cả khi chồng vắng mặt, nàng vẫn giữ gìn phẩm hạnh và thường xuyên an ủi con bằng cách trò chuyện với bóng của mình trên tường.
Vũ Nương không thể ngờ rằng trò đùa đó sẽ dẫn đến cái chết của mình. Cái chết oan uổng của nàng liên quan đến nhiều yếu tố, nhưng không thể đổ lỗi cho Trương Sinh hay bé Đản, cũng như không thể quy trách nhiệm cho hệ thống phong kiến. Vũ Nương đã tự chọn cái chết, và đó là quyền duy nhất mà nàng có trong cuộc đời ngắn ngủi.
Khác với câu chuyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nơi Vũ Nương tự vẫn ngay khi bị chồng đuổi, Nguyễn Dữ trong “Chuyện người con gái Nam Xương” để nàng nói lời từ biệt và chuẩn bị tắm gội sạch sẽ trước khi chọn cái chết. Điều này cho thấy cái chết của nàng là một sự lựa chọn suy nghĩ chín chắn, không phải hành động bốc đồng.
Nàng đã không còn sự lựa chọn nào khác. Dù nàng đã thanh minh, Trương Sinh vẫn không tin và những người xung quanh không thể thay đổi được tình hình. Mẹ chồng đã qua đời, con trai còn quá nhỏ để hiểu rõ sự việc, và nàng không thể quay về nhà cha mẹ vì điều đó sẽ làm gia đình nàng bị mang tiếng xấu. Vũ Nương chọn cái chết như một cách để chứng minh sự trong sạch của mình.
Với cái chết của mình, nàng đã hy sinh cuộc sống để bảo vệ danh dự và phẩm giá. Cái chết ấy có lẽ đau đớn hơn vì nàng đang ở tuổi thanh xuân. Trong khi câu chuyện cổ tích kết thúc với cái chết của nàng, Nguyễn Dữ đã sáng tạo một kết thúc có hậu khi Vũ Nương được cứu sống dưới thủy cung và trở thành cung nữ nhờ sự giúp đỡ của Linh Phi, vợ vua Nam Hải.
Kết thúc hoang đường này không chỉ làm cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn mà còn thể hiện ý tưởng của tác giả về một kết thúc có hậu. Vũ Nương không chỉ được minh oan mà còn được mọi người biết đến sự thật qua lễ hội mà Trương Sinh tổ chức bên bến Hoàng Giang. Đây là lý do nàng còn tiếp tục “sống” ở thủy cung cho đến khi nỗi oan được giải quyết và nàng mới có thể thanh thản ra đi.
Vũ Nương chết ở tuổi thanh xuân do bi kịch ghen tuông và gia đình là một câu chuyện đau lòng, nhưng qua các tác phẩm như “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, Nguyễn Dữ muốn cảnh báo về sự bất công và khổ đau mà phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội của ông.
5. Bài viết phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 8
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Xuyên suốt chiều dài của triền đê mang tên “Văn học”, ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ dẫu có “quốc sắc thiên hương” đến đâu, có phẩm hạnh hoàn mỹ và tài năng hơn người đi chăng nữa thì số kiếp và hạnh phúc của họ vẫn bị vùi dập tả tơi bởi những định kiến của một xã hội hoen ố và mục ruỗng, những tục lệ “trọng nam khinh nữ”. Bằng ngòi bút mang cái “hồn” của riêng mình, Nguyễn Dữ đã khiến trái tim người đọc muôn đời không khỏi tiếc thương khi nhớ về số phận bi ai của Vũ Nương.
Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, Nguyễn Dữ bất mãn và bất lực trước thời cuộc, chán ghét cảnh quan trường điên đảo nên lui về ở ẩn. Theo Nguyễn Đăng Na nhận xét: “Ông là cha đẻ của loại hình truyền kì Việt Nam”, là người “phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo văn chương nghệ thuật”.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Từ một sự tình có thật trong dân gian, Nguyễn Dữ đã thể hiện thật tài tình, trọn vẹn vẻ đẹp của Vũ Nương. Nàng thật sự là một người phụ nữ hoàn mỹ, đẹp người đẹp nết, làm tròn bổn người vợ, người mẹ và nàng dâu thảo. Vũ Nương là khuôn vàng, thước ngọc của người phụ nữ, nàng xứng đáng sống trong hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng “Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói, ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn.”. (Đồng Thị Sáo).
Vũ Nương phải gánh chịu nỗi dày vò cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, phu quân phải đi đến nơi biên ải xa xôi, cả giang sơn nhà chồng đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của người thiếu phụ. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Nàng thầm lặng mà sinh con ra, rồi lại một mình tần tảo nuôi nấng, dạy dỗ con thơ. Biết mẹ chồng đau ốm vì nhớ thương con, nàng tận tâm tận tụy chăm sóc, “hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng vĩnh biệt thế gian nàng cũng hết lòng xót thương, lo liệu ma chay tế lễ như đối với cha mẹ ruột. Một mình Vũ Nương đảm đương tất cả, nàng vừa là mẹ, là dâu con. Nàng lo toan mọi việc lớn nhỏ như “một đấng nam nhi” duy nhất trong gia đình. Những ngày sống trong cảnh “chăn đơn gối chiếc”, sự cô đơn, lẻ loi cùng nỗi nhớ kéo dài theo năm tháng cứ cứa từng vết khiến trái tim nàng rỉ máu. Nàng khắc khoải nhớ nhung Trương Sinh “thổn thức tâm tình thương người đất thú”. Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức. Hình ảnh “bướm lượn đầy vườn” vốn gợi cho ta một khung cảnh đẹp, cũng rất mơ hồ hay “mây che kín núi” thơ mộng nhưng cũng man mác. Giống như tâm trạng của nàng bấy giờ, lệ sầu phủ kín tâm can, nỗi buồn “không thể nào ngăn được”. Quả là lấy cảnh mà lột tả được cái tình của con người. Nỗi nhớ triền miên của người thiếu phụ cũng được nhắc đến trong thi phẩm “Chinh Phụ Ngâm” – Đoàn Thị Điểm:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi nhớ thương, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra trò cái bóng.Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Chiếc bóng chính là hiện thân của sự cô đơn của Vũ Nương. Cùng với chiếc bóng của mình trên vách, Vũ Nương vừa làm mẹ, vừa làm cha. Và mối oan của Vũ Nương được buộc bởi chính hành động của nàng mỗi ngày, bởi lời của đứa con đứt ruột đẻ ra và bởi sự tàn nhẫn của người chồng đầu gối tay ấp. Nàng rơi vào bi kịch bởi chính cái bóng của mình, hạnh phúc bao lâu nay luôn cố gắng vun đắp, “giữ gìn khuôn phép” đã tan vỡ không thể cứu vãn. Hạnh phúc với người phụ nữ thật mong manh, ngắn ngủi, luôn có những những bất trắc, rủi ro, nghịch lý vận vào cuộc đời họ, đẩy họ tới bước đường cùng.
Vũ Nương phải chịu sự ràng buộc của lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo, chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Nàng đã có quyền lựa chọn đâu khi xã hội phong kiến vẫn có đó tư tưởng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Chàng xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng bởi thế đồng tiền đã phát huy uy lực của nó khiến Vũ Nương luôn sống trong mặc cảm “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng là người con gái hiền lành, chất phác, cưới chàng Trương, nàng không hề mong danh lợi hay vinh hoa, phú quý mà chỉ vì một mong ước rất bình thường mà người phụ nữ nào cũng muốn "thú vui nghi gia, nghi thất". Mặc dù sống với người chồng lạnh lùng, lại đa nghi quá mức nhưng vì khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên nàng luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực vì thế mà vợ chồng chẳng khi nào bất hòa. Vũ Nương sống trong một cuộc hôn nhân không chứa chan ái tình và cũng chẳng có âm hưởng của sự rung động cất lên từ hai trái tim chân thành. Chính bức tường vô hình mang tên “giàu – nghèo” đã đàn áp quyền lợi của người phụ nữ và là cái thế để Trương Sinh mặc nhiên đối xử vũ phu, tàn bạo với nàng.
Trở về sau ba năm cách biệt, ngỡ đâu vị thần hạnh phúc sẽ gõ cửa gia đình nàng. Thế nhưng, chính vì thói đa nghi và ghen tuông che mờ lí trí, Trương Sinh mù quáng tin vào những lời nói ngây thơ của bé Đản mà đinh ninh phán cho Vũ Nương cái danh “vợ hư”. Trương Sinh bỏ ngoài tai những lời khuyên can của mọi người và cũng chẳng thèm đếm xỉa tới lời biện bạch của nàng. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, chàng đã nhẫn tâm mắng nhiếc và đánh đuổi vợ đi. Phải chăng xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, bất công và tàn bạo, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng, mặc nhiên định đoạn thậm chí giẫm đạp lên quyền sinh, quyền tử và phẩm giá cao quý của người vợ. Vũ Nương đức hạnh, ngoan hiền vậy mà lại phải mang bản án ô nhục, nhuốc nhơ “hư thân mất nết”. Thuở xưa, nàng Thị Kính còn biết ngọn nguồn nỗi oan khuất của mình. Còn Vũ Nương, đến khi gieo mình xuống đáy sông nàng vẫn chẳng hiểu vì sao lại bị người từng đầu ấp tay gối với mình mắng nhiếc và đánh đuổi đi. Nỗi oan của nàng thấu tận trời xanh vậy mà nàng cũng chẳng được quyền phản kháng, bảo vệ chính mình.
Với Vũ Nương, “cái thú vui nghi gia nghi thất” chính là lí tưởng, mục đích sống và tồn tại của nàng. Để rồi khi điểm tựa ấy bị vùi dập tả tơi bởi nỗi oan thất tiết “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.”. Với hàng loạt những hình ảnh ước lệ ngụ ý chỉ sự lụi tàn, thê lương của mối nhân duyên đổ vỡ đã lột tả thành công nỗi thất vọng, ê chề, đau đáu xâm chiếm cõi lòng của nàng. Vũ Nương quyết định trầm mình xuống sông Hoàng Giang để rửa sạch nỗi oan khuất, giải bày tấm lòng ngay thẳng, tấm thân trinh bạch của mình. Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử vậy mà Trương Sinh cũng chẳng một chút động lòng hay ân hận, day dứt. Hãn hữu lắm trong cái xã hội ấy, một hành lang đạo lí hay một ai đó đứng ra bảo vệ, chở che cho thân phận bèo dạt mây trôi của Vũ Nương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Rõ ràng chính xã hội cũ đã sinh ra bao Trương Sinh với thói độc đoán là nguyên nhân của những khổ đau mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Nỗi oan khuất tột cùng của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc mệnh ấy Nguyễn Dữ đã góp phần khái quát nên thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương.Đớn đau thay số phận của nàng Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà nát phũ phàng. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp đàn bà thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc mệnh” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Vũ Nương còn là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa, “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Chiến tranh loạn lạc đã đẩy gia đình nàng vào cảnh li tán, vợ chồng xa cách đôi người hai ngả. Ngày qua ngày, niềm tin dành cho nhau cứ thế mà kiệt quệ, dẫn đến hiểu lầm. Có lẽ, trận chiến chính là cửa ải thử thách tình yêu và niềm tin của Trương Sinh dành cho vợ. Và chàng đã thất bại, mù quáng nghĩ oan và vu khống cho Vũ Nương. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến chính là ngòi nổ tiếp tay cho những bi kịch, giông bão trong cuộc đời người phụ nữ bất hạnh ấy.
Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung. Nhưng làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Chốn “làng mây cung nước” nàng được sống một cuộc đời bất tử và sung mãn, một cuộc đời mà biết bao người trần mắt thịt mong ước. Thế nhưng, Vũ Nương chẳng hề tận hưởng kiếp sống ấy và nàng cũng chẳng thể chạm tay đến thứ hạnh phúc thật sự. Bởi nàng “bất tử” nên nỗi nhớ gia đình cứ đeo đẳng nàng mãi. Nỗi đau đáu ấy trở thành một vết sẹo trong tim nàng mà chẳng có một hào nhoáng xa hoa nào có thể chữa khỏi. Bên cạnh đó, sự trở về của Vũ Nương trên sông Hoàng Giang rất lộng lẫy nhưng lại ở rất xa, rất mơ hồ “lúc ẩn lúc hiện” và “chỉ trong phút chốc”. Cảnh đoàn tụ chỉ là ảo ảnh nhanh chóng tan biến. Còn việc Vũ Nương “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”, nỗi khổ đau li biệt cho cả gia đình nàng, lứa đôi chia lìa hai cõi âm – dương là sự thật, là mãi mãi. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt…Với kết thúc không trọn vẹn, Nguyễn Dữ đã cho thấy một quan niệm rằng hạnh phúc khó có, khó giữ mà đã đổ vỡ rồi thì sẽ chẳng thể nào hàn gắn lại được, như bát nước đã đổ đi thì chẳng thể vớt lại cho đầy.
Khép lại những trang viết thăng trầm của “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta không khỏi thán phục trước những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Tác giả xây dựng tình huống truyện bất ngờ là lời nói ngây thơ của bé Đản, hình ảnh “chiếc bóng” vô tri vô giác đã đẩy đưa số kiếp của Vũ Nương rơi vào vực sâu bi kịch, gia đình chịu cảnh chia lìa tang thương.Tác phẩm không kể lại chuyện đời một cách khô khan và cứng nhắc mà là sự chung hòa giữa tự sự và trữ tình kết hợp với những yếu tố kì ảo hoang đường. Đây là cách thức kể chuyện độc đáo, dẫn lối người đọc dấn thân vào các tình tiết.
“Chuyện người con gái Nam Xương” thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Qua số phận và cuộc đời của Vũ Nương, tác giả đã phản ánh kiếp sống bi thương của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm còn là tiếng kêu đanh thép lên án chế độ phong kiến với thói trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi đầy bất công. Truyện còn tố cáo chiến tranh loạn lạc, phi nghĩa gây ra bao đau thương, tan vỡ cho những mái ấm gia đình. Truyện đã cho ta thấy cái tài cái tâm của người nghệ sĩ, niềm cảm thương sâu sắc của tác giả trước những phận đời “hồng nhan đa truân”, quẩn quanh trong bi kịch nối tiếp bi kịch.
6. Phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 1
'Chuyện người con gái Nam Xương' của Nguyễn Dữ là một tác phẩm nổi bật với sự kết hợp tinh tế giữa giá trị nhân văn và hiện thực sâu sắc. Trung tâm của câu chuyện là một người phụ nữ đức hạnh, khao khát hạnh phúc nhưng bị cản trở bởi lễ giáo phong kiến nghiệt ngã và chiến tranh. Những yếu tố này đã không chỉ làm cho ước mơ của cô trở thành vô vọng mà còn đẩy cô vào một bi kịch đau thương. Vũ Nương, với tài sắc và số phận bi thảm, là hình mẫu của vẻ đẹp truyền thống và phẩm hạnh trong xã hội phong kiến.
Trong tác phẩm, hình ảnh Vũ Nương được tác giả miêu tả qua những câu văn biền ngẫu, không chỉ đơn thuần thuật lại mà còn thể hiện sự trân trọng và ngợi ca. Đây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, Vũ Nương xuất hiện với vẻ đẹp giản dị, hoàn hảo, là biểu tượng của người con gái Việt Nam truyền thống. Dù sống trong cảnh nghèo khó, cô vẫn thể hiện phẩm chất cao quý, không bị ảnh hưởng bởi sự giàu có, và luôn tận tâm với gia đình. Vẻ đẹp của cô không chỉ nằm ở ngoại hình mà còn ở phẩm cách và sự chăm sóc dành cho gia đình.
Khi chồng cô phải đi lính, đây là thử thách lớn đầu tiên mà cô phải đối mặt. Dù không ham mê phú quý, Vũ Nương chỉ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình. Khác với những người phụ nữ khác, cô không muốn chồng ra chiến trường vì lo lắng cho sự an toàn của chồng. Tâm trạng của cô được diễn tả qua hình ảnh ước lệ “Nhìn trăng soi …đất thú”, thể hiện sự lo lắng và tình yêu thương vô bờ bến dành cho chồng.
Với mẹ chồng, Vũ Nương cũng hoàn thành tốt vai trò của một người con dâu, chăm sóc mẹ chồng tận tình và chu đáo. Cô xem mẹ chồng như mẹ ruột và khi mẹ mất, cô tổ chức tang lễ chu đáo như cho mẹ đẻ của mình. Một mình Vũ Nương lo lắng, quán xuyến gia đình, vừa làm cha vừa làm mẹ cho con, dạy dỗ con những điều tốt đẹp.
Bi kịch của Vũ Nương đến từ việc cô phải dùng hình ảnh cái bóng của mình để an ủi con, nói rằng đó là bố của con. Cô làm vậy để con cảm thấy có bố và để xoa dịu nỗi lo lắng của mình. Nhưng khi chồng trở về, do nghe lời con trẻ, anh đã đưa Vũ Nương vào bước đường cùng, dẫn đến cái chết của cô để chứng minh sự trong sạch của mình.
Hình ảnh của Vũ Nương trong đau khổ làm nổi bật bi kịch của cô. Chiến tranh đã làm cho gia đình tan vỡ và dẫn đến cái chết đau thương của cô. Tác phẩm thể hiện sự đồng cảm sâu sắc đối với số phận của Vũ Nương và phê phán chế độ phong kiến đã gây ra cái chết oan ức cho cô. Vũ Nương là hình mẫu của người phụ nữ chịu đựng và đấu tranh trong xã hội phong kiến, và cái nhìn của tác giả đối với số phận của cô phản ánh sự xót thương và đồng cảm đối với những người phụ nữ trong hoàn cảnh tương tự.
7. Bài phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 2
“Chuyện người con gái Nam Xương” là câu chuyện thứ 16 và cũng là tác phẩm nổi bật nhất trong bộ truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ đã khéo léo xây dựng nhân vật Vũ Nương, tạo ra một hình tượng ấn tượng qua cuộc đời bi thảm của nàng, phản ánh sự bất công và tàn nhẫn của xã hội phong kiến đối với số phận con người, đặc biệt là phụ nữ.
Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” được lấy cảm hứng từ truyền thuyết “Vợ chàng Trương”, vốn đã quen thuộc trong dân gian. Dựa trên câu chuyện cổ tích này, Nguyễn Dữ đã thêm vào các yếu tố kỳ ảo và sáng tạo để biến nó thành một tác phẩm văn học hấp dẫn và có giá trị nhân văn sâu sắc.
Vũ Thị Thiết (hay Vũ Nương) là người quê ở Nam Xương, thuộc gia đình nghèo khó, nhưng xinh đẹp và hiền hậu. Nàng lấy Trương Sinh, một người có điều kiện khá giả nhưng lại rất đa nghi. Trong khi chồng đi lính, Vũ Nương tận tụy chăm sóc mẹ chồng và con nhỏ. Khi Trương Sinh trở về và nghe tin mẹ mất, anh ta vì tin lời trẻ con mà nghi ngờ vợ đã không chung thủy, dẫn đến việc anh ta sỉ nhục và đánh đập Vũ Nương, khiến nàng quyết định tự vẫn. Linh Phi đã cứu nàng và đưa nàng đến sống ở thủy cung. Trương Sinh hiểu ra mọi việc qua Phan Lang và hối hận, nhưng quá muộn. Anh ta đã lập đàn giải oan cho vợ, nhưng Vũ Nương không trở về nữa.
Câu chuyện kết thúc để lại cho người đọc cảm giác day dứt và thương cảm. Dù đã được minh oan, hạnh phúc xưa đã không còn, và nàng phải sống cách xa chồng con mãi mãi. Sự bất công lớn lao đối với một người phụ nữ hiền lành và đẹp đẽ như nàng là một điểm nhìn tiến bộ của Nguyễn Dữ. Ông đã thể hiện sự quan tâm đến những người bình dân trong xã hội phong kiến, điều mà hiếm có tác giả nào cùng thời làm được.
Vũ Nương là hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp cả ngoại hình và phẩm hạnh. Nguyễn Dữ mô tả nàng ngay từ đầu với “tính đã nết na thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp hình thức và tâm hồn làm cho nàng trở thành mẫu người lý tưởng trong xã hội phong kiến. Chính vì vậy, Trương Sinh đã yêu mến và không ngần ngại bỏ ra một số tiền lớn để cưới nàng.
Trong cuộc sống hôn nhân, Vũ Nương đã thể hiện phẩm hạnh của mình bằng cách duy trì hòa khí trong gia đình, chăm sóc chồng và con, và luôn giữ gìn khuôn phép. Khi tiễn chồng ra trận, nàng chỉ mong cầu bình an và không màng danh vọng, thể hiện sự hi sinh cao cả của mình.
Vũ Nương sống trọn vẹn nghĩa vụ đối với gia đình, là người vợ, người mẹ và con dâu tận tụy. Tấm lòng của nàng là một gương mẫu về đạo đức và tình yêu thương, khiến cho mọi người xung quanh đều cảm phục. Tuy nhiên, số phận nàng lại không may mắn, gặp nhiều bất hạnh và đau khổ.
Từ khi về làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương đã phải chịu đựng sự đa nghi và ghen tuông của chồng, điều này chứng tỏ sự thiếu tin tưởng vào phẩm hạnh của nàng. Sự đề phòng của Trương Sinh đã trở thành một sự sỉ nhục đối với Vũ Nương.
Dù vậy, nàng luôn giữ vững phẩm cách, sống một cuộc đời giản dị nhưng đầy căng thẳng. Trong xã hội phong kiến, phụ nữ thường bị coi thường và phải cam chịu số phận. Vũ Nương đã khéo léo đối phó với sự khó khăn và duy trì hòa khí trong gia đình. Khi chiến tranh khiến gia đình xa cách, sự đa nghi của Trương Sinh bùng phát, và một lời nói ngây thơ của con trẻ đã đủ để anh ta kết tội vợ mình.
Hành động tàn bạo của Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương đến bước đường cùng, dẫn đến cái chết đầy đau đớn của nàng. Hình ảnh nàng tự vẫn tại bến sông Hoàng Giang gây ấn tượng sâu sắc, phản ánh sự tàn nhẫn và bất công của xã hội phong kiến đối với những người phụ nữ tốt đẹp.
Dù câu chuyện có thể kết thúc tại đây, Nguyễn Dữ tiếp tục mở rộng câu chuyện để tìm kiếm một lời giải đáp, một sự minh oan cho Vũ Nương và ca ngợi đức hạnh của nàng. Ông như một vị quan tòa, viết tiếp cuộc đời nàng dưới thủy cung và cảnh lập đàn giải oan, để thể hiện sự tôn vinh và cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của nàng và những người như nàng trong xã hội phong kiến.
Tại thủy cung, Vũ Nương vẫn nhớ về gia đình và quê hương, mặc dù đã sống xa cách. Nàng muốn trở về nhưng cảm thấy mối oan tình vẫn chưa được giải quyết. Khi được minh oan, nàng quyết định không trở về nữa dù lòng vẫn còn quyến luyến với chồng con.
Dù Trương Sinh đã hiểu rõ sự việc và lập đàn giải oan, nhưng những nghi ngờ và tội lỗi trong lòng anh vẫn chưa được giải trừ. Thế giới trần gian không còn chỗ cho Vũ Nương, và nàng vẫn phải đối mặt với những bi kịch khác trong số phận của mình.
Hình tượng Vũ Nương là biểu tượng của lòng vị tha và vẻ đẹp của người phụ nữ, nhưng cuộc đời nàng đầy đau khổ. Nguyễn Dữ đã thể hiện sự trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp ấy, đồng thời tố cáo chế độ phong kiến hà khắc, đẩy con người vào hoàn cảnh cùng quẫn không lối thoát.
8. Bài viết phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' - mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm xuất sắc trong tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Được xây dựng trên nền tảng một câu chuyện dân gian, tác phẩm phản ánh sâu sắc vấn đề cấp bách của xã hội phong kiến thời bấy giờ về thân phận và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa. Quyền lực phong kiến tàn bạo đã chà đạp lên nhân phẩm của phụ nữ, mặc dù họ vốn có đức hạnh và phẩm cách đáng trân trọng.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận của Vũ Nương, một người con gái không chỉ xinh đẹp mà còn hiền hậu. Chồng nàng, Trương Sinh, xuất thân từ gia đình giàu có nhưng ít học, lấy nàng vì vẻ ngoài xinh đẹp chứ không phải vì tình yêu, dẫn đến sự thiếu hòa hợp và bình đẳng trong cuộc sống hôn nhân của họ. Bi kịch của Vũ Nương bắt đầu từ đây. Mặc dù chồng nàng là người lạnh lùng, khô khan và ích kỷ, Vũ Nương vẫn luôn giữ gìn đức hạnh, chăm sóc gia đình và đặt hạnh phúc gia đình lên trên mọi danh lợi. Khi chồng phải đi tòng quân, nàng chỉ mong chồng trở về bình yên, đó là tình cảm chân thành của người vợ dành cho chồng trước khi ra trận.
Trong thời gian xa chồng, Vũ Nương là người con dâu hiếu thảo và người mẹ tận tụy, một mình chăm sóc con cái và lo liệu lễ tang cho mẹ chồng. Khi Trương Sinh trở về, do tin vào lời nói của con trẻ, anh đã hiểu lầm và đánh đập Vũ Nương, khiến nàng đau đớn và cuối cùng phải tự tử trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan khổ của Vũ Nương đã vượt ra ngoài gia đình, trở thành một bi kịch lớn do xã hội phong kiến gây ra. Thân phận người phụ nữ bị đè nén và sỉ nhục đến mức cùng cực, và dù được giải oan, Vũ Nương không thể tìm lại hạnh phúc.
Sự ra đi của nàng là một sự phản kháng đối với thế giới và xã hội bất công. Đây cũng là một hình thức đấu tranh đòi công lý của phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết của nàng là một bi kịch lớn, nhưng nó đã làm thức tỉnh tầng lớp phong kiến và phụ quyền. Qua câu chuyện về cuộc đời và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân phẩm phụ nữ, chỉ trích chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Có phải người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn bị chà đạp dù có tài năng và phẩm hạnh cao quý:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh vẫn là lời chung
Phận đàn bà đầy đau khổ và tủi nhục, lễ giáo phong kiến là sợi dây oan nghiệt trói buộc, giam cầm họ trong khổ đau, khiến họ phải tìm đến cái chết để bảo vệ nhân phẩm.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” đã cho độc giả cái nhìn sâu sắc về thân phận và bi kịch của phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, đồng thời tôn vinh giá trị của người phụ nữ.