1. Alia Sabur
Nhắc đến các giáo sư trẻ nhất thế giới dạy đại học không thể không kể đến Alia Sabur. Cô nắm giữ kỷ lục Guinness là giáo sư trẻ tuổi nhất khi mới 18 tuổi. Sinh ngày 22 tháng 2 năm 1989, cô là người Mỹ, sinh và lớn lên ở New York. Bổ nhiệm giáo sư tại Đại học Konkuk, Hàn Quốc khi cô tròn 19, Alia Sabur giữ kỷ lục Guinness này đến nay.
Cô là người tốt nghiệp đại học trẻ thứ 6 thế giới khi mới 14 tuổi tại Đại học Stony Brook, New York, Mỹ, chuyên ngành Toán học ứng dụng. Lấy bằng thạc sĩ vào năm 17 tuổi tại Đại học Drexel, Philadelphia, ngành Khoa học vật liệu & kỹ thuật. Sau 1 năm làm giáo sư tại Đại học Konkuk, cô quay trở lại Mỹ làm luật sư sở hữu trí tuệ tại USPTO.
Ngoài thành tích học thuật, Alia còn là chủ nhân đai đen Teakwondo và nghệ sĩ chơi sáo clarinet trong dàn nhạc New York Youth Symphony.


2. Erik Demaine
Tại nước ngoài, giảng viên đại học được gọi là giáo sư. Trong số họ, giáo sư Erik Demaine là một trong những vị giáo sư trẻ tuổi nhất trong lịch sử MIT. Sinh ra ở Halifax, Nova Scotia, con trai của nghệ sĩ điêu khắc Martin L. Demaine và Judy Anderson, Erik được coi là thần đồng từ khi mới 7 tuổi. Thay vì theo đuổi đời sống bình thường, ông được cha dạy tại nhà và đi du lịch khắp Bắc Mỹ, học đếm từ khi mới 12 tuổi khi bắt đầu đại học.
Ông xuất sắc hoàn thành bằng cử nhân tại Đại học Dalhousie, Canada, khi mới 14 tuổi. Sau đó, ông hoàn thành bằng Tiến sĩ tại Đại học Waterloo sau 6 năm. Luận án của ông đã nhận Huy chương vàng Toàn quyền Canada từ Đại học Waterloo và Giải thưởng Tiến sĩ NSERC cho luận án xuất sắc nhất ở Canada.
Erik bắt đầu làm trợ giảng tại MIT từ năm 2001 và đến năm 2011, ông trở thành giáo sư toàn thời gian, giữ vị trí giáo sư trẻ tuổi nhất trong lịch sử MIT đến nay.


3. Colin Maclaurin
Trước Alia Sabur, Colin Maclaurin giữ kỷ lục giáo sư trẻ tuổi nhất đến tháng 3 năm 2008. Ông sinh vào năm 1698 tại Kilmodan, Argyll, Scotland. Ông được bổ nhiệm làm giáo sư khi mới 19 tuổi, đảm nhiệm giảng dạy tại trường Đại học Aberdeen chuyên ngành Toán học.
Ông nổi tiếng là thần đồng toán học từ khi mới 11 tuổi khi tham gia kỳ thi toán học cao cấp kéo dài 10 ngày và đạt vị trí đầu bảng. Ông nhận tấm bằng thạc sĩ khi mới 14 tuổi với luận án về sức mạnh của trọng lực. Ông tiếp tục nghiên cứu tại Glasgow và làm quen với Isaac Newton khi mới 21 tuổi. Năm 1725, ông được bổ nhiệm làm phó giáo sư toán học tại Đại học Edinburgh, nơi ông có nhiều đóng góp lớn trong lĩnh vực toán học và vật lý.


4. Terence Tao
Terence Tao, người gốc Úc Trung, sinh năm 1975, hiện là giáo sư Toán học tại Đại học California, Los Angeles. Ông trở thành giáo sư trẻ nhất ở đây khi chỉ mới 24 tuổi. Là người nhận Huy chương Fields và học bổng MacArthur năm 2006 cùng Giải thưởng Đột phá về Toán học năm 2014. Năm 2006, ông được tặng giải vì những đóng góp xuất sắc trong giảng dạy từ năm lên 9.
Ông là một trong 2 người trẻ duy nhất đạt trên 700 điểm trong kỳ thi SAT khi mới 8 tuổi. Là thí sinh nhỏ tuổi nhất tham gia Olympic Toán Quốc tế và giành giải đồng, bạc, và vàng vào các năm 1986, 1987, và 1988. Ông giữ kỷ lục với 3 huy chương vàng, bạc, và đồng liên tiếp trong lịch sử Olympiad và giành huy chương khi mới 13 tuổi.
Tao gia nhập Viện Nghiên cứu Khoa học khi 14 tuổi, xuất bản luận văn đầu tiên khi 15 tuổi. Nhận bằng cử nhân và thạc sĩ từ Đại học Flinders khi 16 tuổi. Năm 1992, ông đoạt học bổng Fulbright để nghiên cứu tiến sĩ tại Mỹ và nhận bằng tiến sĩ năm 21 tuổi. Ông giảng dạy tại Đại học California từ năm 1996, được bổ nhiệm làm giáo sư toàn thời gian tại UCLA khi mới 24 tuổi.


5. Charles Homer Haskins
Charles Homer Haskins, sinh vào những năm cuối thế kỷ 19 tại Meadville, Pennsylvania, Mỹ. Nổi tiếng với việc thạo tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp khi mới 10 tuổi. Hoàn thành bằng cử nhân ở Đại học Johns Hopkins khi 16 tuổi và tiếp tục đào tạo tiến sĩ tại Paris và Berlin.
Theo lịch sử Đại học Johns Hopkins, ông bắt đầu giảng dạy trước 20 tuổi. Năm 1890, trở thành giảng viên tại Đại học Wisconsin, sau đó hai năm, trở thành giáo sư chính thức. Từ 1892 đến 1902, ông là chủ tịch lịch sử châu Âu. Chuyển đến Đại học Harvard năm 1902 và giảng dạy đến năm 1931.
Ông đào tạo nhiều học trò nổi tiếng như Lynn White, Gaines Post, Carl Stephenson,... Trong đó, học trò xuất sắc nhất là nhà sử học thời trung cổ Joseph Strayer, người dạy cho nhiều học trò chủ nghĩa trung cổ tại đại học Princeton.


6. Charles Fefferman
Charles Fefferman, nhà toán học Mỹ đang làm việc tại Đại học Princeton, nổi tiếng với Huy chương Fields năm 1978 vì đóng góp cho giải tích toán học. Sinh ra trong một gia đình Do Thái tại Washington, Fefferman được coi là thần đồng nhí. Bắt đầu học đại học ở tuổi 14 tại Đại học Maryland và có bài báo khoa học đầu tiên ở tuổi 15. Tốt nghiệp toán học và vật lý sau hai năm, ông đoạt bằng tiến sĩ toán học tại Đại học Princeton với luận án 'Bất đẳng thức đối với toán tử tích chập số ít'. Trở thành giáo sư tại Đại học Chicago khi mới 22 tuổi, ông là giáo sư trẻ tuổi nhất Hoa Kỳ.
Fefferman giành giải thưởng Alan T. Waterman năm 1976 và là người đầu tiên nhận giải này, sau đó nhận Huy chương Fields năm 1978. Được bầu vào Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia năm 1979, ông là Giáo sư Herbert Jones tại Princeton từ năm 1984.


7. Stephen Wolfram
Stephen Wolfram , sinh năm 1959, là giáo sư chuyên ngành Vật lý, Toán học và Khoa học máy tính tại California Institute of Technology từ năm 21 tuổi. Không giống với các giáo sư trẻ khác, Wolfram từng bị đánh giá kém vì không thích toán sơ cấp. Ông chỉ thể hiện sự xuất sắc khi tiếp cận giải tích và vật lý cao cấp.
Wolfram đã xuất bản 3 cuốn sách về Vật lý Hạt khi mới 14 tuổi. Sau đó, ông nghiên cứu Vật lý lượng tử và được chấp nhận bởi cộng đồng chuyên gia khi mới 15 tuổi. Nhập học California Institute of Technology 18 tuổi, Wolfram hoàn thành bằng cử nhân 21 tuổi và sau đó trở thành giáo sư tại trường. Rời trường, ông thành lập Wolfram Research Inc., nổi tiếng với phần mềm Wolfram Mathematica.


8. Murray Gell-Mann
Murray Gell-Mann, nhà vật lý Mỹ, đoạt giải Nobel Vật lý năm 1969, là Giáo sư danh dự về Vật lý lý thuyết Robert Andrews Millikan tại Viện Công nghệ California và là một trong những người sáng lập Viện Santa Fe, đồng thời giảng dạy vật lý tại Đại học New Mexico.
Murray Gell-Mann học Đại học Yale từ năm 14 tuổi và tốt nghiệp bằng cử nhân vật lý. Ông đạt bằng tiến sĩ ở MIT năm 22 tuổi và giảng dạy ở Urbana-Champaign từ năm 1952. Sau đó, ông chuyển đến Caltech và đoạt giải Nobel năm 1969 với công trình về Hạt cơ bản, đặt tên cho các hạt nguyên tử. Gell-Mann giảng dạy tại nhiều trường, kết thúc sự nghiệp vào năm 1993 khi nghỉ hưu.

